CHƯƠNG XIX
I. Ðiểm tranh luận: Khử trừ ô nhiễm (kilesajahana).[38]
[177] Vì có điều được gọi là khử trừ ô nhiễm, và cũng có
những người đã hoàn tất được việc trừ khử toàn bộ ô nhiễm này cả trong quá khứ,
tương lai, lẫn hiện tại. Chính vì thế một số người, cụ thể là phái Bắc Tông
(Uttarapathakas), cho rằng hiện nay chúng ta có thể trừ khử được ô nhiễm cả
trong quá khứ v.v... [39] Liên quan đến họ Sakavadin đặt vấn đề: "Cả những
ô nhiễm quá khứ nữa sao?"v.v... Phái đối nghịch đồng ý tán thành.
Những điều còn lại nên hiểu theo những gì ghi trong Kinh
Phật.
Trong câu hỏi phái đối nghịch nêu lên: "Phải chăng
không có "cái gọi là"ø bứng tận gốc ô nhiễm?"-- Việc khử trừ ô
nhiễm cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai, không phải là việc có thể so
sánh với nỗ lực của một người dẹp bỏ những đống rác. Với việc theo đuổi Chánh
Ðạo lấy Níp-bàn làm mục tiêu, những ô nhiễm sẽ bị "khử trừ", đơn giản
là vì chúng không nổi lên được.[40] Chính vì thế Sakavadin bác bỏ, nói rằng:
"Không phải vậy đâu." "Rồi chúng ta có thể khử trừ những ô nhiễm
thuộc quá khứ của ta,"v.v... có nghĩa là chúng ta không nên nói rằng:
Chẳng có điều tương tự như việc bứng gốc những ô nhiễm đó dâu, vì thế chúng ta
có thể khử trừ ô nhiễm quá khứ, tương lai và hiện tại. Nhưng điều này được nói
theo kiểu ẩn ý mà thôi.
Ðiểm tranh luận về trừ khử ô nhiễm kết thúc tại đây.
II. Ðiểm tranh luận: Trống Rỗng (Sunnatā)
Trống Rỗng (hay Hư Vô) có hai ý nghĩa: (a) thiếu vắng bản
ngã như trạng thái nổi bật nhất trong ngũ uẩn (trí tuệ và thân xác); và (b)
Níp-bàn. Về phần (a) thiếu vắng bản ngã, một số dấu hiệu gom về "vô
ngã"có thể gộp lại dưới dạng Hành uẩn nhờ vào tiếng nói. Níp-Bàn không
được gộp vào loại uẩn này.[41] Nhưng một số người, cụ thể là phái Andhakas
không phân biệt được hai ý nghĩa này, nên cho là "Trống Rỗng"được gộp
cả trong tập hợp hệ số tâm linh. Liên quan đến họ Sakavadin đã đặt vấn đề và
phái đối nghịch đồng ý tán thành.
"Vô tướng"(Signless) có nghĩa là Níp-bàn, chính
là được giải thoát khỏi những dấu hiệu và những tập hợp (tức uẩn). Ðây cũng là
từ đồng nghĩa với "Vô nguyện" (not-hanker-after) nhưng tại sao chúng
lại phải viện dẫn tới điều này? [178] Chúng ta làm thế để cho thấy điều sai sót
trong một học thuyết đã không vạch ra được sự khác biệt này, theo phái đối
nghịch, một người chủ trương "trống rỗng" được gộp lại trong Hành uẩn
và cả Níp-bàn cũng được gộp lại trong đó là hoàn toàn sai lầm. Ðể cho thấy điều
sai sót đó người ta viện dẫn đến "vô tướng" và "Vô nguyện".
Phái đối nghịch bác bỏ điều này vì không muốn gộp lại trong đó những điểm này.
"Phải chăng Hành uẩn là vô thường?" v.v... được
nêu thành câu hỏi để chứng tỏ thiếu sót trong việc chủ trương cho là "Vô
Tướng" và Níp-bàn là vô thường.
