CHƯƠNG XXII
I. Ðiểm tranh luận: Sự viên tịch (Parinibbāna).
[193] Chính vì một vị A-la-hán hoàn tất sự hiện diện mà
không loại bỏ được mọi gông cùm liên quan đến góc độ toàn tri,[94] một số người
cụ thể là phái Andhakas cho rằng cuộc sống có thể hoàn tất mà một (số lượng)
gông cùm không cần bị loại bỏ. Liên quan đến họ Sakavadin đặt câu hỏi, và phái
đối nghịch đồng ý tán thành.
Những điều còn lại tương tự như đã được giải thích ở trên[95]
Ðiểm tranh luận về sự hoàn tất cuộc sống kết thúc tại đây.
II. Ðiểm tranh luận: Tâm đạo đức. (Kusalacitta)
Chính vì một vị A-la-hán, ngay cả đang khi qua đời hoàn
toàn, vẫn còn rất sáng suốt[96]. Chính vì thế một số người, cụ thể là phái
Andhakas cho rằng, một vị A-la-hán đã ý thức rất rõ về giờ cáo chung của mình.
liên quan đến họ Sakavadin đặt câu hỏi, và phái đối nghịch đồng ý tán thành.
Giờ đây một trí tuệ đạo đức bao gồm tư cách nghiệp đầy
công đức v.v... sau khi đã tạo ra kết quả hạnh phúc. Chính vì thế để chứng tỏ
cho phái đối nghịch biết dựa trên cơ sở nào --vị A-la-hán đã đạt được một số hệ
số công đức như vậy?"v.v... là câu hỏi được đưa ra.
Những gì còn lại ở đây nên được hiểu theo như ghi trong
Kinh Phật.
"Chú ý và cảnh giác chăng?"đó là điều được đề
cập liên quan đến việc toả sáng và giác ngộ của vị A-la-hán đang khi vào giờ
lâm chung, đối với tình trạng trung hoà đạo đức và vì thế sự hiện diện của trí
tuệ bất động và suy tư về những giây phút cuối cùng của qui trình nhận thức
[javana] Nhưng điều này chẳng phải dùng để chứng tỏ sự xuất hiện những tư tưởng
tốt[97] chính vì thế điều này chưa đi đến kết luận chung cuộc.
Ðiểm tranh luận về tâm đạo đức kết thúc tại đây.
III. Ðiểm
tranh luận: Tâm điềm tĩnh. (Anenja)
Một số người, cụ thể là phái Bắc Tông(Uttarapathakas) hiểu
rằng Ðức Thế Tôn đang khi biến hoàn toàn vào cõi Tứ thiền, họ còn cho rằng vị
A-la-hán hoàn tất cuộc sống mình một cách hết sức điềm tĩnh (ananje) Liên quan
đến họ Sakavadin đặt câu hỏi, và phái đối nghịch đồng ý tán thành.
"Với một tâm bình thường"có nghĩa là với tâm hữu
phần (bhavaniga)[98] toàn bộ những sinh vật có cảm thọ bình thường đều ở trong
tình trạng tâm linh này, khi tình trạng này kết thúc, hiện trạng này cũng sẽ
kết thúc với "[99]tâm tử"để thôi thúc phái đối nghịch trên cơ sở này
người ta nói ra điều này. Cho dù một trí tuệ bình thường của một vị A-la-hán.[100]
Khi còn trên cõi tứ uẩn vô hình (tức là cõi vô sắc giới) rất có thể trở thành
một tầm mức diềm tĩnh nào đó. Nhưng câu hỏi này lại được nêu lên liên quan đến
cõi cuộc sống ngũ uẩn. Chính vì thế (phái đối nghịch) lên tiếng: "Không,
điều đó không thực sự được nói như vây."
Những gì còn lại ở đây ý nghĩa đã quá rõ rằng.
Ðiểm tranh luận về tâm điềm tĩnh kết thúc tại đây.
IV. Ðiểm
tranh luận: Am hiểu Giáo pháp [101]
Một số người cụ thể là phái Bắc Tông (Uttarapathakas) chủ
trương rằng kẻ nào ở kiếp trước đã là đấng Nhập lưu và duy trì được tình trạng
đó, phải hiểu Giáo pháp ngay từ khi còn trong bào thai[102] liên quan đến họ
Sakavadin đặt câu hỏi, và phái đối nghịch đồng ý tán thành.
"Phải chăng một bào thai đã được truyền đạt giáo pháp
chăng?"v.v... là câu hỏi được nêu lên để chứng tỏ cho phái đối nghịch thấy
rằng, nếu chúng ta hiểu Giáo pháp đang khi còn trong bào thai, Giáo pháp đó
phải được truyền cho và những gì đại loại như vậy.
"Người đang ngủ cũng được như vậy sao?"[103]
cũng được đặt thành câu hỏi liên quan đến "môn tái tục"[104] Như là
một qui luật, nơi bào thai đã xuất hiện một dòng chảy tâm tái tục. Chính vì thế
một người ngủ gục là do thiếu cơ hội và một qui trình hành động liên tục. Kẻ
nào không chuyên tu luyện hành thiền hay "uể oải"[105] Ai không có
khả năng nhập định và không tự chủ được trên cơ sở những điều kiện hành động,
được gọi là "trí thông minh bị lu mờ"và không biết suy nghĩ. Làm sao
một người như vậy có thể thâm nhập được vào Giáo pháp.?
Ðiểm tranh luận về thâm nhập Giáo pháp kết thúc tại đây.
