Giới thiệu & Giảng giải Luận tạng
Chú Giải Thuyết Luận Sự
Nguyên tác: Kathāvatthuppakarana Atthakathā Biên dịch Anh ngữ: Bimala Churn Law, PhD., M.A, BL. Biên dịch Việt ngữ: Tỳ Kheo Thiện Minh
13/10/2554 08:30 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng


MỤC LỤC

 

Lời Tựa
Lời Giới Thiệu

CHƯƠNG I - Nhân ngữ (puggalakathā)

I. Ðiểm tranh luận: Bản ngã
II. Ðiểm tranh luận: Hoại lìa (Parihāni)
III. Ðiểm tranh luận: Phạm hạnh (brahmacariya) (tức là cuộc sống thánh đức)
IV. Ðiểm tranh luận: Thanh tịnh dần dần (tiệm tiến)(odniso)
V. Ðiểm tranh luận: Diệt Tà (điều ác) (Jahati: thanh lọc ô nhiễm).
VI. Ðiểm tranh luận: "Vạn vật tồn tại" (sabbamatthIIti).
VII. Ðiểm tranh luận: "Quá khứ uẩn" (AtIItakhandhā)
VIII. Ðiểm tranh luận: "Một số điểm (quá khứ và tương lai của chúng ta) vẫn đang tồn tại." (Ekacca mathIIhi)
IX. Ðiểm tranh luận: "Niệm xứ" (sati patthāna)
X. Ðiểm tranh luận: "Các phương thức bất biến tồn tại ra sao." (Hevatthiti)

CHƯƠNG II

I. Ðiểm tranh luận: "Ô nhiễm của vị A-la-hán (parūpahāra)".
II. Ba điểm tranh luận: (1) Liệu vô minh có khả năng xảy nơi một vị A-la-hán hay không (2) Liệu vị A-ha-hán có gặp rắc rối hay không. và (3) Ngài có khả năng trổi vượt hơn người khác hay không.
III. Ðiểm tranh luận: "Phát âm khi nhập thiền" (vaci) (của người nhập Thiền Jhāna).
IV. Ðiểm tranh luận: "Nhập Thiền quán do (thốt lên) từ "Phiền Não".
V. Ðiểm tranh luận: "Tâm Ðình Trụ" (Citta
ṭṭhiti).
VI. Ðiểm tranh luận: "Cõi đời giới này (giống như) một đống tro tàn." (kukkula)
VII. Ðiểm tranh luận: "Thành tích dần được thể hiện"
VIII. Ðiểm tranh luận: "Ngôn ngữ của Ðức Phật" (Vehāra).
IX. Ðiểm tranh luận: "Diệt Ðế hay chấm dứt" (Nirodha).

CHƯƠNG III

I. Ðiểm tranh luận: "Lực hay Sức Mạnh" (Bala).
II. Ðiểm tranh luận: Phẩm chất (gọi là) thánh đức. (Ariyati)
III. Ðiểm tranh luận: "Giải Thoát" (vimuccati)
IV. Ðiểm tranh luận: "Tiến trình giải thoát" (vimuccamana).
V. Ðiểm tranh luận: "Người thứ tám (atthamaka)"
VI. Ðiểm tranh luận: "Quyền (Indriya) của người thứ tám".
VII. Ðiểm tranh luận: "Thiên nhãn" (dibbacakkhu).
VIII. Ðiểm tranh luận: "Thiên Nhĩ" (dibbasota).
IX. Ðiểm tranh luận: "Trí thấy hạnh nghiệp chúng sanh (Yathā kamūpagatañā
a)."
X. Ðiểm tranh luận: "Những Thu Thúc Ðạo Ðức (sa
vara)."
XI. Ðiểm tranh luận: "Cuộc Sống Vô Tưởng (asañña)."
XII. Ðiểm tranh luận: "Phi tưởng phi phi tưởng hữu (nevasaññānāsaññāyatana)".

CHƯƠNG IV

I. Ðiểm tranh luận: "Liệu một cư sĩ có trở thành A-la-hán được không?" (gahisa arahāti)
II. Ðiểm tranh luận: "Một người có thể thành A-la-hán khi vừa tục sinh".
III. Ðiểm tranh luận: "Không vướng phải nguyên nhân ô nhiễm (anāsava)."
IV. Ðiểm tranh luận: "Giữ lại Thánh quả" (samannā gata).
V. Ðiểm tranh luận: "Một vị A-la-hán được phú cho Lục Xả Vô Ký"
VI. Ðiểm tranh luận: "Nhờ hành vi Giác Ngộ, Ta trở thành ‘Ðấng Giác Ngộ’."
VII. Ðiểm tranh luận: Quan điểm của phái Uttarapathakas
VIII. Ðiểm tranh luận: Bắt đầu được Bảo đảm. (Nyam’okkhanti)
IX. Ðiểm tranh luận: Tài năng thiên phú
X. Ðiểm tranh luận: Việc trừ khử tất cả gông cùm (Sa
yojana).

CHƯƠNG V

I. Ðiểm tranh luận: Giải Thoát (vimutta).
II. Ðiểm tranh luận: Tuệ của Bậc Vô học (asekha).
III. Ðiểm tranh luận: (nhận thức) sai lạc hay ảo giác (khi nhập thiền Jhāna).
IV. Ðiểm tranh luận: Thánh Ðạo Nhất Ðịnh (niyāma).
V. Ðiểm tranh luận: Tuệ Phân tích (Pati Sambhidā).
VI. Ðiểm tranh luận: Phàm tuệ hay tục trí (sammantiñā
a).
VII. Ðiểm tranh luận: Ðối tượng tâm linh (cittārama
a).
VIII. Ðiểm tranh luận: Thiền Quán Tương Lai.
IX. Ðiểm tranh luận: Trí hiện tại.
X. Ðiểm tranh luận: Tuệ Quả (phalañā
a).

CHƯƠNG VI

I. Ðiểm tranh luận: Ðịnh luật chắc chắn (niyāma).
II. Ðiểm tranh luận: Luật duyên khởi (Paticcasamuppāda).
III. Ðiểm tranh luận: Tứ diệu đế (Sacca).
IV. Ðiểm tranh luận: Bốn Cõi Vô Sắc Giới (arūpa)
V. Ðiểm tranh luận: Thành tích Nhập Ðịnh Diệt (Nirodha samāpatti).
VI. Ðiểm tranh luận: Không gian (ākāsu).
VII. Ðiểm tranh luận: Khoảng không có thể thấy (ākāsasanidassana).
VIII. Ðiểm tranh luận: "Phải chăng nguyên tố đất là hữu hình?"