"Phải chăng "Trống Rỗng" thuộc uẩn thứ tư
được gộp trong đó?" câu hỏi này được nêu lên để dẫn chứng cho thấy rằng,
nếu "trống rỗng"thuộc các uẩn khác được gộp vào bất kỳ uẩn nào. thì
"trống rỗng"thuộc uẩn thư tư cũng phải được gộp lại trong bốn uẩn còn
lại.
"Phải chăng ta không nên nói Danh uẩn cũng là
"trống rỗng?" một câu hỏi được nêu lên để chứng tỏ bằng phương pháp
gián tiếp, nếu "trống rỗng"thuộc uẩn thứ tư không được gộp vào bất kỳ
uẩn nào trong bổn uẩn nào còn lại, thì "trống rỗng"thuộc bốn uẩn đó
không thể được nói là gộp lại trong uẩn thứ tư này.
Kinh Phật (dạy rằng) "Hỡi Chư
vị Tỳ-khưu -- Trống rỗng chính laø - samkhara[42] được viện dẫn từ lý thuyết
phái đối nghịch chủ trương. Lý thuyết (chúng ta chủ trương) đã bị tổn lại để
tồn tại, vì lý thuyết này đã không mâu thuẫn với chính thống "sabbe
samkhara anicca"(nghĩa là toàn boä samkhara chỉ là vô thường) nơi samkhara
thay thế cho toàn bộ ngũ uẩn. Hơn thế nữa, một điều khá phổ biến nơi lý thuyết
của chúng ta đó là những (Uẩn) này chỉ là trống rỗng hiểu theo nghĩa chúng
thuộc bản ngã[43]. Nhưng vì dã giải thích rằng uẩn thứ tư bao gồm "trống
rỗng"chính vì thế nên vấn đề vẫn chưa đi đến kết luận chung cuộc.
Ðiểm tranh luận về Trống Rỗng kết thúc tại đây.
III. Ðiểm
tranh luận: Sa-môn quả (Sāmannāphala) (là vô vi)..[44]
Học thuyết của chúng ta đã đánh giá từ "những thành
quả cuộc sống trong đạo Phật"nghĩa là (tâm) chính là kết quả xuất phát từ
những qui trình suy tưởng trong khi tu luyện Thánh Ðạo và diễn ra nơi qui trình
tâm linh đang lưu ý đến thành tựu Thánh Quả. Nhưng một số người, cụ thể là phái
Pubbaseliyas, vì không hiểu theo nghĩa đó, lại cho là "Thành quả cuộc sống
Sa-môn"chỉ là khử trừ ô nhiễm và thành công trong trường hợp này, rồi từ
đó chủ trương cuộc sống này chỉ là vô vi. Liên quan đến họ [ 179] Sakavadin đã
nêu câu hỏi, và phái đối nghịch đã đồng ý tán thành.
Vì nhờ việc giải thích đã nêu trên. thế nên những gì còn
lại nên được hiểu theo như đã ghi trong Kinh Phật.
Ðiểm tranh luận về Thành quả cuộc sống Sa-môn kết thúc tại
đây.
IV. Ðiểm
tranh luận: Thành tích đạt được (là vô vi). (patti: chứng ngộ)
Một số người, cụ thể là phái Pubbaseliyas cho rằng, việc
phái đối nghịch được điều này điều kia cả hai chỉ là điều thu nhận được và cũng
chỉ là vô vi nốt. Liên quan đến họ Sakavadin đặt câu hỏi, và phái đối nghịch
đồng ý tán thành.
Nhờ vào giải thích nêu trên, thế nên những gì còn lại nên
được hiểu theo như đã ghi trong Kinh Phật.
"Phải chăng nói như vậy là không đúng sự thật?"
