CHƯƠNG XV
I. Ðiểm tranh luận: Mối tương quan (nhân quả đặc biệt cố định) (paccaya) [59]
[152] Một số người, như là phái Mahasanghikas chủ trương
rằng, nếu điều gì đó có tương quan nhân quả (hay nguyên nhân (hetu) tạo ra) với
điều gì khác, thì điều đó không có tương quan gì với điều khác đó nhờ vào (mối
tương quan) chủ thể khách thể, hoặc nhờ vào tính liên tưởng, hoặc nhờ tính kế
tiếp gần gũi đó. Hoặc giả còn nữa, nếu như bất kỳ điều gì có tương quan với một
vật khác với tư cách khách thể. thì tương quan đó không do tính cách liên tường
hoặc tính kế tiếp[60] gần gũi đó mà ra. Liên quan đến họ Sakavadin đặt câu hỏi,
và phái đối nghịch đồng ý tán thành.
Những gì còn lại ở đây nên được hiểu theo như được ghi
trong Kinh Phật.[61]
Ðiểm tranh luận về mối tương quan (nhân quả đặc biệt cố
định) kết thúc tại đây.
II. Ðiểm tranh luận: Nhân duyên hỗ tương. (annamannapaccaya)
Do bởi giáo lý dạy rằng những "nghiệp[62] do vô minh
tạo ra." Ta không thể nói rằng vô minh không bị nghiệp chi phối (nhân
duyên). Nhưng một số người, cụ thể là phái Mahansanghikas cho rằng, vô minh
thực sự là nhân duyên chi phối nghiệp, nhưng nghiệp không phải như vậy so với
vô minh. Ðể chứng tỏ có nhân duyên hỗ tương giữa vô minh và nghiệp, Sakavadin
đặt câu hỏi, và phái đối nghịch đồng ý tán thành.
"Phải chăng vô minh cùng tồn tại với nghiệp?" Ở
đây ta chỉ muốn đề cập đến phạm vi hành động phi phúc. Nhân duyên hỗ tương giữa
vô minh và nghiệp có thể phân tích thành "tương quan cùng tồn tại, có qua
có lại. hiện hữu, tồn tại kéo dài và liên hợp lại.!"[63] Thủ hay bám giữ
có nguyên nhân do ái (hay là thèm muốn) mà ra"ở đây ta loại bỏ tham lam
sắc dục và ý muốn nói đến ba sẵc thái tham lam còn lại[64] Vô minh, cũng giống
như nghiệp cũng có nhân duyên phát sinh từ ái mà ra.
Những gì còn lại ở đây nên được hiểu là theo như trong
kinh Phật.
"Thế còn nhân duyên diệt và tử thì sao?" phái
đối nghịch lại hỏi lại.
"Phải chăng danh và thể xác cũng có nhân duyên phát
xuât từ tâm tái sanh mà ra hay sao? Ðây là câu hỏi do Sakavadin đặt ra.
Ðiểm tranh luận về nhân duyên hỗ tương kết thúc tại đây.
III. Ðiểm
tranh luận: Tương tục (santati) thời gian. (addha)
[153] Ta hãy nghiên cứu từ khoảnh khắc (addha) thời gian
hiểu theo nghĩa một giai đoạn thời gian, những ai[65] cho là tương tục (thời
gian) chính là nền tảng đã được ấn định dựa vào đoạn trích trong Kinh Phật:
"Có ba chủ đề thuyết pháp"[66] Ðể chứng tỏ sự khác biệt cho rằng
"chẳng có bất kỳ khoảng (thời gian) cố định nào cả, duy chỉ có khái niệm
thời gian mà thôi; nhưng đối tượng thị giác đó. v.v... Khi ta muốn ám chỉ đến
ngũ uẩn (tức là thân xác và tâm linh) lại đã được tiền định. Sakavadin nêu câu
hỏi: "Phải chăng triều lưu tương tục thời gian đã được tiền định?"
Phái đối nghịch đồng ý tán thành.
Rồi để dẫn chứng cho phái đối nghịch, một câu hỏi được đưa
ra hỏi rằng, nếu tương tục (khoảnh khắc) thời gian đã được tiền định, thì điều
đó phải khác so với đối tượng thị giác v.v... Phái đối nghịch bác bỏ.
Những gì còn lại nên được hiểu theo như kinh văn ghi trong
Kinh Phật.
Ðiểm tranh luận về tương tục thời gian kết thúc tại đây.
