Mỗi năm, vào rằm tháng bảy, huynh đệ trong chùa tôi đều thành kính
đọc Văn Chiêu hồn của cụ Nguyễn Du và khi đem mâm áo giấy đi đốt, nghĩ
đến thân phận những cô hồn không người cúng tế, trong lòng càng cảm
kích hơn đối với tình thương người của Cụ: "Đàn chẩn tế vâng lời
Phật giáo. Của có chi bát cháo nén nhang. Gọi là manh áo thoi vàng.
Giúp cho làm của ăn đàng thăng thiên. Ai đến đó dưới trên ngồi lại. Của
làm duyên chớ ngại bao nhiêu. Phép thiêng biến ít ra nhiều. Trên nhờ
tôn giả chia đều chúng sinh. Phật hữu tình từ bi phổ độ. Chớ ngại rằng
có có chăng chăng...".
Tro tiền bay lên, ai nấy cảm nhận như từ trong cõi lạnh vắng các
vong hồn đang trở về. Trong sự "cộng tồn" của hai cõi âm - dương, ai
không thể sống trọn nghĩa tử nghĩa tận của mình với người đi trước?
Huynh đệ tôi, người nghĩ bằng dạ và người nói bằng lời: "Cụ ơi, cụ theo
lời văn chiêu hồn về với những tu sĩ vô danh tiểu tốt chúng con Cụ nhé!
Lễ bạc lòng thành, chúng con chẳng có gì ngoài manh áo giấy và một ít
tiền vàng. Văn ấy là tình thương đời của Cụ, áo ấy là nhớ tưởng của
người đời sau chúng con. Chúng con nghĩ Cụ đã siêu việt luân hồi, nhưng
giữa cõi sống và cõi chết mong manh như tơ tóc, ở cái kiếp phù sinh như
hình bào ảnh này, người đời sau như chúng con vẫn kính nhớ Cụ. Xin Cụ
nhận cho chúng con của một chút này cũng chỉ là 'làm duyên' thôi ạ!".
Mùa Vu lan năm nay, tôi có nói với sư đệ: "Đến rằm tháng bảy, nhớ
nhắc nhau mua đốt biếu Cụ Nguyễn Du vài bộ khăn đống áo dài, đừng 'tiền
vàng' gì cả". Sư đệ của tôi bảo rằng: "Người ta đang phê phán ầm ầm
chuyện đốt vàng mã trên báo chí, rằng cái đó Phật có dạy đâu mà làm...".
Tôi không bàn gì về vấn đề của báo chí nói, mà tôi chỉ nói với sư đệ
tôi rằng: "Em đừng coi nhẹ văn hoá, vài bộ áo giấy thôi, nhưng cũng là
tấm lòng cả đấy. Cúng đốt như thế nào còn tuỳ theo tâm lý và động cơ
của mọi người".
Ước
chi mỗi khi ai đó tưởng nhớ đến người quá cố, xin hãy nghĩ về cái tâm
đã tạo của họ mà làm, chứ không phải bằng tâm vị kỷ, bằng sự phô trương
cúng lễ để cầu mong sự phù hộ độ trì một cách phù phiếm. Ảnh VNE |
Những năm gần đây, người Việt du nhập và vồ vập với
không ít những lễ hội đến từ bên ngoài, mức độ đánh giá về nó cũng khác
nhau theo cách cảm nhận riêng. Thiết nghĩ, dân tộc nào đã hình thành
quan niệm về hai cõi sống chết, thì với những hiện tượng tín ngưỡng,
văn hoá dân gian cũng cần phải được nhìn nhận cho công bằng. Đối với
người quá cố, cứ lấy một ví dụ về việc xây mộ to đẹp, chọn đất tốt để
táng cho mả phát. Vậy có lời dạy nào của Đức Phật về chuyện này không?