(là câu hỏi) được đề cập đến để diễn giải quan điểm của đối thủ cho rằng tự
chính việc đạt đến thành tích trong cuộc sống ẩn sĩ đã là vô vi. Ðang khi bác
bỏ bằng cách dùng các từ như: "Chẳng phải nói vậy là không đúng hay
sao?" Sakavadin đã không chấp nhận hoàn toàn cho rằng việc vượt đoạn trừ
đó chỉ mang tính vật chất mà thôi. v.v... [45] Thành tích chẳng phải là một
điều gì đó, cũng không chấp nhận là vô vi. Tuy nhiên phái đối nghịch, đã thiết
lập quan điểm của mình cho là đó là điều vô vi, chỉ bằng một hành động bác bỏ
mà thôi. Chính vì điều đó đã được ghi lại một cách bất cẩn, nên khó khăn lắm
điều đó mới được thiết lập.
Ðiểm tranh luận về thành tích trong cuộc sống ẩn sĩ kết
thúc tại đây.
V. Ðiểm
tranh luận: Như thị (như như) (suchness) (tathāta) [46]
Một số người, cụ thể là phái Bắc Tông (Uttarapathakas) cho
rằng: Vẫn hiện hữu một khái niệm bất biến được gọi là "như thị" hay
là "như như" tồn tại nơi chính bản chất vạn vật, thể chất cũng như
siêu nhiên, (nói một cách toàn diện.) Và chính vì cái gọi là "Như
thị" "Suchness" lại không tồn tại nơi chính vật chất hữu vi một
cách riêng lẻ v.v... chính vì thế đó là vô vi.[47] liên quan đến họ Sakavadin
nêu lên câu hỏi và phái đối nghịch đồng ý tán thành.
Những gì còn lại ở đây đã quá rõ ràng, dựa theo việc giải
thích ở trên.
Ðiểm tranh luận về "như thị" hay "như
như" kết thúc tại đây.
VI. Ðiểm
tranh luận: Ðiều thiện xét dưới góc độ đạo đức. (kusala)
Toàn bộ những hiện trạng tâm linh "thiện" được
gọi là như vậy, hoặc vì chúng có thể, hoặc là do bản chất hoàn hảo[48] đều bảo
đảm đem lại thành quả đáng mong đợi (vipaka) hay là vì những hiện trạng đó
chính do bản chất hoàn hảo được thoát khỏi mọi ô nhiễm. Ý tưởng hoàn hảo này
được ứng dụng vào toàn bộ những hiện trạng đó chỉ trừ những hiện trạng phi đạo
đức.[180] Kết quả mong muốn sẽ chỉ diễn ra trong tương lai, trong những qui
trình trong tương lai. Từ đầu tiên trong bộ ba: điều thiện, điều bất thiện và
phi thiện phi bất thiện chỉ áp dụng vào nhân duyên đạo đức tạo ra một kết quả
như vậy.[49] Nhưng một số người, cụ thể là phái Andhakas đã không thể phân biệt
được như vậy và gọi Níp-bàn là "điều thiện" chỉ vì đó là một hiện
trạng hoàn hảo (vô tỳ vết). Ðể làm rõ cho họ thấy Níp-bàn không thể được gọi là
"điều thiện" chỉ vì Níp-bàn đảm bảo cho chúng sanh một thành quả đáng
mong đợi nơi cõi hữu tính. Sakavadin đặt câu hỏi. Phái đối nghịch đồng ý tán
thành vì đó chính là quan điểm của (phái đối nghịch).
Những gì còn lại ở đây cũng đã mang ý nghĩa quá rõ ràng vì
đã được giải thích cặn kẽ ở trên.
Ðiểm tranh luận về Níp-bàn được coi là "điều
thiện" xét dưới góc độ thiện.
VII. Ðiểm
tranh luận: Thành tích đạt đến Nhất định (viyama).
