Ngày lễ Vu lan bắt nguồn từ sự tích ngài Mục Kiền Liên, một trong
mười vị đại đệ tử của Đức Phật Thích Ca, nhờ vào phúc đức cúng dường
phẩm vật lên chư Tăng trong ngày Tự tứ và sức chú nguyện của Tam bảo mà
mẹ của ngài thoát được kiếp khổ ngạ quỷ, sinh về thiên giới.
Ngày nay, bên cạnh việc cúng dường, tạo phúc trong ngày lễ Vu lan,
tín đồ Phật tử còn tổ chức các sinh hoạt tôn giáo, văn hóa, văn nghệ
mang đậm nét nhân văn, thu hút được sự tham gia của đông đảo quần chúng
nhân dân.
Chính vì vậy mà ngày Vu lan đã được nâng tầm trở thành một ngày lễ
hội, không chỉ với người Phật tử, mà cả những người không phải là Phật
tử cũng hưởng ứng tham gia. Cũng chính vì những sinh hoạt đi kèm này mà
lễ hội Vu lan ở mỗi quốc gia đều có nét đặc trưng riêng, điển hình như
lễ hội Vu lan ở Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Việt Nam...
Ở Trung Hoa, đến mùa Vu lan, người ta đi thăm viếng phần mộ của
người thân đã quá cố và sửa sang, quét dọn lăng mộ. Họ cúng thực phẩm và
giấy tiền, vàng mã cho những người đã khuất. Họ đốt giấy tiền, vàng mã
để cúng cho người quá cố và tin rằng, khi đốt những đồ hàng mã ấy thì
linh hồn người mất sẽ nhận được, nhờ vậy mà các vong linh ấy đỡ khổ, đỡ
vất vả, đồng thời không quấy rầy đến các công việc làm ăn, sinh sống của
người còn sống, ngược lại còn phò hộ cho người sống được ăn nên làm
ra.
Trong ngày lễ Vu lan, chư Tăng thường tổ chức các buổi lễ cầu
nguyện cho người đã quá cố. Thường thì người Phật tử ở Trung Hoa tổ chức
lễ Vu lan từ ngày 15 tháng 7 cho đến ngày 30 tháng 7 âm lịch. Và người
ta còn quan niệm rằng, trong những ngày ấy, cửa địa ngục sẽ mở ra cho
các vong linh về thăm người thân của họ, cho đến ngày 30 tháng 7 thì cửa
ngục đóng lại. Cũng trong dịp này, tín đồ Phật tử ở Trung Hoa còn làm
các việc phúc thiện: bố thí, cúng dường, phóng sinh... để hồi hướng công
đức cho cha mẹ và người thân của mình.
Ở Nhật Bản, lễ hội Vu lan được gọi là lễ hội Urabon-e hay là lễ hội
Obon, hoặc đơn giản chỉ gọi là lễ hội Bon. Lễ hội Obon được tổ chức ở
Nhật Bản đã hơn 500 năm nay. Lễ Obon ở Nhật Bản thường được tổ chức kéo
dài trong ba ngày, có khi được kéo dài cả tuần lễ, nên được gọi là Tuần
lễ Obon. Ngày đầu tiên là ngày đón mừng lễ hội, còn ngày cuối cùng được
xem là ngày tạm biệt lễ hội.
Mặc dù lễ hội Obon lúc đầu được tổ chức với ý nghĩa là để dâng phẩm
vật lên linh hồn của tổ tiên, ông bà đã quá cố, dần dần lễ hội này trở
thành một sự kiện thường niên; bên cạnh việc dâng phẩm vật cho tổ tiên,
ông bà, lễ Obon còn là dịp để mọi người tặng quà đến người thân, bạn bè
và cả những ân nhân, những người cấp trên. Cũng trong dịp này, tín đồ
Phật tử thường dâng cúng phẩm vật lên chư Tăng để nhờ chư Tăng cầu
nguyện và hồi hướng phúc đức cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ.
Vào dịp lễ hội Obon, mọi người đều trở về quê hương của mình, đoàn
tụ với người thân trong gia đình để cùng bày tỏ lòng thành kính tri ân,
lòng hiếu thảo đến tổ tiên, ông bà. Cũng trong những ngày này, người
Nhật dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, dâng cúng hoa quả, phẩm vật lên bàn thờ
Phật, bàn thờ gia tiên.
Trong ngày đầu tiên của lễ hội Obon, người ta treo và thắp sáng các
lồng đèn ở phía trước nhà, đi thăm viếng lăng mộ của người thân đã quá
cố, quét dọn vệ sinh, tu sửa lăng mộ vàmời linh hồn tổ tiên, ông bà, cha
mẹ đã quá vãng về đoàn tụ với con cháu. Ở một số vùng, lồng đèn không
những được treo ở trong nhà mà còn được treo dọc theo các con đường dẫn
vào nhà để hướng dẫn linh hồn người quá vãng.