V. Điểm tranh luận: Một bào thai
đạt đến Bậc A-la-hán như thế nào
Môt người mơ thâm nhập Giáo pháp ra sao?
Một người mơ màng đạt đến bậc A-la-hán như thế nào?
Việc một đấng nhập lưu rất trẻ đạt đến bậc A-la-hán [Nổi
bật là câu chuyện] về hiện tượng một cậu bé bẩy tuổi con trai một đạo hữu tên
là Suppavasa[106] đã dẫn những thành viên cùng một môn phái[107] tin rằng ngay
cả con kiến cũng có thể đạt đến bậc A-la-hán. Họ còn chủ trương thêm, đang khi
nhìn thấy những ngón đòn kỳ diệu như thể tự bay lên. v.v... đã kinh qua được
trong giấc mơ, tức khắc một kẻ mơ mộng cũng không chỉ thâm nhập được vào Giáo
pháp, nhưng còn đạt đến bậc A-la-hán nữa.[108] [195] liên quan đến họ Sakavadin
đặt câu hỏi, và phái đối nghịch đồng ý tán thành.
Những điều còn lại tương tự như điểm tranh luận đã triển
khai ở trên[109].
Ba điểm tranh luận kết thúc tại đây.
VI. Ðiểm
tranh luận: Ðiều vô ký (abyākata) [110]
Có lời Ðức Phật phán: "Hễ nơi nào có ý định, và ý
định đó thì không đáng kể."[111] Một số người, cụ thể là Phái Bắc Tông (Uttarapathakas)
cho rằng toàn bộ tâm mơ tưởng đều vô ký. Liên quan đến họ Sakavadin đặt câu
hỏi, và phái đối nghịch đồng ý tán thành.
Toàn bộ những gì còn lại nên được hiểu theo trong Kinh
Phật.
"Tâm mơ màng thì không đáng kể"điều này được nói
lên liên quan đến tội phạm đến Hội Thánh Ngay cả một người mơ có thể ấp ủ tư
tưởng một kẻ giết người v.v... mà không đem lại thiệt hại cho mạng sống và tài
sản. Chính vì thế họ không thể được phân loại thành "tội phạm"được[112]
chính vì thế những tư tưởng mơ màng không phải là đặc điểm đáng kể, vì lý do
này và không vì chúng chỉ là phi đạo đức, chúng có thể bị bỏ qua.[113]
Ðiểm tranh luận về việc phi đạo đức kết thúc tại đây.
VII. Ðiểm
tranh luận: Tương quan tái tục. [114]
"Vì toàn bộ hiện tượng chỉ là nhất thời, không có gì
tồn tại lâu hơn một khoảng khắc, không có gì tạo ra tương quan đó do bởi hậu
quả của việc tái tục.[115] Chính vì thế một số người cùng một nhóm[116] cho
rằng không bao giờ tâm tái tục và tương quan qua tâm tái tục. Liên quan đến họ
Sakavadin đặt câu hỏi và phái đối nghịch đồng ý tán thành.
Rồi để thuyết phục phái đối nghịch bằng trích Kinh Phật --
Phải chăng Ðức Thế Tôn đã chẳng lên tiếng: - về việc sát sanh."[117]
v.v... được sử dụng. Toàn bộ điều này đã có ý nghĩa quá rõ ràng
Ðiểm tranh luận về tương quan qua tâm tái tục kết thúc tại
đây.
VIII. Ðiểm
tranh luận: Tính nhất thời. (Sát-na -- khaṇa)
Một số người, cụ thể là phái Pubbaseliyas và phái
Aparaseliyas cho rằng: vì toàn bộ những vật hữu vi đều là vô thường cả, chính
vì thế chúng chỉ kéo dài một chốc lát. Căn cứ vào tính vô thường phổ quát --
thì một vật diệt rất nhanh một vật khác nữa sau một giây lát. [196] Họ liền
hỏi, có điều gì xác thực ở đây chăng?"[118] Liên quan đến họ Sakavadin đặt
câu hỏi: Phải chăng chúng là những đơn vị có ý thức nhất thời?"phái đối
nghịch đồng ý tán thành.
Còn đối với câu hỏi: "Phải chăng trái đất tồn tại
[bao lâu] trong ý thức?"v.v... phái đối nghịch bác bỏ, vì phái đối nghịch
không nhận ra bất kỳ điều gì trong thiên nhiên cả.
"Nơi cõi thị giác thì sao?" v.v... được nói tới
đề chứng tỏ rằng, nếu toàn bộ vạn vật chỉ là những đơn vị ý thức nhất thời thôi
thì lãnh vực thị giác sẽ sinh và diệt cùng với nhận thức thị giác. v.v... Nhưng
phái đối nghịch bác bỏ liên quan đến việc thiền quán nổi lên ngay cả trong một
bào thai. và rồi đồng ý tán thành vì do chính quan điểm của phái đối nghịch
liên quan đến qui trình[119] đó.
Những điều còn lại có ý nghĩa quá rõ ràng.
Thật là hết sức độc đoán nếu ta nói rằng vì vạn vật không
biến đổi. chính vì thế toàn bộ chúng đều tồn tại chỉ trong một giây phút ý thức
mà thôi; chính vì thế trong câu diễn giải, "do bởi vì toàn bộ vạn vật chỉ
là những đơn vị ý thức nhất thời""điều đó chẳng nói lên được điều gì
cả.
Ðiểm tranh luận về khoảng khắc nhất thời kết thúc tại đây.
Ðến đây cũng kết thúc luôn chương XXII.