Vì trong Kinh Phật có câu -- "Kẻ nào lặn ngụp chỉ có
một lần (duy nhất mà thôi)" v.v... [50] Một số người, cụ thể là phái Bắc
Tông (Uttarapathakas), cho rằng một con người bình thường cũng có được bảo đảm
được giải thoát chung cuộc. Liên quan đến họ Sakavadin đặt câu hỏi, và phái đối
nghịch đồng ý tán thành.
"Tội giết mẹ" v.v... được đề cập đến để chứng tỏ
rằng kẻ nào phạm tội giết mẹ v.v... cũng có được bảo đảm chung cuộc. Ngay cả đó
chỉ là điều bảo đảm sai lầm dành cho những ai được bảo đảm vì luôn ấp ủ trong
lòng quan niệm sai lầm về bảo đảm chung cuộc hay phạm tội giết mẹ, v.v - vì có
quan điểm sai lầm về bảo đảm được giải thoát chung cuộc, thế nên luôn tỏ ra
bướng bỉnh tưởng rằng mình hiện hữu[51] (samsara-khanuko) được bảo đảm rằng,
trong quá trình tái sanh "được tái đầu thai bằng cách này hay cách
khác" phái đối nghịch đã bác bỏ: "Không đâu" "Phải chăng
phái đối nghịch cảm thấy nghi ngờ?" là câu hỏi được nêu lên, (phái đối
nghịch) có cảm thấy nghi ngờ không?"-- "đây là việc đảm bảo cứu rỗi
và điều kia thì không?" Phái đối nghịch đã đồng ý tán thành vì phái đối
nghịch đã không nhận ra bất kỳ lý do nào do việc thiếu vắng cảm thọ đó. Nhưng
khi được hỏi: "Phải chăng phái đối nghịch không cảm thấy?"-- (phái
đối nghịch) lại đồng ý tán thành, vì một người không thể nghi ngờ quan điểm của
mình được. Nếu quan điểm đó đã được liên tục ấp ủ. Sau này khi được hỏi lại:
"Phải chăng phái đối nghịch đã trừ khử được chăng?"-- (phái đối
nghịch) bác bỏ, vì Thánh Ðạo không thể trừ khử điều đó được và rồi lại đồng ý
tán thành, vì (phái đối nghịch) nghĩ rằng nghi ngờ không thể gạt sang một bên
quan điểm mình đã ấp ủ bấy lâu nay.
Vì điều cần biết là "trừ khử" nghi ngờ không thể
thực hiện được ngoại trừ Thánh Ðạo dúng tay vào. Chính vì thế để chứng tỏ bằng
cách-- "Thánh Ðạo của Ðấng Nhập Lưu thì sao?" v.v... được nêu lên
thành vấn đề. Phái đối nghịch bác bỏ, vì nghi ngờ không thể khử trừ được chỉ
bằng Thánh Ðạo mà thôi.[52] Còn nữa, khi được hỏi lại: "thế nào, sau
đó?" [181] phái đối nghịch trả lời: "Thông qua Thánh Ðạo bất
thiện" vì có liên quan đến đạo sai lạc."
"Liệu quan điểm của phái "Ðoạn Diệt" có
được chấp nhận chăng?" đây là câu hỏi được nêu lên liên quan đến việc bảo
đảm chung cuộc diễn ra. Vì có lời Ðức Phật nói rằng, "Hỡi đám phàm dân
Ukkala. những kẻ ăn nói rầu rĩ cổ xưa, lũ tuỳ tiện, kẻ chối bỏ tác nghiệp,
người hoài nghi"[53] - Phái đối nghịch nghĩ rằng ba quan điểm hoàn toàn
sai lạc đó lại có người chấp nhân, và chính vì thế (phái đối nghịch) đồng ý tán
thành.
"Nếu như"v.v... được đề cập đến để chứng tỏ cho
(phái đối nghịch) thấy -- "nếu" (phái đối nghịch) không được bảo đảm
giải thoát chung cuộc thì sao?" việc bảo đảm chỉ là một khoảng khắc hữu
hạn đối với phái đối nghịch và chỉ là vô dụng, vì (phái đối nghịch) đã có được
bảo đảm chung cuộc rồi cơ mà.