Vào ngày cuối cùng của lễ hội Obon, người ta đem lồng đèn đến thả ở
các sông, hồ, các bờ biển, xem như để tiễn đưa linh hồn của người quá
cố về với thế giới của họ. Thông thường, trong đêm thả lồng đèn, người
ta còn đốt pháo hoa.
Bên cạnh đó, vào những đêm Obon, hầu hết người dân Nhật đều tham
gia hoạt động Bon Odori, ca múa theo những vũ điệu dân gian. Bon Odori
được tổ chức tại các đường phố, công viên, sân vườn, đền miếu, hoặc
trong khuôn viên chùa. Người dân mặc trang phục yukata (kimono mùa hè)
và nhảy múa xung quanh sân khấu ngoài trời. Bất cứ ai cũng có thể tham
gia Bon Odori.
Ngày nay, lễ hội Obon không chỉ được tổ chức ở trên đất nước Nhật
Bản mà còn được tổ chức ở nhiều nơi trên thế giới, ở đâu có cộng đồng
người Nhật sinh sống thì ở đó người ta có tổ chức lễ hội.
Ở Malaysia, ngày lễ Vu lan còn gọi là Ngày Tổ tiên, hay là Lễ hội
tháng Bảy. Bên cạnh những việc làm thể hiện tinh thần hiếu đạo của người
Á châu trong mùa Vu lan, như: thăm viếng lăng mộ, tảo mộ, dâng cúng
phẩm vật cho người thân đã quá cố, cúng dường Tam bảo để hồi hướng công
đức cho ông bà, cha mẹ, người ta còn tổ chức nhiều sinh hoạt tôn giáo,
văn hóa mang những sắc thái riêng của quốc gia này.
Vào ngày Vu lan, hàng trăm, và đôi khi hàng nghìn người, tập trung
đến các chùa để tụng kinh, cầu nguyện cho người quá cố và cúng dường lên
Đức Phật. Theo phong tục, vào ngày lễ Vu lan, người dân nghỉ làm tất cả
các công việc đồng áng và cử hành nghi thức siêu độ vong linh.
Trước đây, mỗi khi Vu lan đến, người ta đốt rất nhiều giấy tiền,
vàng mã, hình nhân và các vật dụng bằng giấy. Việc đốt vàng mã này xuất
phát từ văn hóa tín ngưỡng dân gian, bắt nguồn từ văn hóa tín ngưỡng
Trung Hoa, chứ hoàn toàn không liên quan đến giáo lý đạo Phật - Phật
giáo không khởi xướng và không cổ xúy cho vấn đề này. Những năm gần đây,
nhờ sự hướng dẫn của chư Tăng và sự phát triển nhận thức của người Phật
tử, nên việc đốt vàng mã cũng đã bớt đi nhiều.
Bên cạnh đó, vào ngày Vu lan, người Phật tử Malaysia còn tổ chức
các hội diễn văn nghệ quần chúng tại các khu dân cư, có sự tham gia
nhiệt tình của các ca sĩ, vũ công, người diễn kịch,... Tất cả mọi chi
phí cho việc tổ chức văn nghệ và các hoạt động của lễ hội trong ngày Vu
lan đều do quần chúng Phật tử tự nguyện đóng góp.
Tại Ấn Độ ngày nay, tuy không có ngày lễ Vu lan, nhưng tinh thần
hiếu đạo trong những người con Phật thì từ xưa cho đến nay đều luôn tỏ
rõ. Trước hết là gương sáng hiếu hạnh của Đức Thế Tôn, Người đã nhiều
lần về thăm phụ vương và giúp phụ vương chứng thánh quả trước giờ phút
lâm chung, lên cung trời Đao Lợi để thuyết pháp giáo hóa cho thân mẫu;
rồi đến gương hiếu hạnh của các vị đại đệ tử của Phật, như ngài Xá Lợi
Phất, Mục Kiền Liên,...
Tinh thần hiếu hạnh trong Phật giáo Ấn Độ không chỉ thể hiện qua
những tấm gương hiếu thảo của các vị xuất gia mà còn được biểu hiện qua
sự cúng dường của hàng Phật tử tại gia nhằm hồi hướng công đức cho cha
mẹ. Rất nhiều bia ký được tìm thấy tại các di tích Phật giáo ở khắp Ấn
Độ đều cho thấy rằng, trong suốt nhiều thế kỷ, các nhà sư cũng như tín
đồ Phật giáo, từ hoàng tộc cho đến dân chúng đã xây chùa, dựng tháp, tạc
tượng, dâng y... để cúng dường Tam bảo, ngõ hầu hồi hướng công đức cho
cha mẹ, tổ tiên và pháp giới chúng sinh.