IV. Ðiểm
tranh luận: Những chốc lát, những lúc, những giây lát ngắn ngủi
Ðây[67] cũng chính là phương pháp trong những vụ tranh
luận về những chốc lát, những lúc, những giây lát ngắn ngủi. Toàn bộ những
khoảng thời gian trên, v.v... chẳng khác gì trào lưu (khoảnh khắc) thời gian là
bao.
Ðiểm tranh luận về những chốc lát, những lúc, những giây
lát ngắn ngủi kết thúc tại đây.
V. Ðiểm
tranh luận: Những lậu hoặc (tức là những nguyên nhân đồi bại) (āsava).
[68]
Bởi vì đã vậy lại còn có bốn lậu hoặc ngoài ra không gì
khác hơn là đồng lậu hoặc (co-cankers). Chính vì thế một số người, cụ thể là
phái Thuyết Nhân Bộ chủ trương rằng bốn lậu hoặc đó (phải là) phi lậu hoặc.
Liên quan đến họ Sakavadin đặt câu hỏi, và phái đối nghịch đồng ý tán thành.
Ðể dẫn chứng cho (phái đối nghịch) thấy rằng, nếu vậy,
những lưu hoặc loại này phải đạt đến phong cách "Thánh Ðạo,"v.v...
người ta liền nêu câu hỏi, "Thế phải chăng (lậu hoặc) lại chính là Thánh
Ðạo"v.v...
Những điều còn lại đã có ý nghĩa rõ ràng.
Ðiểm tranh luận về các Lậu hoặc đến đây là kết thúc.
VI. Ðiểm
tranh luận: Lão và tử. (Jarāmarana)
Lão và Tử không được tiền định, chính vì thế để xếp loại
chúng vào những phạm trù "phàm tục", "siêu phàm" [154]
chúng không được coi như là Phạm trù lẫn lộn với nhau. Nhưng một số người, cụ
thể là phái Mahasarihikas, không hiểu ra khía cạnh quan trọng nhất này, lại lẫn
lộn với lão và tử của những vật siêu phàm (hay siêu nhiên). Liên quan đến họ
Sakavadin đặt câu hỏi, và phái đối nghịch đồng ý tán thành.
Những điều còn lại nên được hiểu theo những gì được ghi
trong kinh Phật.
Ðiểm tranh luận về diệt và tử kết thúc tại đây.
VII. Ðiểm
tranh luận: Diệt, Tưởng, Thọ, Thức (thuộc lãnh vực siêu phàm).
Chính vì được coi như đã đạt đến trạng thái không còn
tưởng và theo đó không phải là một trạng thái tâm linh (tích cực) nhưng chỉ là
đình chỉ lại[69] các tập hợp (uẩn) tâm linh, đây chẳng phải là một hiện trạng
"phàm tục" cũng chẳng là điều gì "siêu phàm". Tuy nhiên một
số người, cụ thể là phái Thuyết Nhân Bộ cho rằng do bởi đây chắc phái đối nghịch
không phải là điều thuộc phàm tục thì chắc đó phải là điều "Siêu
phàm"[70] thôi.
Liên quan đến những họ Sakavadin đặt câu hỏi, và phái đối
nghịch đồng ý tán thành.
Những điều còn lại cũng tương tự như những điểm tranh luận
đã bàn ở trên.[71]
Ðiểm tranh luận về tưởng và nhận thức (thuộc lãnh vực siêu
phàm) đến đây là kết thúc.
VIII. Ðiểm tranh luận thứ nhì về Tưởng
và nhận thức (thuộc điều phàm tục)
Một số người, cụ thể là phái Thuyết Nhân Bộ chủ trương cho
rằng, chính vì điều đó không chắc thuộc lãnh vực "siêu phàm" thì dứt
khoát phải thuộc lãnh vực "phàm tục" mà thôi. Liên quan đến họ
Sakavadins đặt câu hỏi, và phái đối nghịch đồng ý tán thành.
Những điều còn lại cũng tương tự như những điểm tranh luận
đã bàn ở trên.
Ðiểm tranh luận thứ nhì về Tưởng và nhận thức (thuộc điều
phàm tục) kết thúc tại đây.
IX. Ðiểm tranh luận thứ ba liên quan
đến Tưởng và nhận thức
Chính vì không tìm thấy được bất kỳ đặc tính đồng loạt nào
khi lâm chung (chết), thế nên chúng ta cho rằng, "một số người đang chết
kiểu này, số người khác kiểu kia,"
Chính vì thế một số người, cụ thể là phái Rajagirikas chủ
trương, ngay cả nhận thức có thể bị diệt (chẳng khác gì ai) [155] Ðể chứng tỏ
mỗi người đều có lúc chết và chưa chết, Sakavavin đặt câu hỏi, và phái đối
nghịch đồng ý tán thành.