Thế mà từ bao đời nay, người ta vẫn xây mộ, thậm chí có nơi xây to như
căn nhà thật để dành cho người chết. Nếu không nhìn ở hiện tượng văn
hoá chung trên toàn thế giới về tưởng niệm người đã khuất bằng cách xây
mộ cho người chết "ở", thì đó cũng là một việc làm "mê tín", lãng phí,
khó có thể chấp nhận.
Khách quan mà nói, dịch vụ hàng mã phát đạt trong mấy năm gần đây
chính do sự bất thường của việc mở rộng không kiểm soát trong lĩnh vực
tín ngưỡng. Từ đó, dẫn đến những hành vi cầu cúng giống như một cách để
đổi chác danh lợi với thánh thần, với người đã khuất, chứ bản chất của
sự thờ cúng, xét dưới khía cạnh văn hoá cũng là một hình thức trả ơn,
là đạo lý. Ngày xưa, các vị vua phong kiến phong sắc cho các vị thiên
thần, nhân thần cũng không ngoài việc trả ơn cho họ để người dân thờ
cúng quanh năm; tôn vinh công trạng của họ, thần thánh hoá họ cũng
không ngoài việc khuyến khích cái trí, cái dũng, cái thiện của người
dân.
Người viết bài này không hề có bất cứ ủng hộ nào với việc rải tiền
giấy khắp đường khi đưa tang, và cũng không hề cảm tình gì với việc mua
sắm đủ thứ vật dụng đồ mã như nhà cửa, xe cộ, máy bay, người hầu...
giống như thật để đốt cho người đã khuất. Nhưng tại sao một vài manh
áo, một vài thoi vàng, cộng với tấm lòng thành lại không đầy đủ ý nghĩa
văn hoá và cả những giá trị nhân văn đằng sau nó?
Thử hình dung, nếu đến dịp tưởng niệm người chết, người ta chỉ chăm
chăm với cỗ bàn, bia rượu, đánh chén no say, thậm chí sau khi men rượu
ngấm vào còn xảy ra nhiều những tiêu cực, xáo trộn trong gia đình, thử
hỏi việc cúng giỗ ấy có còn ý nghĩa tốt đẹp gì không?
Chính bản thân tôi, từng khuyên người thân trong gia đình của mình
không nên đốt vàng mã một cách tốn kém trong các dịp cúng giỗ, nhưng
tôi không có ý định bảo rằng phải loại bỏ nó ra khỏi đời sống gia đình
chỉ vì không có kinh Phật nào dạy như vậy. Mẹ tôi cũng rất ý thức xem
lòng thành mới là điều quan trọng, nên sắm lễ rất chừng mực. Có người
đã nhầm lẫn, thậm chí vội vàng khi gạt bỏ hiện tượng tín ngưỡng trên ra
khỏi văn hoá Phật giáo. Thực tế, đó là những nét tín ngưỡng từ lâu đã
gắn kết với văn hoá Phật giáo và hoà hợp với văn hoá Phật giáo.
Không phải bất cứ những gì thuộc về văn hoá Phật giáo đều phải là
những điều có trong kinh điển, hay được Đức Phật nói ra. Phật giáo du
nhập vào mỗi quốc gia thì chính nó phần nào đã dần tách khỏi những yếu
tố gốc ban đầu để dung hội với tín ngưỡng bản địa. Những hình thức Phật
giáo quyền năng như xây chùa, tạo tượng, cúng tế, cầu siêu, bạt độ giải
oan... đâu hoàn toàn có trong kinh điển Phật giáo.
Tôi có người cậu ruột, cậu tôi rất quan tâm đến việc thờ cúng tổ
tiên, ông bà, trong bất cứ dịp cúng giỗ nào, cơm canh có thể thiếu thứ
này thứ kia, nhưng đĩa trầu cau, vài xấp quần áo giấy, vài đinh vàng âm
phủ, vài bó hương, vài đĩa hoa thì không bao giờ được thiếu. Vì tâm
thức luôn coi việc đó là có ý nghĩa với ông bà, nên mỗi khi có giỗ ông
bà, cậu mợ tôi đều đi chọn mua một vài bộ quần áo. Cậu tôi cho rằng cái
đó mà thiếu trong dịp lễ giỗ là có lỗi, vì cỗ bàn cúng xong, người sống
hưởng, người chết "có được gì"?