CHƯƠNG VII

I. Ðiểm tranh luận: Phân loại các vật thể.
II. Ðiểm tranh luận: Các trạng thái tương ưng (samyutta).
III. Ðiểm tranh luận: Những đặc tính tâm linh (cetasika).
IV. Ðiểm tranh luận: Bố Thí (Dana)
V. Ðiểm tranh luận: Công đức hệ tại tính hưởng dụng (Paribhogamayapuñña).
VI. Ðiểm tranh luận: Quả do bố thí đem lại ngay trên cõi đời này.
VII. Ðiểm tranh luận: Trái đất này và kết quả của nghiệp đem lại (PathavII kammavipāka).
VIII. Ðiểm tranh luận: Lão, tử và thành quả của nghiệp (Jāramara
avipāka).
IX. Ðiểm tranh luận: Các hiện trạng trí tuệ thánh đức và những Thánh quả từ đó mà ra (quả của Thánh nghiệp).
X. Ðiểm tranh luận: Những Pháp quả tạo ra Pháp quả (vipākovipāka dhammadhamnioti).

CHƯƠNG VIII

I. Ðiểm tranh luận: Các cảnh giới tái sanh (gati) (đa dạng).
II. Ðiểm tranh luận: Hiện trạng tái sinh trung gian (Thân trung ấm) (antorābhava: Trung hữu).
III. Ðiểm tranh luận: Những khoái cảm thọ quan (Kāmagu
ā).
IV. Ðiểm tranh luận: Các dục vọng giác quan.
V. Ðiểm tranh luận: Nguyên tố (uẩn) Sắc giới (Rūpadhātu).
VI. Ðiểm tranh luận: Vô Sắc Giới cũng vậy. Ở đây ta nên hiểu ý nghĩa bằng cùng một phương pháp nêu trên.
VII. Ðiểm tranh luận: Xứ nơi cõi Sắc Giới.(rūpadhātuyā-āyatana).
VIII. Ðiểm tranh luận: Sắc pháp nơi Cõi Vô Sắc Giới. (arūpe rūpa)
IX. Ðiểm tranh luận: Sắc hành động (rūpa
kammanti).
X. Ðiểm tranh luận: Mạng quyền (Jivitindriya)
XI. Ðiểm tranh luận: Nghiệp là nhân duyên (kammahetu).

CHƯƠNG IX

I. Ðiểm tranh luận: (Giải thoát nhờ quả phúc) Ðiều thiện.(ānisasa)
II. Ðiểm tranh luận: Bất Diệt là đối tượng suy tư.
III. Ðiểm tranh luận: Sắc có thể biết đối tượng là tâm linh (Rūpa
Sārammaati).
IV. Ðiểm tranh luận: Tùy miên không có cảnh không có đối tượng tâm linh (anusayā anāramma
ti).
V. Ðiểm tranh luận: Trí quán không biết cảnh (Ñā
a anārammaanti).
VI. Ðiểm tranh luận: Những quan điểm cảnh quá khứ. (atIItāramma
a)
VII. Ðiểm tranh luận: Ðiểm áp dụng tâm linh tiên khởi.
VIII. Ðiểm tranh luận: Âm thanh như là cách truyền tải các ứng dụng tâm linh tiên khởi và kéo dài.
IX. Ðiểm tranh luận: Lời nói không phù hợp với tư tưởng (nayathā cittassa vācātika).
X. Ðiểm tranh luận: Hành động (hay tác nghiệp) không khớp với tư tưởng.
XI. Ðiểm tranh luận: Chứng đạt về kinh nghiệm quá khứ và tương lai còn hiện hữu.

CHƯƠNG X

I. Ðiểm tranh luận: Việc kết thúc (Diệt - Nirodha).
II. Ðiểm tranh luận: Cho rằng sắc pháp (của bất kỳ ai đang tu luyện Thánh đạo) cũng gộp cả trong Thánh Ðạo đó.
III. Ðiểm tranh luận: Ðạo Tuệ Tưởng của người đang có được Ngũ Thức Căn.
IV. Ðiểm tranh luận: Hai luật đạo đức.
V. Ðiểm tranh luận: Nhân đức tự động mà có.
VI. Ðiểm tranh luận: Nhân đức không được tiến hành theo đúng như tư tưởng.
VII. Ðiểm tranh luận: Công đức không tiến triển theo đúng việc nắm giữ giới luật.
VIII. Ðiểm tranh luận: Các hành vi tiên liệu việc công đức.
IX. Ðiểm tranh luận: Hành vi đạo đức không được tiên liệu là phi đạo đức.

CHƯƠNG XI

I. Ðiểm tranh luận: Ba sự kiện liên quan đến các khuynh hướng tiềm tàng, có nghĩa là (i) vô nhân (ahetu) (không rõ ràng, mập mờ.) (II) vô ký (abyākatā). và (IIi) không tương ưng tâm.
II. Ðiểm tranh luận: Tuệ quán (ñā
a).
III. Ðiểm tranh luận: Tuệ không liên kết với tư tưởng.
IV. Ðiểm tranh luận: "Ðây chính là Khổ Ðế!"
V. Ðiểm tranh luận: Phép Thần Thông (iddhi)
VI. Ðiểm tranh luận: Nhập định (Dục thần túc) (Samāthi).
VII. Ðiểm tranh luận: Ðịnh đề nơi vạn vật. Pháp được tiên liệu (dhama
ṭṭhitatā).
VIII. Ðiểm tranh luận: Tính Vô Thường (aniccatā).

CHƯƠNG XII

I. Ðiểm tranh luận: Tự kiềm chế là một nghiệp (tích cực) (Savaro kammanti).
II. Ðiểm tranh luận: Nghiệp.
III. Ðiểm tranh luận: Tiếng nói được coi như là dị thục quả (saddo vipākoti).
IV. Ðiểm tranh luận: Sáu giác quan.
V. Ðiểm tranh luận: Bậc Thất Lai.
VI. Ðiểm tranh luận: Người chiếm được thứ bậc cao hơn nơi Thánh Ðạo bậc một, và điều liên quan đến "người giao hạt" nên được hiểu theo cùng một cách thức như trên.
VII. Ðiểm tranh luận: Tội giết người (JIIvitavoropana).
VIII. Ðiểm tranh luận: Khổ cảnh giới (dugati).
IX. Ðiểm tranh luận: Kẻ nào đã đạt đến tái sanh lần thứ bảy.