Giờ đây vì tử có nghĩa là bị chết[72] (nirodho) và những
ai ở trong trạng thái đó phải có tiếp xúc tâm linh v.v... chính vì thể dẫn
chứng cho phái đối nghịch lý lẽ đó, một câu hỏi được đặt ra, "phải chăng
có tồn tại điều đó?" v.v...
Khi phái đối nghịch được hỏi: "Phải chăng cái chết
diễn ra nơi bất kỳ ai không còn triệu chứng tiếp xúc?" (phái đối nghịch)
bác bỏ liên quan đến các hữu thể cách chung. Khi được hỏi lại: "Có ảnh
hưởng gì không?" v.v... (phái đối nghịch) cũng bác bỏ, vì phải có khả năng
phi thường mới đạt được thành tích này.[73] Khi được hỏi lại, (phái đối nghịch)
lại đồng ý tán thành, chính vì những nguy cơ tự nhiên thấy nơi thân xác. Nhưng
nếu thực sự là như vậy, thì không thể có khả năng phi thường nơi những thành
tích đó. Rồi ta hỏi lại (phái đối nghịch): "Phải chăng việc đạt đến trạng
thái nhập định nơi bạn lại không mang tính xác thực hay sao?"
Phái đối nghịch[74] hỏi vặn lại: "Phải chăng chúng ta
chẳng đã được bảo đảm không phải chết đang khi nhập định hay sao?"
Khi phái đối nghịch đưa ra câu hỏi: "Phải chăng
nguyên tắc bảo đảm như vậy có tồn tại chăng?" Sakavadin bác bỏ, vì không
có một nguyên tắc bảo đảm kiểu đó.
Ðể chứng tỏ mỗi người đều phải chết trong một thời gian
nhất định nào đó, ngay cả trong thực tế chúng ta không thấy có sự đồng nhất
"về thời gian"phải chết, Sakavadin nêu lên câu hỏi: "Phải chăng
chúng ta có thể nhận ra điều đó?" v.v... ở đây ta phải hiểu là: Nếu bất kỳ
ai được bảo đảm gì đó vào lúc chết, chắc hẳn điều tiên quyết chúng ta phải có
là chúng ta đã nhìn ra giây phút đó?" Nếu như vậy thì không khớp với những
gì viết trong Kinh Phật: Ta không chết hay được tái sanh do có được năm loại
kiến thức." Mặt khác, chính vì đang khi có được tâm thức thị giác thì ta
không thể chết, như vậy cũng giống như trường hợp người nào đó đạt đến trạng
thái ngưng nghỉ (hôn mê chẳng hạn)
Ðiểm tranh luận thứ ba liên quan đến Tưởng và nhận thức
kết thúc tại đây.
X. Ðiểm
tranh luận: Việc đạt đến vô tưởng.
Hoàn tất chu trình kết thúc nhận thức được phân thành hai
loại chính: một là thuộc lãnh vực "phàm tục" thuần tuý, chỉ có phàm
nhân tu luyện mà thôi. và hai là siêu phàm, lại do các vị thánh thực hiện. Ðiều
đầu tiên sẽ dẫn đến tái sinh nơi cõi vô tưởng. Còn điều thứ hai thì không,[75]
[156] nhưng một số người, cụ thể là phái Thuyết Nhân Bộ, đã không phân biệt
được hai điều này, lại chủ trương một cách bừa bãi như sau: để đạt đến tình
trạng không còn (vô) tưởng và nhận thức (nhập định) dẫn đến tái sanh nơi cõi vô
tưởng.
Liên quan đến họ Sakavadin đặt câu hỏi, và phái đối nghịch
đồng ý tán thành.
Giờ đây bởi vì không có ai ước muốn đạt đến tình trạng
ngưng nghỉ đó [76] cả những ai đã đạt đến cõi vô tưởng, nhưng những ai đạt được
tình trạng nhập định thì không. Chính vì thế để dẫn chứng cho phái đối nghịch
bằng cách này -- một câu hỏi được nêu lên, "Phải chăng có điều đó tồn tại
sao?" v.v...