Trong câu hỏi: "Phải chăng điều đó không được chấp
nhận?"(phái đối nghịch) suy nghĩ rằng điều được chấp nhận như là vĩnh cửu
do quan điểm "vĩnh hằng"chắc phái đối nghịch sẽ bị triệt tiêu và
(phái đối nghịch) đồng ý tán thành liên quan đến điều không xảy ra.
Khi được hỏi: "Phải chăng (phái đối nghịch) đã trừ
khử đi.?" (phái đối nghịch) bác bỏ, vì Thánh Ðạo không loại bỏ điều đó.
(phái đối nghịch) đồng ý tán thành vì điều đó đã không xảy ra như những gì ta
đã giải thích.
Trong câu hỏi: "Quan điểm của người chủ trương vĩnh
cửu thuyết có được chấp nhận hay không?" v.v... Cả ở đây nữa cũng chỉ là
phương pháp biện luận. Những điều còn lại trong Chương nói về nghi ngờ cũng
tương tự như đã giải thích ở trên.
Phái đối nghịch lại đưa ra câu hỏi[54] "nói thế không
đúng hay sao?" Sakavadin đồng ý tán thành vì trong Kinh Phật có đề cập đến
điều này. "Những ai không đắm chìm vào những gì hiện hữu trong tương
lai". ở đây ý muốn nói là: chỉ có hiện hữu trên đời này thôi. (phái đối
nghịch) vẫn không thể loại bỏ được quan điểm này. Chính vì vậy điểm này vẫn
chưa đi đến kết luận chung cuộc.
"Phải chăng chỉ có ai, sau khi đã nổi lên được bề
mặt, thì lúc nào người đó cũng lặn hụp trong đó hay sao?" v.v..Ṣakavadin đã nêu lên điều này để chứng tỏ cho thấy sự cần
thiết phải nghiên cứu tinh thần của (đoạn văn) mà không dựa quá nhiều vào các
chữ viết[55].
Ðiểm tranh luận bàn về bảo đảm chung cuộc kết thúc tại
đây.
VIII. Ðiểm
tranh luận: Quyền (Indriya) [56]
Một số người, cụ thể là phái Thuyết Nhân Bộ (Hetuvadins)
và phái Di-sa-tắc bộ (Mahimsatakas) cho rằng đức tin không thể có giá trị như
là một quyền những vấn đề phàm tục này. Tương tự như vậy cũng chẳng có tịnh
tiến (effort) Ðịnh, hay tâm thần túc (concentration) hoặc giả tuệ giác (panna)
nơi những lo lắng phàm tục này. Tuệ giác vẫn không phải là yếu tố giá trị được
coi là quyền. Liên quan đến họ Sakavadin đặt câu hỏi, và phái đối nghịch đồng ý
tán thành.
Chính vì những đặc tính tâm linh như: niềm tin phàm tục và
những điều còn lại, là những đặc điểm thuộc lãnh vực quyền và không thể thiếu
yếu tố đức tin trong đó v.v... và những gì khác với niềm tin. v.v... [182]
chính vì thế để chứng tỏ cho thấy một niềm tin phàm tục và những gì còn lại chỉ
là những quyền và điều còn lại -- "Phải chăng không có niềm tin nơi những
điều vật chất phàm tục?" v.v... là câu hỏi được nêu lên để giải thích,
tương tự như trí tuệ phàm tục và những điều còn lại là tuệ quyền. v.v... thế
nên niềm tin phàm tục và điều còn lại cũng chính là sức mạnh kiềm chế trí tuệ
vậy v.v...
Những điều còn lại nên được hiểu như ghi trong Kinh Phật.
Ðiểm tranh luận về sức mạnh kiềm chế đạo đức kết thúc ở
đây.