CHƯƠNG XIII

I. Ðiểm tranh luận: Ðịa ngục vô gián trọn kiếp (kappattha).
II. Ðiểm tranh luận: Phần thưởng suốt đời dành cho người đạt được thành tích tốt.
III. Ðiểm tranh luận: Kẻ xúi dục phạm nghiệp vô quán (autarāpayulta).
IV. Ðiểm tranh luận: Những vị Bồ-tát nhất định (niyatajjaniyāma).
V. Ðiểm tranh luận: Những ai bị chướng ngại (nivārana) ngăn cản (nivutta).
VI. Ðiểm tranh luận: Người "buộc phải giáp mặt" với những gông cùm.
VII. Ðiểm tranh luận: Người nhập và đạt đến bậc thiền Jhāna (Samāpanna assadesi).
VIII. Ðiểm tranh luận: Lòng tham muốn đối với những điều khó chịu.
IX. Ðiểm tranh luận: Pháp ái đối với pháp vô ký.
X. Ðiểm tranh luận: Pháp ái (dhammata
hā) không phải là nguyên nhân tạo Khổ.

CHƯƠNG XIV

I. Ðiểm tranh luận: Tính liên tục hỗ tương giữa thiện và bất thiện.
II. Ðiểm tranh luận: Lục Xứ.
III. Ðiểm tranh luận: Liên tục trực tiếp nơi giác quan.
IV. Ðiểm tranh luận: Thân, khẩu của một vị thánh.
V. Ðiểm tranh luận: Những khuynh hướng tiềm ẩn tách riêng ra một bên.
VI. Ðiểm tranh luận: Những bộc phát tùy miên (anusya).
VII. Ðiểm tranh luận: Sắc ái "gồm chung lại"
VIII. Ðiểm tranh luận: Những gì chưa được khám phá.(Abyākata)
IX. Ðiểm tranh luận: Không liên quan (đến luân hồi). (apariyāpanna)

CHƯƠNG XV

I. Ðiểm tranh luận: Mối tương quan (nhân quả đặc biệt cố định) (paccaya)
II. Ðiểm tranh luận: Nhân duyên hỗ tương. (annamannapaccaya)
III. Ðiểm tranh luận: Tương tục (santati) thời gian. (addha)
IV. Ðiểm tranh luận: Những chốc lát, những lúc, những giây lát ngắn ngủi
V. Ðiểm tranh luận: Những lậu hoặc (tức là những nguyên nhân đồi bại) (āsava).
VI. Ðiểm tranh luận: Lão và tử. (Jarāmarana)
VII. Ðiểm tranh luận: Diệt, Tưởng, Thọ, Thức (thuộc lãnh vực siêu phàm).
VIII. Ðiểm tranh luận thứ nhì về Tưởng và nhận thức
IX. Ðiểm tranh luận thứ ba về Tưởng và nhận thức
X. Ðiểm tranh luận: Việc đạt đến vô tưởng.
XI. Ðiểm tranh luận: Nghiệp và việc tích lũy những nghiệp đó.

CHƯƠNG XVI

I. Ðiểm tranh luận: Ðiều khiển [tâm tha nhân.]
II. Ðiểm tranh luận về hỗ trợ tâm tha nhân
III. Ðiểm tranh luận: Tạo hạnh phúc nơi tha nhân. (sukhānuppabāna)
IV. Ðiểm tranh luận: Chăm lo cho chúng sanh cùng một.
V. Ðiểm tranh luận: Sắc pháp và nhân thiện (rūpa
hetūti).
VI. Ðiểm tranh luận về vật chất đi kèm với những nhân duyên đạo đức
VII. Ðiểm tranh luận: Vật chất hiểu là điều thiện và điều bất thiện dưới góc độ đạo đức.
VIII. Ðiểm tranh luận: Vật chất là (chánh) quả.
IX. Ðiểm tranh luận: Vật chất thuộc cõi Sắc Giới [Phạm Thiên (Brahma)] và Cõi Vô Sắc Giới.
X. Ðiểm tranh luận: Tham dục suốt đời nơi cõi Sắc Giới và Vô Sắc Giới.

CHƯƠNG XVII

I. Ðiểm tranh luận: Vị A-la-hán đã tích lũy công đức như thế nào (atthi arahato punnupaccayoti).
II. Ðiểm tranh luận: Vị A-la-hán không phải trải qua cái chết không đúng thời (Natthi arahato akālamaccūti).
III. Ðiểm tranh luận: Cho toàn bộ là do nghiệp mà ra. (Sabbamida
kammatoti)
IV. Ðiểm tranh luận: Tất cả đều qui về khả năng cảm thọ.
V. Ðiểm tranh luận: Chỉ được giải thoát nhờ Chánh Ðạo
VI. Ðiểm tranh luận: Không nên nói: Tăng Bảo nhận của bố thí.
VII. Ðiểm tranh luận: Chẳng nên nói : "Tăng Bảo tẩy uế của bố thí"
VIII. Ðiểm tranh luận: Chẳng nên nói: Tăng Bảo hưởng của bố thí.
IX. Ðiểm tranh luận: Không nên nói rằng: Bất kỳ điều gì dâng cho Tăng Bảo cũng đều mang lại phần thưởng to lớn.
X. Ðiểm tranh luận: Chẳng nên nói: Bất kỳ điều gì được dâng cho Ðức Phật đều mang lại phần thưởng to lớn.
XI. Ðiểm tranh luận: Việc tinh luyện của bố thí.