Ở đây cũng vậy, trong câu hỏi: "Phải chăng ta rơi vào
vô tưởng?"- "Vô tưởng" ở đây buộc phải đạt đến hiện trạng vô
tưởng và như vậy nơi cõi đó thì người đó rơi vào tình trạng vô tưởng (bất
tỉnh). Chính vì thế khi chấp nhận điều này, phái đối nghịch lại cố áp đặt quan
điểm của mình bằng phương thủ đoạn.[77] Chính vì ở đây ta buộc phải đạt đến
hiện trạng "vô tưởng" vì hiện trạng nhập định (hôn mê), và trong
trạng thái đó, người đấng không bao giờ trở lại (không phải tái
sanh=never-returner) sau khi lìa khỏi đời này, đạt đến thiền định, chính vì thế
bằng cách thừa nhận này, điều đó được thiết lập.
Ðiểm tranh luận về việc đạt đến cõi vô tưởng kết thúc tại
đây.
XI. Ðiểm
tranh luận: Nghiệp và việc tích lũy những nghiệp đó.
Một số người, cụ thể là phái Andhakas và Sammitiyas cho
rằng nghiệp là một vấn đề và, còn việc tích lũy nghiệp lại là vấn đề khác. và
việc tích lũy nghiệp thì vô định, và không phải là đối tượng tâm linh. Liên
quan đến họ Sakavadin đặt câu hỏi: "Phải chăng nghiệp là một điều
khác?" phái đối nghịch đồng ý tán thành.
Rồi để dẫn chứng cho phái đối nghịch thấy rằng, nếu nghiệp
hoàn toàn khác biệt với việc tích lũy, tiếp xúc tâm linh .v.v... cũng phải khác
với việc tích luỹ. -- Câu hỏi được đặt ra - "Phải chăng tiếp xúc tâm linh
là điều hoàn toàn khác?" phái đối nghịch bác bỏ vì không thấy có quan điểm
đó.
Còn đối với câu hỏi: phải chăng điều đó cùng tồn tại với
nghiệp hay không?" phái đối nghịch bác bỏ liên quan đến tính độc lập nơi
tư tưởng. và rồi (phái đối nghịch) lại đồng ý tán thành vì liên quan đến điều
được liên kết. Mặt khác về vấn đề nghiệp thiện, v.v.. đây cũng là phương pháp
cần được áp dụng.
Nhưng khi phái đối nghịch được hỏi: "Có đối tượng tâm
linh không?" (phái đối nghịch) bác bảo, vì (cố thủ) nhấn mạnh điều đó
tuyệt đối không có đối tượng tâm linh.
"Khi ý thức tan biến đi" có nghĩa là, khi ý thức
tan biến thì nghiệp cũng tan theo. Có nghĩa là ý thức cũng bị tan biến luôn.
Phái đối nghịch đồng ý tán thành, vì nghiệp có liên kết với ý thức, và nghiệp
cũng tan biến cùng với ý thức. (Phái đối nghịch) bác bỏ điều này, vì tích luỹ
nghiệp tự động diễn ra chính vì thế, nghiệp không thể tan biến được.
Ðối với câu hỏi: "Phải chăng việc tích luỹ nghiệp có
tồn tại nơi nghiệp không?" Phái đối nghịch đồng ý tán thành, vì (phái đối
nghịch) chủ trương đó là nơi nghiệp tồn tại hoặc giả là nơi nghiệp được thiết
lập., [157] "việc tích lũy" bắt đầu, nhưng nghiệp tồn tại cho đến khi
quả trưởng thành. Giống như hạt giống giữ lại toàn bộ sinh lực của cây cho đến
khi năng lực đó được bung ra.[78]
"Phải chăng nghiệp, việc tích lũy nghiệp và kết quả
nghiệp cả ba đều đồng nhất với nhau?" phái đối nghịch đồng ý tán thành -
vì (phái đối nghịch) chủ trương rằng ở đâu có nghiệp hay nơi đâu nghiệp được
thiết lập, [157] "tức là sự tích lũy nghiệp" bắt đầu, nhưng việc sau
này chỉ tồn tại khi kết quả trưởng thành mà thôi.
Phải chăng kết quả là đối tượng tâm linh?"- (phái đối
nghịch) hỏi điều này để cố thuyết phục cho dù việc "tích lũy"tạo ra
kết quả không có đối tượng tâm linh làm kết quả hay sao? Tuy nhiên, phái đối
nghịch đồng ý tán thành trong một trường hợp, nhưng vì quan điểm riêng của
(phái đối nghịch) nên đã bỏ điều kia.
Cũng cằng cách trình bày gián tiếp, đây là một phương pháp
hữu hiệu.
Những điều còn lại về tác nghiệp và việc tích lũy nghiệp
kết thúc tại đây.
Ðến đây kết thúc chương XV.
Chương thứ ba trong số năm mươi chương cũng kết thúc ở
đây.