Giao thừa là gì? Theo từ điển Hán Việt của Ðào Duy Anh
nghĩa là cũ giao lại, mới đón lấy. Chính vì ý nghĩa ấy, nên hàng năm
vào lúc giao tiếp giữa hai năm cũ, mới này, có lễ trừ tịch.
* Lễ trừ tịch
Trừ tịch là giờ phút cuối cùng của năm cũ sắp bắt đầu qua năm mới. Vào lúc này, dân chúng Việt Nam
theo cổ lệ có làm lễ trừ tịch. Ý nghĩa của lễ này là đem bỏ hết đi
những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới
sắp đến. Lễ trừ tịch còn là lễ để "khu trừ ma quỷ", do đó có từ "trừ
tịch". Lễ trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên còn mang tên là lễ giao
thừa.
* Cúng ai trong lễ giao thừa
Tục ta tin rằng mỗi năm có một ông hành khiển coi việc nhân gian, hết
năm thì thần nọ bàn giao công việc cho thần kia, cho nên cúng tế để tiễn
ông cũ và đón ông mới. Lễ giao thừa được cúng ở ngoài trời là bởi vì
các cụ xưa hình dung trong phút cựu vương hành khiển bàn giao công việc
cho tân vương luôn có quân đi, quân về đầy không trung tấp nập, vội vã
(nhưng mắt trần ta không nhìn thấy được), thậm chí có quan quân còn chưa
kịp ăn uống gì.
Những phút ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả, toàn đồ ăn
nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà trời đã cai
quản mình năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản
hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn
trương nên các vị không thể vào trong nhà khề khà mâm bát mà chỉ có thể
dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng
thành của chủ nhà.
* Sửa lễ giao thừa
Người ta cúng giao thừa tại các đình, miếu, các văn chỉ trong xóm cũng
như tại các tư gia. Bàn thờ giao thừa được thiết lập ở giữa trời. Một
chiếc hương án được kê ra, trên có bình hương, hai ngọn đèn dầu hoặc hai
ngọn nến. Lễ vật gồm: chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, mứt kẹo,
trầu cau, hoa quả, rượu nước và vàng mã, đôi khi có thêm chiếc mũ của
Ðại Vương hành khiển.
Ðến giờ phút trừ tịch, chuông trống vang lên, người chủ ra khấu lễ, rồi
mọi người kế đó lễ theo, thành tâm cầu xin vị tân vương hành khiển phù
hộ độ trì cho một năm nhiều may mắn. Các chùa chiền cũng cúng giao thừa
nhưng lễ vật là đồ chay. Ngày nay, ở các tư gia người ta vẫn cúng giao
thừa với sự thành kính như xưa nhưng bàn thờ thì giản tiện hơn, thường
đặt ở ngoài sân hay trước cửa nhà.
|
Sắp lễ cúng giao thừa (Ảnh minh hoạ) |
* Tại sao cúng giao thừa ngoài trời
Dân tộc nào cũng coi phút giao thừa là thiêng liêng. Các cụ ta quan
niệm: Mỗi năm Thiên đình lại thay toàn bộ quan quân trông nom công việc
dưới hạ giới, đứng đầu là một ngài có trí như quan toàn quyền. Năm nào
quan toàn quyền giỏi giang anh minh, liêm khiết thì hạ giới được nhờ
như: được mùa, ít thiên tai, không có chiến tranh, bệnh tật...Trái lại,
gặp phải ông lười biếng, kém cỏi, tham lam thì hạ giới chịu mọi thứ khổ.
Các cụ hình dung phút ấy ngang trời quân đi, quân về đầy không trung
tấp nập, vội vã (nhưng mắt trần ta không nhìn thấy được) thậm chí có
quan quân còn chưa kịp ăn uống gì. Những phút ấy, các gia đình đưa xôi
gà, bánh trái, hoa quả, toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng
thành tiễn đưa người nhà Trời đã cai quản mình năm cũ và đón người nhà
trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới.
Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị
không thể vào trong nhà khề khà mâm bát mà chỉ có thể dừng vài giây ăn
vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ
nhà..
* Lễ cúng Thổ Công
Sau khi cúng giao thừa xong, các gia chủ cũng khấn Thổ Công, tức là vị
thần cai quản trong nhà. Lễ vật cũng tương tự như lễ cúng giao thừa.
* Mấy tục lệ trong đêm trừ tịch
- Sau khi làm lễ giao thừa, các cụ ta có những tục lệ riêng mà cho đến
nay, từ thôn quê đến thành thị, vẫn còn nhiều người tôn trọng thực hiện.
- Lễ chùa, đình, đền: Lễ giao thừa ở nhà xong, người ta kéo nhau đi lễ
các đình, chùa, miếu, điện để cầu phúc, cầu may, để xin Phật, Thần phù
hộ độ trì cho bản thân và gia đình và nhân dịp này người ta thường xin
quẻ thẻ đầu năm.
- Kén hướng xuất hành: Khi đi lễ, người ta kén giờ và hướng xuất hành, đi đúng hướng đúng giờ để gặp may mắn quanh năm.
- Hái lộc: Ði lễ đình, chùa, miếu, điện xong người ta có tục hái trước
cửa đình, cửa đền một cành cây gọi là cành lộc mang về ngụ ý là "lấy
lộc" của Trời đất Thần Phật ban cho. Cành lộc này được mang về cắm trước
bàn thờ cho đến khi tàn khô.
- Hương lộc: Có nhiều người thay vì hái cành lộc lại xin lộc tại các
đình, đền, chùa, miếu bằng cách đốt một nắm hương, đứng khấn vái trước
bàn thờ, rồi mang hương đó về cắm và bình hương bàn thờ nhà mình.Ngọn
lửa tượng trưng cho sự phát đạt được lấy từ nơi thờ tự về tức là xin
Phật, Thánh phù hộ cho được phát đạt quanh năm.
- Xông nhà: Thường người ta kén một người "dễ vía" trong gia đình ra đi
từ trước giờ trừ tịch, rồi sau lễ trừ tịch thì xin hương lộc hoặc hái
cành lộc ở đình chùa mang về. Lúc trở về đã sang năm mới và ngưòi này sẽ
tự "xông nhà" cho gia đình mình, mang sự tốt đẹp quanh năm về cho gia
đình. Nếu không có người nhà dễ vía người ta phải nhờ người khác tốt vía
để sớm ngày mồng một đến xông nhà trước khi có khách tới chúc tết, để
người này đem lại sự may mắn dễ dãi.