CHƯƠNG XVIII

I. Ðiểm tranh luận: Nơi ở của Ðức Thế Tôn trên cõi phàm này (manussaloka).
II. Ðiểm tranh luận: Việc (Ðức Phật) thuyết pháp.
III. Ðiểm tranh luận: Lòng Ðại Bi (Ðức Thế Tôn đã cảm thấy) (Karu
ā)
IV. Ðiểm tranh luận: Những mùi thơm (nơi con người Ðức Phật) (gandhajāti)
V. Ðiểm tranh luận: Chánh Ðạo duy nhất và có một không hai (Ekamagga).
VI. Ðiểm tranh luận: Sự chuyển hóa giữa các bậc thiền Jhāna.
VII. Ðiểm tranh luận: Kẻ nhập Thiền Jhāna vẫn có thể nghe thấy tiếng động.
VII. Ðiểm tranh luận: Chúng ta có thể nhìn thấy đối tượng thị giác bằng mắt trần (khi nhập thiền Jhāna)

CHƯƠNG XIX

I. Ðiểm tranh luận: Khử trừ ô nhiễm. (kilesajahana)
II. Ðiểm tranh luận: Trống Rỗng (Sunnatā)
III. Ðiểm tranh luận: Sa-môn quả (Sāmannāphala). (là vô vi).
IV. Ðiểm tranh luận: Thành tích đạt được (là vô vi). (patti: chứng ngộ)
V. Ðiểm tranh luận: Như thị (như như) (tathāta)
VI. Ðiểm tranh luận: Ðiều thiện xét dưới góc độ đạo đức. (kusala)
VII. Ðiểm tranh luận: Thành tích đạt đến Nhất định (viyama).
VIII. Ðiểm tranh luận: Quyền (Indriya)

CHƯƠNG XX

I. Ðiểm tranh luận: Tội ác không cố ý. (Asañcicca)
II. Ðiểm tranh luận: Tuệ giác (Na
a).
III. Ðiểm tranh luận: Những lính canh địa ngục.(Nirayapāla)
IV. Ðiểm tranh luận: Súc sinh [nơi cõi bên kia] (Tiracchāna)
V. Ðiểm tranh luận: Chánh Ðạo. (Magga)
VI. Ðiểm tranh luận: Tuệ giác (Nā
a)

CHƯƠNG XXI

I. Ðiểm tranh luận: Giáo Lý [của chúng ta](Sāsavā)
II. Ðiểm tranh luận: Kinh nghiệm về những gì tồn tại riêng rẽ. (Avirittathā)
III. Điểm tranh luận: Gông cùm. (Sa
yojana)
IV. Ðiểm tranh luận: Phép Thần Thông Biến Hoá. (Iddhi)
V. Ðiểm tranh luận: Các Phật nhân. (Buddha)
VI. Ðiểm tranh luận: Ðức Phật hiện diện khắp mọi nơi. (Sabhadisa)
VII. Ðiểm tranh luận: Ðạt-ma (Dhamma)
VIII. Ðiểm tranh luận: Nghiệp (Kamma).

CHƯƠNG XXII

I. Ðiểm tranh luận: Sự viên tịch (Parinibbāna).
II. Ðiểm tranh luận: Tâm đạo đức. (Kusalacitta)
III. Ðiểm tranh luận: Tâm điềm tĩnh. (Anenja)
IV. Ðiểm tranh luận: Am hiểu Giáo pháp
V. Một bào thai đạt đến Bậc A-la-hán như thế nào
VI. Ðiểm tranh luận: Ðiều vô ký (abyākata)
VII. Ðiểm tranh luận: Tương quan tái tục.
VIII. Ðiểm tranh luận: Tính nhất thời. (Sát-na - kha
a)

CHƯƠNG XXIII

I. Ðiểm tranh luận: Quyết tâm tác hợp.
II. Ðiểm tranh luận: Những biểu hiện bề ngoài nơi các vị A-la-hán.
III. Ðiểm tranh luận: Thành tích đạt được qua tham quyền cố vị.
IV. Ðiểm tranh luận: Tình trạng giả vờ trước tính ái và v.v...
V. Ðiểm tranh luận: Những gì chưa rõ ràng.

LỜI BẠT

 

 

LỜI TỰA

 

Tập Chú Giải Thuyết Luận Sự (Kathavatthu) là bản dịch tiếng Anh đầu tiên, do ngài Minayeff (J.P.T.S. 1889) biên tập. Khác với tập Chú Giải Bộ Pháp Tụ (Atthasalini) hay Sammohavinodanti [1] ở chỗ, tập Chú Giải này không đặt tựa đề riêng cho từng Chương như trong bộ Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), có tên là tập Chú Giải Thuyết Luận Sự (Kathavatthuppakarana)

Tập Chú Giải Thuyết Luận Sự (Kathavatthu) là một trợ giúp không thể thiếu cho việc nghiên cứu các kinh văn Pāli, có nhiều đoạn không được rõ ràng. Tập Chú Giải này, sẽ giúp chúng ta làm rõ nhiều điểm gúc mắc trong kinh văn Pāli, vô cùng quan trọng xét dưới góc độ lịch sử.

Kinh văn giới thiệu cho chúng ta những cuộc tranh luận diễn ra giữa các Tăng già Nguyên thuỷ và các trường phái Phật giáo vào thời kỳ đầu, đặc biệt không nhắc đến tên các nhà tranh luận hiện hành và có khả năng tiềm tàng. Tập chú giải cung cấp cho chúng ta tên tuổi của những người ủng hộ những điểm tranh luận này. Họ không phải chỉ thuộc một hay nhiều trường phái trong số mười bảy trường phái ly giáo nổi lên trước triều đại nhà vua Asoka. Cũng cần lưu ý là những tường thuật về mười tám trường phái đầu tiên lại dựa trên thẩm quyền bản Biên Niên Sử Pāli ngay từ giai đoạn đầu. Ðó là tập Ðảo sử (dipavamsa) được trích dẫn đích danh (trang 3-5). Có một điểm mới là trong bản Chú Giải của chúng tôi Bahulikas được biết đến với tên là Bahusrutikas (tr. 2)

Trong lời giới thiệu, tập chú giải đề cập một cách hệ thống đến sáu Trường Phái Hậu Asoka -- đó là Hemavataka, Rajagirika, Siddhatthika, Pubba-seliya, Apara-seliya và Vajiriya (tr. 5)- trong khi đó trong thân bài lại qui một số điểm cho các trường phái như Uttarapathaka, Andhaka, Vetulyaka, Hetuvada và Maha-Sannatavadins, nhưng lại không đả động gì đến các trường phái Vajiriyas và Hemavatakas.