Ở Việt Nam chúng ta, cùng với sự hồi sinh và phát triển của Phật
giáo, lễ Vu lan ngày càng được tổ chức quy mô, trọng thể. Ngày lễ Vu lan
đã trở thành “ngày hội hiếu” của tín đồ Phật tử Việt Nam, một số người
không phải là Phật tử cũng tham gia vào ngày hội này. Cũng trong ý nghĩa
báo hiếu công ơn của tổ tiên, ông bà, cha mẹ và cứu giúp cho các vong
linh, người Phật tử ở nước ta thường đến chùa tụng kinh, cầu nguyện,
cúng dường Tam bảo để hồi hướng công đức cho ông bà, cha mẹ và cho pháp
giới chúng sinh.
Nhiều nơi còn tổ chức Đại lễ trai đàn chẩn tế để cúng dường, bố thí
và cầu nguyện cho chư vị âm linh, vong linh cô hồn. Bên cạnh đó còn có
các chương trình biểu diễn văn nghệ, các chương trình văn hóa, nghệ
thuật Phật giáo, làm tôn vinh thêm giá trị của ngày lễ Vu lan, thu hút
đông đảo quần chúng tham gia, nâng cao tinh thần hiếu đạo, tri ân và báo
ân trong lòng người dân Việt.
Có một nghi thức rất đặc biệt, rất riêng, hầu như chỉ có người Việt
mới tổ chức trong ngày lễ Vu lan, đó là nghi thức cài hoa hồng. Việc
cài hoa hồng này mới được cử hành khoảng 50 năm trở lại đây, nhưng đã
tạo ấn tượng sâu sắc và vô cùng cảm động trong lòng người tham gia.
Chính nghi thức cài hoa hồng này đã khiến cho nhiều người phải thổn thức
khi trân trọng cài hoa lên ngực áo, khiến không biết bao nhiêu người
rơi nước mắt khi phải ngậm ngùi cài lên ngực áo một đóa hồng màu trắng;
và thông qua lễ cài hoa hồng này mà có không ít người đã hồi tâm tỉnh
giác, trở nên hiếu thảo với cha mẹ hơn, sống tốt hơn.
Tuy rằng, lễ Vu lan chỉ phổ biến và phát triển trong cộng đồng Phật
tử ở các nước theo truyền thống Phật giáo Đại thừa, nhưng ở các nước
theo Phật giáo Nguyên thủy, như Lào, Thái Lan, Campuchia, một số nhóm
Phật tử cũng có tổ chức lễ Vu lan. Dù đa phần Phật tử ở các nước này
không có khái niệm về lễ Vu lan, nhưng tinh thần hiếu đạo mà Đức Phật đã
dạy thì vẫn luôn được tuân theo, vẫn luôn thể hiện rõ trong những ngày
vào mùa an cư và ngày kết thúc mùa an cư của chư Tăng.
Tại các nước theo Phật giáo Nam truyền, vào ngày đầu tiên của mùa
an cư, người Phật tử dù có đi đâu, làm gì cũng đều trở về quê nhà, quây
quần bên ông bà, cha mẹ, người thân của mình để cúng tổ tiên ông bà đã
quá cố, bày tỏ lòng hiếu kính của mình đối với ông bà, cha mẹ hiện còn,
và cúng dường Tam bảo để hồi hướng công đức cho người thân; vào ngày chư
Tăng kết thúc mùa an cư, hàng Phật tử tại gia, bất kể giàu nghèo, sang
hèn đều đến chùa dâng phẩm vật cúng dường Tam bảo để tạo phúc lành và
hồi hướng cho thân nhân đã quá vãng cũng như hiện còn đời này.
Lễ hội Vu lan dù được tổ chức ở đâu, dưới hình thức nào đi nữa thì ở
đấy vẫn có một điểm chung, vẫn toát lên một tinh thần chung, đó là tinh
thần hiếu đạo của người Phật tử. Ngày hội Vu lan là ngày để người con
Phật bày tỏ lòng hiếu thảo của mình, để thực hiện nghĩa cử tri ân báo ân
đối với hai đấng sinh thành, đối với tổ tiên, ông bà, trải rộng lòng
thương đến cả những vong linh cô hồn và cả những mảnh đời bất hạnh hiện
đang còn sống.
Đây là một ngày lễ hội rất có ý nghĩa, cần phải được bảo tồn và phát
triển, phải làm sao để nó trở thành một ngày lễ hội của quần chúng, vượt
qua giới hạn của tôn giáo, tín ngưỡng, để cho tinh thần hiếu đạo được
thấm nhuần trong lòng mọi người, để cho con người trở nên thuần từ và
trung hiếu hơn.
Theo: Nguyệt san Giác Ngộ 185