I.
“Tiết tháng bảy mưa dầm, sùi sụt”
(thơ Nguyễn Du)
Hằng năm, tháng bảy là mùa Vu Lan, mùa báo hiếu. Chúng ta cầu nguyện,
tưởng nhớ đến hai bậc sinh thành đã khuất. Ở cõi xa kia, các vị có gì
vui? Chắc là không vui, vì nghiệp quả như sóng với nước không thể tách
rời, cứ đuổi theo nhau. Và trong niềm hoài cảm lại chợt nhớ tới bao
nhiêu người khác, vì lý do nào đó, trong bể khổ trần ai phải lang thang
đầu đường xó chợ, xiêu lạc không mồ mả, chẳng còn ai nhớ đến. Có thể kể
đến những chiến sĩ hy sinh nơi trận mạc, tới nay vẫn chưa tìm được tông
tích. Gọi chung hết thảy là “Thập loại chúng sinh”.
Mâm cúng cô hồn tháng bảy thật giản đơn nhưng bày tỏ tấm lòng, gồm cháo
gạo nếp, khoai nấu, trái cây, mía cắt khúc, gạo, muối, nhất là không
thiếu quần áo bằng giấy đủ màu xanh, vàng, đỏ. Trong khói hương đèn leo
lét, hai cõi âm dương như mở cửa giao nhau. Vui nhất là đám trẻ con, mỗi
năm chúng như đợi ngày này. Người lớn cúng xong thường để cả mâm trái
cây, mía cho chúng dành nhau. Có người còn chuẩn bị cả một ít tiền lẻ để
ném ra cho lũ trẻ.
Tục lệ lâu đời khó lòng cắt nghĩa, nhưng qua các hình ảnh ghi nhận trong
tháng bảy cũng có thể hiểu, tục lệ trong mùa Vu-lan-bồn nhằm giúp cho
tâm hồn con người rộng mở ra với nhiều cõi ngoài. Chính vì nó hay, nó
tốt, nên nó mới tồn tại ăn sâu vào lòng người dân Việt. Xin đừng vội cho
là mê tín dị đoan. Ngay cả những người không theo đạo Phật, chắc cũng
thấy được ý nghĩa nào đó ở mùa Vu Lan. Tôi đã thấy rất nhiều người cũng
bày mâm cúng giống như tín đồ Phật giáo.
Tháng bảy, tiết trời đầu thu, mưa gió réo rắt buồn sao! Tháng bảy, trời
đất như có điều gì đó gây cho người niềm hoài cảm, gợi nhớ cả không
gian, thời gian. Bao kỷ niệm thân thương từ đâu hiện về. “Ngửa mặt lên
trời kêu cha mẹ ơi đang ở đâu!” Những kỷ niệm ra đi không bao giờ trở
lại! Có lẽ cũng trong tâm trạng này mà ngài Mục-kiền-liên đã ra đi đến
tận chốn âm cung để gặp mẹ mình. Và ngài thật may mắn hơn người khác ở
chỗ là biết được mẹ của mình mắc phải tội lỗi gì. Vì thế, dù không tự
mình cứu được mẹ, ngài cũng đã hết lòng khẩn khoản cầu xin đức Phật từ
bi chỉ dạy pháp cứu rỗi. Và cuối cùng, nhờ sự chuyên tâm cầu nguyện của
chính ngài và chư tăng mười phương, bà mẹ ngài mới được siêu thoát. Sự
kiện ấy đã để lại cho chúng ta một tập tục tốt đẹp, mỗi năm đến rằm
tháng bảy lại bâng khuâng nhớ đến những bậc sinh thành, dù là còn sống
hay đã mất.
Trong chúng ta, chắc chắn chẳng có ai muốn trở thành người con bất hiếu.
Nhưng sự thật trong đời sống lại rất thường là “Cha mẹ nuôi con biển
trời lai láng, con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày”. Biết bao người con
đã lớn lên trong vòng tay cha mẹ nhưng lại rất vô tình không nhớ đến,
hoặc có nhớ đến cũng không có được một tấm lòng “biển trời lai láng” để
đáp đền công ơn cha mẹ!
II.
Cái làm mòn mỏi tâm hồn chúng ta chính là không gian quen thuộc, những
suy nghĩ, những thói quen. Chúng dìm người chết đuối trong sự quen thuộc
ấy mà vẫn không hay biết, vẫn cho mình đã đầy đủ bổn phận! Vì vậy, có
người thỉnh thoảng mua một món quà cho cha mẹ, hoặc đi chùa cầu nguyện
cho cha mẹ chỉ như việc tình cờ. Tuy nhiên, cũng phải ghi nhận cái việc
tình cờ ấy. Vì con người sống giữa vô minh, mấy khi được một giây phút
loé sáng, vượt qua những thói quen của bản thân để tìm về với suối nguồn
vi diệu?