Một sự thỏa thuận chung giữa truyền thống, một bên là các trường phái xuất hiện trong tập chú giải của ngài Ðại đức Buddhaghosa, và bên kia trong các tác phẩm của Vasumitra. Bhavya, Vinitadeva và các nhóm khác do bà Rhys David thảo luận đến trong lời tựa của bà tập cho rằng Những Ðiểm Tranh Luận (Points of Controversy) sau này, là bản dịch của tập Thuyết Luận Sự, do S.Z.Aung chia sẻ. Ðối với tôi, nói một cách chính xác, điều còn lại của tập chú giải, là tên của Andhaka gồm bốn trường phái khác nhau sau đây: Pubba-seliya, Aparaseliya, Rajagirrika và Siddhatthika (I. 9). Việc bỏ qua Vajiriyas, chính xác là tên xuất phát từ Vajira, một địa danh nằm ở vùng Tây Bắc Ấn Ðộ, rất có thể sự kiện các địa danh này đồng nhất với Uttarapathakas mà ra. Nhưng mối tương quan này đã được vạch ra ở đâu đó. Khả năng rất có thể ai đó có tên Pāli là Vetulyaka hay là Vetullaka, đây có thể do viết sai từ chữ Vepulyaka hay là Vepullaka, tiếng Phạn viết là Vaipulyakas,

Một điều rất thú vị cần lưu ý, là Nhà Chú giải đã liên kết Vetulyakas với Mahasunnatavadins nơi một số mạch văn (XVII. 6-10) tác phẩm sau này, là một tên thích hợp dành cho trường phái Prajna, hay là Vajira thuộc phái Nam tông. Ông này không cho chúng ta biết, người Hetuvadins là ai. Cho dù một số điểm dứt khoát được gán cho họ. Toàn bộ những điểm như vậy cần được xem xét một cách kỹ lưỡng.

Tập Chú Giải cuốn I cụ thể là về Puggalakatha, thực sự rất quan trọng về khía cạnh lịch sử Tăng già, cùng với một số ít các Thuyết sư (Katha). Toàn bộ những tập còn lại, chỉ là sự phát triển tiệm tiến đối với chính kinh văn mà thôi.

Tôi vô cùng biết ơn bà Rhys Davids, vì đã biên tập và thông qua bản thảo tay của bản dịch này và giúp tôi bằng nhiều đề nghị quí báu. Tôi vô cùng biết ơn bà, vì đã chấp nhận bản dịch của tôi trong số các bản dịch thuộc Hội P.T.S.

BIMALA CHURN LAW
43, Kallas Boss Street Calcutta.
Ngày 23 tháng chín năm 1939
.

 

 

LỜI GIỚI THIỆU

 

Cung kính đức Thế Tôn, Ðấng A-la-hán Toàn Giác.

Ngự giữa cõi chư Thiên có đoàn quần thần chư Thiên đông đảo bao quanh, ngài là Ðấng Vô Song. Bậc Thế Tôn nơi cõi trần gian và cõi chư Thiên, kiệt xuất không ngôn từ và quan điểm nào kể xiết - nhân vật siêu phàm, kết thúc bài thuyết pháp của mình chỉ định rõ như sau: Ðịnh rõ bản chất nhân loại v.v... công bố đường nét cho cuốn sách viết veà Những Ðiểm Tranh Luận (P. of C.), đưa ra bản tường trình về "Bản Ngã"và những điểm tranh luận tương tự. Chỉ nhìn qua bản nội dung, được bắt đầu kiến thiết những toà nhà hết sức phong phú như vậy, ngay trên cõi đời này, con trai của Moggali đã lấp đầy bằng toàn bộ những chi tiết phong phú. Giờ đây, do bởi những phương án chú giải đã được đề ra, tôi xin được chấp bút lời bình về những gì được ghi lại trong cuốn sách này. Xin hãy lắng nghe một cách nghiêm túc.

Sau khi đã thực hiện Song thông (Twin-Miracle), Ðức Thế Tôn đã nhập an cư kiết hạ, tại thành phố Tam Thập Nhất (Thrice Ten), ngay dưới cây cổ thụ Coral, trên đỉnh ngọn núi Pandukambala. (Và tại đó) có sự hiện diện của mẹ ngài để chứng kiến mọi việc diễn ra, ngài đã thuyết pháp cho toàn thể các vị chư Thiên, về các vấn đề bổ sung cho Giáo pháp. Sau khi ngài đã diễn giảng Dhammasangani, Vibhanga, Dhatukatha và tập tài liệu Puggala-pannatti. ngài nghĩ: Trong tương lai, sẽ đến lượt diễn giảng tập Thuyết luận sự (Kathavatthu), thì đồ đệ của thầy, ngài Hòa thượng Tissa đầy khôn ngoan, con trai của Moggali, sau khi đã tẩy sạch những vết nhơ nổi lên trong Giáo pháp (sasana) và tổ chức Ðại hội lần thứ Ba, ngài chủ tọa giữa Tăng già, ngài đã chia bản biên tập này thành một ngàn tập kinh (suttana), năm trăm bản kinh được gán cho quan điểm của chính những người phái Sakavadins của ngài, năm trăm bản kinh còn lại thuộc quan điểm của các phái đối nghịch theo phái Paravadins. Tạo ra cơ hội này, bắt đầu việc nghiên cứu gồm tám Chương bàn về "bản ngã" (person) tóm gọn trong bốn câu hỏi, mỗi câu hỏi gồm hai Chương, chia ra thành năm đoạn, tôn trọng theo một qui trình được chọn lọc trong toàn bộ các bài tranh luận. Ngài đã để ra một bản nội dung, bằng một đoạn văn chưa hoàn chỉnh, làm thành một đoạn để "tụng". Rồi sau đó, ngài đã diễn giảng đầy đủ chi tiết Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), sau khi đã kết thúc an cư kiết hạ, ngài đã rời cõi trời Tam Thậpp Tam Thiên bằng chiếc thang đá quí, nằm giữa hai chiếc thang vàng và bạc, bắc từ cõi chư Thiên, xuống tận thành phố Sankassa, và như vậy ngài hoàn tất công trình tế độ cho chúng sanh và nhập Níp-bàn (Paranibbana).[2]