Sau này cậu tôi mắc bệnh nan y, khi gần mất, có dặn lại mợ tôi đừng
làm gì tốn kém, chỉ cần đến ngày giỗ đốt cho một ít quần áo là được
rồi. Lúc đó, tôi nghĩ đến câu "nhất thiết duy tâm tạo" trong kinh Hoa
Nghiêm, người cậu của tôi đã tạo ra cái tâm cúng ông bà và căn dặn mợ
tôi đừng làm gì cầu kỳ, tốn kém chỉ cần đốt cho vài bộ quần áo và ít
tiền giấy là được. Chính cái "tâm tạo" ấy mà tôi cho rằng cậu tôi sẽ
"nhận" được những gì mà mợ tôi đốt xuống. Ai không có cái tâm tạo ấy
thì giấy chỉ là giấy không hơn không kém. Để thì hòn đất mà cất thì
thành ông Bụt. Hơn nữa, với cái ân nghĩa vợ chồng bao năm, nay âm dương
đôi ngả, việc làm đó không phải không có ý nghĩa.
Nếu
ai đó bảo nén hương là nhịp cầu nối giữa hai cõi âm dương, thì dăm ba
manh áo, thoi vàng là sự nhớ nghĩ và quan tâm đến đói lạnh của nhau.
Ảnh: Anhpt.com |
Sau tôi mới dần hiểu ra, cũng như một số hình thức táng người chết
của Tây Tạng, nhiều khi phải phơi xác cho chim ăn, bởi lúc sống họ luôn
nghĩ làm vậy thì mới được siêu thoát, vì thế lúc chết, ai không làm như
vậy với họ mới chính là không thương họ. Nhưng nếu áp dụng vào văn hoá
người Việt thì quả là bất nhẫn. Khó có thể so sánh sự cao thấp văn hóa
khi cả hai dân tộc Tạng và Việt đều ảnh hưởng sâu đậm Phật giáo. Các
vùng đất giàu truyền thống Phật giáo như Nhật Bản, Tây Tạng, Đài Loan
đều có phong tục đốt vàng mã, phong tục này đi song song với việc thờ
cúng người quá cố. Các vùng đất ấy đạo Phật phổ biến, nhưng đâu phải
ai cũng có đủ bản lĩnh siêu thoát để bước ra khỏi cái nhân gian tình
người, luôn lấy "duyên" làm sự bén rễ này. Nhân gian luôn có nhiều gam
màu sắc, nhưng thương yêu vẫn là màu đậm nhất để nhận biết sự hơn hẳn
của con người.
Hình ảnh mợ tôi cầm vài bộ quần áo giấy, vừa đốt vừa ngùi ngùi thủ
thỉ với người cậu đã khuất của tôi, xem như cậu tôi đang còn sống, đã
thế còn không quên mua thêm một ít để đốt cho những người không ai thờ
cúng, không nơi nương tựa đang "ngụ" ở chung quanh khu đất ấy, thực sự
mang đến cho tôi không ít niềm trắc ẩn. Nếu ai đó bảo nén hương là nhịp
cầu nối giữa hai cõi âm dương, thì dăm ba manh áo, thoi vàng là sự nhớ
nghĩ và quan tâm đến đói lạnh của nhau. Ăn miếng ngon nhớ tới người,
mặc cái ấm nhớ tới người, để không quên những lúc đói lòng, những khi
giá buốt mà tình chồng nghĩa vợ đã san sẻ cho nhau. Đó là một nét đẹp
văn hoá. Chính vì cảm nhận nét đẹp văn hoá ấy, nhìn cảnh người người đổ
xô đi mua sắm đồ mã giống như nhà thật, xe thật để phô trương mà càng
cảm thấy buồn cho người Việt mình. Ước gì dân mình đều biết nghĩ như cụ
Nguyễn Du "Gọi là manh áo thoi vàng, giúp cho làm của ăn đàng thăng thiên".