Tấm lòng cha mẹ nuôi con như thế nào, có lẽ chúng ta không sao cảm nhận
được hết. Nhưng chỉ bằng những hình ảnh đã được người đời ghi nhận, có
lẽ cũng đã đủ để giúp chúng ta hiểu được phần nào cái mênh mông không
cùng tận và những ân tình vời vợi của công cha nghĩa mẹ. Tình cờ tôi
chợt nhớ đến bài ca dao “Con cò ăn đêm”. Tôi chắp tay thầm cám ơn người
đã nghĩ ra những câu ca dao tuyệt vời như thế này:
Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi, ông vớt tôi nao,
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.
Vì sao? Vì sao? Rõ ràng hình ảnh con cò đã nói hộ con người. Con vạc ăn
đêm đã đành, vì sao con cò là loại ăn ngày mà phải lặn lội ban đêm?
Chẳng qua là vì bầy con nhỏ dại đang cần sống. Đi kiếm ăn trong đêm tăm
tối mà lại mang đôi cánh trắng, trước sau gì cũng rơi vào cạm bẫy của
người giăng ra khắp nơi. Cất tiếng kêu “Ông ơi, ông vớt tôi nao” nghe
đau xót biết bao! Nhưng kẻ đã rơi vào cạm bẫy, còn ai vớt, ai cứu? Cuối
cùng, cò hiểu ra đành phải chấp nhận số phận. Thật là cao cả thay, đến
lúc sa cơ thất thế cò vẫn nhớ đến con tha thiết, còn sợ đứa con buồn
lòng hơn chính mình buồn. Cò khẩn thiết van xin:
Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con!
Rõ ràng đó là tình thương vô điều kiện của cha mẹ dành cho con cái.
Ngoài việc lo lắng miếng ăn, giấc ngủ cho con, còn bao trùm cả việc lo
lắng con có danh dự, phẩm giá, cho được hơn người. Không để con vì mình
mà tủi hổ với đời.
Con cò sắp thiệt thân mà vẫn không lo cho mình, chỉ sợ cò con đau lòng
vì mình phải xáo bằng nước đục... Có bao nhiêu con cò con hiểu được nỗi
lòng ấy của cò mẹ? Trong ngày rằm tháng bảy, mong sao những lời cầu
nguyện cho cha mẹ không chỉ là những lời cầu nguyện chung chung. Lòng
hiếu của chúng ta tuy không sánh được với ngài Mục-kiền-liên, nhưng ít
ra chúng ta cũng phải thấu hiểu được tấm lòng cha mẹ!
III.
Phước thay cho những ai còn đầy đủ cha mẹ, còn có dịp bày tỏ lòng hiếu
thảo ngay trong lúc cha mẹ đang tại thế. Thử hình dung sự vui sướng của
các bậc sinh thành khi được con cái lo lắng, chăm sóc. Niềm vui sướng ấy
thật hồn nhiên, mộc mạc đến nỗi có lắm người được con cho quà nhưng
không chịu mở ra, cứ để nguyên mà nhìn ngắm mãi...
Bốn mùa xuân đứng đầu.
Trăm nết hiếu đứng đầu.
Chắc chắn chúng ta ai cũng đồng ý rằng lòng hiếu thảo đối với cha mẹ
trong lúc đang còn sống bao giờ cũng đáng quý hơn là đợi đến khi cha mẹ
qua đời. Nhưng thế nào là hiếu thảo với cha mẹ? Người xưa cho rằng muốn
báo hiếu thì trước phải sinh con nối dõi tông đường, sau là phụng dưỡng
cha mẹ. Nhưng hầu hết các bậc cha mẹ ngày nay trong thâm tâm lại không
vì những việc ấy, chỉ mong sao cho con mình được nên người hữu ích, được
thành đạt hơn người. Người xưa nói: “Hùm chết để da, người ta chết để
tiếng.” Cha mẹ chỉ mong con tạo được danh thơm tiếng tốt để lại cho đời,
nên đây cũng là một cách báo hiếu của người làm con: sống thật tốt để
mang đến niềm vui và danh dự cho cha mẹ. Những người làm con có thể dùng
nhiều hình thức để báo đáp công ơn cha mẹ, nhưng không nên quên đi niềm
mong ước đơn sơ này của các vị.
Đức Phật có dạy: “Cha mẹ không làm cho con cái buồn tủi, con cái không
để cho cha mẹ phải chịu nhục.” Nghe qua có vẻ thật giản đơn, nhưng trong
cuộc sống nếu chúng ta luôn biết nghĩ đến những điều này thì có lẽ sẽ
chẳng bao giờ bị lôi cuốn vào những việc xấu xa tội lỗi. Lòng hiếu thảo
với cha mẹ theo cách này sẽ bảo vệ chúng ta khỏi mọi cám dỗ trong đời
sống. Và vì thế, chắc chắn là chúng ta sẽ có thể mang về những niềm vui
trong sáng cho các vị, khiến các vị luôn hài lòng và hãnh diện vì đã
sinh thành và nuôi dưỡng một đứa con ngoan.