Ngay sau đó, có sự hỗ trợ của nhà vua Ajatasattu, một nhóm những người ủng hộ ngài, dẫn đầu là Ðại đức Ca Diếp (Kassapa), đã sưu tầm một bộ phận những giáo lý (Giáo pháp) và giới luật. Cuộc sưu tầm kéo dài một trăm năm mới kết thúc, chư vị Tỳ-khưu Vajjipattaka công bố giảm nhẹ các qui luật gồm mười điểm[3]. Nghe thấy vậy Trưởng lão Yasa, con trai Brahmin Kakandaka với sự giúp đỡ của vua Asoka, con trai của Susunaga, liền chọn bảy trăm Trưởng lão trong số mười hai ngàn vị Tỳ-khưu và sau khi đã hủy bỏ mười giới luật đó, sưu tầm thêm một bộ Tín Lý và Luật tạng mới. Lại bị chính những Trưởng lão đã thực hiện bộ tín lý và luật tạng đó bác bỏ, mười ngàn vị Tỳ-khưu thuộc giáo phái Vajjiputtaka, sau khi thu thập các đồ đệ và chỉ kiếm được sự ủng hộ nội bộ yếu ớt, họ tách ra và thiết lập một giáo phái riêng (nghĩa đen là nhóm Thế Tôn) gọi là (1) giáo phái Mahasanghika. Ly khai khỏi giáo phái này, lại xuất hiện hai giáo phái khác là: (2) Gokulikas và (3) Ekobboharikas. Ly khai khỏi giáo phái Gokulikas, nổi lên hai giáo phái khác nữa đó là: (4) giáo phái Pannattivadins và (5) giáo phái Bahulikas, hay cũng thường được gọi chung là (6) Cetiyavadins. Như vậy xuất phát từ giáo phái Mahasanghikas, vào thế kỷ thứ hai, có năm giáo phái nổi lên. Những giáo phái này cùng với giáo phái Mahasanghikas làm thành sáu giáo phái Phật giáo.

Vào thế kỷ thứ II, chiû có hai giáo phái ly khai khỏi phái Phật giáo Nguyên thủy (Theravada): đó là giáo phái (1) Mahimsasakas và giáo phái (2) Vajjiputtakas.

Lúc này, lại có bốn giáo phái khác nổi lên, ly khai khỏi giáo phái Vajiputtkas đó là (3) giáo phái Dhammuttariyas, (4) giáo phái Bhadrayanikas, (5) giáo phái Channagarikas và giáo phái (6) Sammitiyas. Còn nữa, cũng trong thế kỷ thứ II, lại có hai giáo phái ly khai khỏi giáo phái Mahimsasakas, đó là (7) giáo phái Sabbatthivadins và giáo phái (8) Dhammaguttikas. Rồi lại nữa, ly khai khỏi giáo phái Sabbatthivadins, ta thấy lại nổi lên giáo phái (9) Kassapikas và giáo phái Kassapikas, sau đó lại phân chia và nổi lên thành giáo phái (11) Suttavadins. Như vậy, ly khai khỏi Phật giáo Nguyên thủy (Theravada) là mười một giáo phái khác. Cùng với giáo phái Phâït giáo Nam tông nguyên thuỷ (Theravadins) là mười hai giáo phái khác nhau.

Như vậy cùng với mười hai giáo phái này, cộng với sáu giáo phái thuộc nhóm Mahasanghikas, làm thành tất cả mười tám giáo phái nổi lên vào đầu thế kỷ thứ III. Họ còn được biết đến, là mười tám nhóm và được coi như là mười tám môn phái. Trong số mười tám môn phái này, có mười bảy môn phái được coi như là môn phái ly giáo. Chỉ có phái Phật giáo Nguyên thủy Nam tông (Theravada) là không thuộc ly giáo mà thôi. Hơn thế nữa, ta thấy nói đến trong Ðảo sử (dipavamsa) như sau:

"Các vị Tỳ-khưu đồi bại, tức nhóm Vajjiputtakas, đã bị các Hòa thượng (Trưởng lão) phạt vạ Tuyệt Thông (excummunicated), lại thành lập một phe nhóm khác, gồm nhiều người chủ trương tà kiến. Có mười ngàn Tỳ-khưu đã tụ tập lại, làm thành một Ðại Hội. Chính vì thế, cuộc diễn tập giáo pháp này, được gọi là một cuộc tổng diễn tập (Great Recital)

"Các vị Tỳ-khưu tham dự cuộc tổng diễn tập này, đã ấn định một giáo lý (ngược hẳn lại với đức tin chân chính). Sửa đổi hẳn những bài viết nguyên thuỷ và đã lập ra những biên chép hoàn toàn mới. Họ đã hoán đổi Kinh Phật, thuộc một bộ sưu tầm này rời đến chỗ khác, họ đã phá bỏ ý nghĩa đích thực và những lời dạy của Ðức Phật (Giáo pháp) trong Luật tạng (Vinaya) và trong ngũ Kinh. Những vị Tỳ-khưu đó, không hề biết chút gì, đã được diễn giảng về những bài chú giải thực hành và thuộc đức tin, cũng như ý nghĩa được gán cho các bài chú giải đó, kể cả ý nghĩa từ đó suy ra. Họ đã thiết lập một giáo lý với ý nghĩa hoàn toàn khác. Các vị Tỳ-khưu này, đã phá bỏ một số lớn ý nghĩa chính thống dưới chiêu bài các văn bản, chối bỏ những đoạn riêng rẽ trong Kinh Phật và trong Luật tạng (Vinaya) sâu xa. Họ đã soạn ra nhiều Kinh và Luật tạng (Vinaya) khác, chỉ mang dáng vẻ bề ngoài giống nguyên bản mà thôi. Chối bỏ các văn từ khác - có thể nói, họ chối bỏ các Phụ tùng Luật giáo (Parivana) (tức là những nội dung trừu tượng trong Luật tạng (Vinaya) -- gồm sáu Chương Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), Vô Ngại Giải Ðạo (patisambhida), Kinh Nghĩa Thích (niddesa), và một vài phần trong Kinh Bản Sinh (Jataka), đồng thời họ đã biên soạn những bản khác.[4] Họ đã đổi tên các phần đó, đổi luôn cả hình thức và bỏ qua luôn cả bản chính.

Những người nào theo cuộc tổng diễn tập (the Great Recital), chính là những người ly giáo đầu tiên; theo gương họ, lại nổi lên rất nhiều người ly giáo khác. Sau đó, một cuộc ly giáo mới, lại nổi lên ngay trong giáo phái mới này; đó là giáo phái Gokulikas; và các vị Tỳ-khưu Ekabyohara lại chia ra làm hai phe. Sau đó, lại có hai cuộc ly giáo diễn ra trong giáo phái Gokulikas; các vị Tỳ-khưu Bahussutaka và Pannatti lại chia thành hai nhóm và chống lại các nhóm này, là những người Cetiyas (một nhóm khác) thuộc giáo phái Mahasangitikas. Họ loại bỏ ý nghĩa (trung thực) giáo lý và một số đoạn trong bộ sưu tập; gác sang một bên một số đoạn khó. Họ liền thay đổi các đoạn ấy đi, bỏ qua giáo lý nguyên thủy như: Tên, nội dung, các tu chính, sắc thái và biến chúng thành các kinh khác hoàn toàn.