Sự hoá giải lớn nhất của Phật giáo cho hiện tượng văn hoá "đốt mã"
này không đến từ sự lên án, tẩy chay, mà đến từ lời Văn Chiêu hồn của
cụ Nguyễn Du. Cụ đã hiểu "phép Phật thần thông quảng đại", nên mới nhắn
nhủ các vong linh rằng: "Ai đến đó dưới trên ngồi lại. Của làm duyên
chớ ngại bao nhiêu. Phép thiêng biến ít ra nhiều. Trên nhờ tôn giả chia
đều chúng sinh". Lời văn ấy đã xoá đi cái ranh giới của thân phận
giàu nghèo, xoá đi cái tâm lý giành giật chen trước ngồi trên. Vì đã có
phép thiêng biến ít ra nhiều, chia đều một cách bình đẳng, thì còn ngại
gì việc mình không có phần, ngại gì mình đến trước đến sau, và người
sống cũng còn lý do gì để tranh nhau mua những thứ đồ vàng mã đắt tiền,
thực tế chỉ để làm đầy túi người kinh doanh mà thôi.
Có bốn điều mà cá nhân tôi liên tưởng ra trong hành động đốt tiền
vàng giấy cho người quá cố (chắc trong dân gian còn có điều thứ năm,
thứ sáu... và còn nhiều điều phải tranh luận nữa), đó là: sự lo sợ
người thân sẽ phải đói lạnh và mong muốn họ được đầy đủ như mình; gián
tiếp tạo nên hay khuyến khích phẩm chất nhớ ơn, biết ơn trong gia đình;
hướng đến những ứng xử nhân quả trong việc thờ cúng tổ tiên; biết lo
nghĩ đến đói khổ của người khác (dù là người khuất bóng) không kể thân
sơ thì cũng làm tăng trưởng lòng từ bi hỷ xả, không bòn xẻn. Bốn điều
ấy chắc chắn sẽ tác động không nhỏ vào đời sống thực tiễn hàng ngày.
Văn hoá là như vậy chứ đâu. Sự giao thoa của đạo Phật và văn hoá bản
địa cũng có bao giờ đi ra ngoài những ứng xử nhân văn như vậy đâu? Tôi
nghĩ, cụ Nguyễn Du đã tận hết sự thương người. Trong tiết tháng bảy mưa
rầm sùi sụt, một vài manh áo, thoi vàng được đốt lên, người dưới kia
tin chắc lòng sẽ ấm lên nhiều lắm. Xin đừng vội lên tiếng mạt sát, hay
chợt nhìn vào một vài sự thái quá của nó mà vội đẩy nó ra khỏi mình,
vội xem nó như là cái gì đó mê tín, tệ đoan ghê gớm.
Tình thương người của cụ Nguyễn Du sở dĩ thấu suốt đến nghìn đời, vì
Cụ đã nhìn đời bằng con mắt của đời. Ước chi mỗi khi ai đó tưởng nhớ
đến người quá cố, xin hãy nghĩ về cái tâm đã tạo của họ mà làm, chứ
không phải bằng tâm vị kỷ, bằng sự phô trương cúng lễ để cầu mong sự
phù hộ độ trì một cách phù phiếm.
Một năm có vài ba dịp, bỏ ra vài ba đồng tiền thật để mua một chút
"của làm duyên", dùng tâm từ mà đốt thì còn ngại gì âm dương cách
biệt...
Mong ai đó đừng tiếp tục để sự phô trương núp danh phong tục truyền
thống. Cũng mong ai đó đừng vội đuổi nó như đuổi tà, bởi chính cái tâm
lý phủi đẩy người khác để đề cao mình mới đáng sợ trong đời sống ứng xử
văn hoá, tận diệt văn hoá.
Thích Thanh Thắng ( Tuần Việt Nam)