Giáo phái Phật giáo Nguyên thuỷ thuộc các vị Trưởng lão (Theras), lại xảy ra một cuộc ly giáo khác nữa; các vị Tỳ-khưu Mahasanghika và Vajjiputtaka đã tách ra thành hai nhánh. Trong giáo phái Vajjuputtakas, có bốn phái nổi lên đó là: Dhammutarikas, Bhaddayanikas, Channagarikas và Sammitis. Thời gian sau này, có hai nhóm khác lại nổi lên trong nhóm Mahimsakakas; các vị Tỳ-khưu Sabbatthivada và Dhammagutta lại tách ra làm hai. Xuất phát từ nhóm Sabbatthivadins, lại nổi lên phái Kassapikas. Từ nhóm Kassapikas có nhóm Sankantivadins, sau đó lại tách thành một nhóm khác, đó là Suttavadins, tách từ nhóm Sankantikas. Mười một giáo phái này đã tách ra từ Phật giáo Nguyên thủy (Theravada), bỏ qua ý nghĩa thực sự và giáo lý cùng với một phần bộ sưu tập Kinh Phật. Gác sang một bên các đoạn khó, thay đổi nội dung, bỏ qua cả bản nguyên thủy như: Tên, nội dung, tu chính các cách đúng, có nghĩa là biến Kinh Phật thành khác hoàn toàn.

Có tới mười bảy giáo phái ly giáo và một không phải là ly giáo. Cùng với nhóm không phải là ly giáo đó, đã có tới mười tám giáo phái khác nhau. Trong đó, nhóm Phật giáo Nguyên thuỷ (Nam tông), giống như một cây đa cổ thụ to lớn, cũng là phái nổi tiếng nhất: Gồm giáo lý hoàn hảo của người thắng phái đối nghịch, thoát khỏi quên lãng hay sát nhập chung với các phe nhỏ khác. Các giáo phái khác, nổi lên như là gai quấn quanh thân cây. Trong thế kỷ đầu tiên, không có một cuộc ly giáo nào diễn ra. Vào thế kỷ thứ II, nổi lên mười bảy giáo phái ly giáo, trong số giáo lý của người thắng phái đối nghịch.

Tiếp theo đó, là sáu giáo phái khác: Hemavatikas, Rajagirrikas, Siddhatthikas, Pubbaseliyas, Aparaseliyas và Vajjiriyas, đã nổi lên từng giáo phái một. Ðối với các giáo phái này, không có nhiều điểm đối chiếu được ghi lại.

Hiện nay, đứng đầu mười tám giáo phái lúc ban đầu, là giáo phái Giáo pháp (sasana) và khi nhà vua Asoka, một vị vua công chính, đã nhận đức tin, thì hàng ngày, ngài đều bố thí cho một khoản tiền trợ cấp là năm trăm ngàn, một trăm ngàn cấp cho công việc thừa tự Ðức Phật, Giáo pháp và Tăng Già. Một trăm ngàn để trợ cấp cho Thế Tôn của nhà vua, một trăm ngàn cho Trưởng lão Nigrodha, và một trăm ngàn dùng để phát chẩn ở bốn cổng thành, như vậy đã đem lại vinh dự lớn và sự trợ giúp đắc lực cho giáo phái Giáo pháp (sasana). Vị thầy của nhiều giáo phái khác, không được hưởng vinh dự và sự tài trợ này, vì thế họ không thể ngay cả kiếm được đủ để ăn, liền tìm kiếm vinh dự và sự tài trợ bằng cách gia nhập vào Tăng già, rồi lại công bố mỗi người mỗi điều sai lạc của họ, nói rằng: Ðây chính là giáo pháp, đây chính là Giới luật, và đây chính là đạo giáo của ngài Thế Tôn (Ðức Phật ). Ngay một số trong họ còn chưa nhận Ðại Thọ Giới, cũng đã tự xuống tóc, mặc áo cà sa mầu vàng, đi khắp các thiền viện, gia nhập các Tăng già vào những buổi lễ Bố tát (Uposatha) và trong nhiều dịp lễ khác nữa.

Cho dù họ không bác bỏ Tăng già (Order), giáo pháp và giáo điều của Ðức Phật, các vị Tỳ-khưu này, vì không đại diện cho hàng ngũ Giáo pháp và Giới luật chính thống, nên đã gây ra rất nhiều điều đốn mạt, nhiều vết nhơ và phiền toái cho Giáo pháp (sasana). Một số trong họ, còn thờ thần lửa; một số lại chủ trương, tu luyện năm loại khổ hạnh sức nóng; một số chạy lại thờ thần mặt trời, số khác lại đấu tranh cách này cách khác, nói rằng: Chúng ta sẽ phá bỏ Giáo pháp và Giới luật.

Chính vì thế mà Tăng Già không thể giữ Bố tát (Uposatha) hay Tự tứ (Pavarana) với những hạng Tỳ-khưu đó. Bố tát phải bị đình chỉ trong bảy năm tại thiền viện Asoka, khiến cho nhà vua phải can thiệp, nghỉ rằng: Ta sẽ ra chiếu chỉ cho duy trì các việc thờ tự đó. Nhưng vẫn không thể làm gì được. Không những thế, nhà vua còn cảm thấy hối hận, khi mà chỉ vì một phái đoàn ngu xuẩn của ngài, một số các vị Tỳ-khưu đã bị giết hại. Vì muốn làm dịu đi nỗi hối hận, cũng như ảnh hưởng hư đốn đã nổi lên trong giáo phái Giáo pháp (sasana), nhà vua yêu cầu Tăng Già làm rõ: Lúc này, ai là người có thẩm quyền trong Tăng già về vấn đề này? Khi nhà vua được biết câu trả lời: Chính Trưởng lão Tissa, con trai của Moggali, thì nhà vua đã nhân danh Tăng già, mời Trưởng lão rời khỏi Ahoganga. Và khi nhà vua nhận ra Trưởng lão đang thực hiện một phép lạ, ngài rất tin tưởng vào khả năng của Trưởng lão và đã tham khảo ngài về những điều đã gây cho hoàng thượng không ít đau khổ. Và làm dịu bớt nỗi niềm đau khổ cho ngài. Trưởng lão cũng lưu lại một thời gian bảy ngày trong công viên hoàng gia để diễn giảng giáo pháp cho đức vua.

Ðược giảng giải như vậy, vào ngày thứ bảy, nhà vua đã triệu tập Tăng già trong thiền viện Asoka lại, chính nhà vua đã thượng vị, trong một đại sảnh ngài đã cho xây dựng. Sau khi đã phân loại, sắp xếp các vị Tỳ-khưu thành nhiều nhóm khác nhau, theo quan điểm họ đang chủ trương và cho mời lần lượt từng nhóm một, rồi hỏi: Ðức Thế Tôn đã giảng dạy loại giáo lý nào vậy?[5] Phái chủ trương vĩnh cửu trả lời: Ngài là người theo phái vĩnh cửu. Một số người khác trả lời: Ðức Phật đã dạy vĩnh cửu thuyết hạn chế, sinh hồn bất tử, sinh tử ngẫu nhiên, có tiềm thức, linh hồn hữu thức hay vô thức sau khi chết, linh hồn đoạn diệt[6]. Những vị Tỳ-khưu nào chủ trương Níp-bàn chỉ tồn tại trong cuộc sống này, đều yêu sách nhà vua không kém.

Sau khi đã tìm hiểu giáo pháp, nhà vua đã phân biệt được rõ ràng, các vị Tỳ-khưu này không phải là các vị Tỳ-khưu chân chính, mà chỉ là các vị theo tà đạo mà thôi, rồi ngài loại họ khỏi Tăng già. Nhà vua đã phân phát áo trắng cho họ, là thứ quần áo dành cho những người dân thường. Số những vị Tỳ-khưu này lên tới 60.000 vị. Rồi nhà vua lại triệu tập các vị Tỳ-khưu khác nữa và hỏi các ngài: Ðức Thế Tôn đã giảng dạy giáo lý nào vậy?[7] Họ trả lời: Tâu Hoàng thượng, ngài là một người chủ trương phân tích. Với câu trả lời này, nhà vua liền hỏi: Trưởng lão nói rằng: Thưa Hoàng thượng, đức Thế Tôn có chủ trương phân tích hay không?[8] Ngài trả lời: Tâu hoàng thượng, đúng vậy. Rồi nhà vua xuống chỉ: Thôi được rồi, thưa ngài Trưởng lão phái Giáo pháp (sasana) coi như được thanh tịnh. Chớ gì Tăng già của các vị Tỳ-khưu, hãy nắm giữ Bố tát (Uposatha). Ðể lại những lính canh, nhà vua trở lại thành phố. Theo đúng thoả thuận Tăng già đã nhóm họp lại và tổ chức bố tát (Uposatha). Trong Tăng Già đó có khoảng sáu mươi ngàn vị Tỳ-khưu hiện diện.

Chính trong cuộc hội họp này, Trưởng lão Tissa, con trai Moggali, để ngăn chận toàn bộ những cơ sở tà đạo đã nổi lên, và sẽ có thể nổi dậy trong tương lai, ngài đã phân tích đến từng chi tiết những chủ đề tranh luận, áp dụng phương pháp Ðức Phật đã truyền dạy. và lập thành năm trăm lời tuyên bố chính thống và năm trăm lời không chính thống. Cả thảy có một ngàn được công bố và gộp lại thành một sưu tập[9] Thuyết luận sự (Kathavatthu) hay Những Ðiểm Tranh Luận (Points of Controversy), nét đặc trưng nổi lên của cuốn sách này là dẹp tan toàn bộ những quan điểm lệch lạc.

Ngay sau đó, một ngàn vị Tỳ-khưu là những người có kiến thức vững vàng về Tam tạng và giỏi giang về Tứ Vô Ngại Giải Ðạo (Patisambhida), như Trưởng lão, Ðại đức Ca Diếp (Kassapa) (tại Ðại Hội Thứ Nhất) đã tụng Giáo pháp và Giới luật. Sau khi đã dẹp tan hết mọi vết nhơ, ngài đã tổ chức Ðại Hội thứ Ba trong đại hội này ngài cũng tụng như vậy. Và khi tụng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) ngài đã hợp nhất toàn bộ thành một sưu tập này.

Người ta kể lại rằng, Chính Ðức Phật đã đưa ra những đường nét chính của bộ sưu tập "Thuyết luận sự (Kathavatthu)" này và lại đưa ra cả một bài tường trình về nội dung. Sau đó Trưởng lão, con trai của Moggali đã lấp đầy những chi tiết lập thành một cung điện nguy nga trên cõi đời này, gồm đầy đủ mọi chi tiết.

Ðến đây bởi vì việc chú giải đã hoàn tất. Tôi sẽ chú giải về vấn đề này. Xin hãy cẩn thận mà lắng nghe."[10]


[1] Các tập chú giải về hai cuốn sách này trong bộ Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma Pitaka)

[2] Anupadisesaya nibbnadhatuya.

[3] Dasavatthubi, đưa ra danh sách mười điểm, xin đọc các kinh văn Luật tạng (Vinaya texts) (S.B.E.) Cullavaya, ch. xii.

[4] Xin đọc với "B", annani

[5] Kim Vadi: nghĩa đen, Ðức Phật đã...

[6] Xin đọc. Brahmajaha suttanta (Digha I).

[7] Như trên

[8] Xin đọc Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya), ii. 197; Những điểm tranh luận tr. 7 ch. th. 1.

[9] pakaranam. đó là một tựa đề đặt cho cuốn sách này (có nghĩa là cuốn Katha của "Những Ðiểm Tranh Luận" hay là Chú giải Thuyết Luận Sự).

[10] Xin đọc bản dịch của Shwe Zan Aung và Bà Rhys David trong tác phẩm Points of Controversy (tr. 1-7.) - [xem "Những Điểm Dị Biệt", Tâm An và Minh Tuệ dịch Việt. Ngoài ra, còn có bộ "Ngữ Tông" do ngài Hòa thượng Tịnh Sự dịch từ bản Pali-Thái