Trong cái nhìn tương quan đối đãi, cuộc sống hiện
sinh chỉ là chuỗi ngày dài đầy khổ lụy. Có sự đau khổ ấy là vì chúng ta
chấp lấy huyễn cảnh vô thường, cái không thật có cho là bền vững, và duy
trì bản chất của tham ái, vô minh. Sự đảo điên của kiếp người cứ mãi
xoay vần như vậy cho đến khi đuối sức, gục ngã lăn tròn trên con đường
vô định. Kiếp này tương tác lên kiếp kia tạo ra một chuỗi tương tục trầm
luân. Cái khổ này chồng chất lên cái khổ kia như con lạc đà chở vật
nặng, sức nặng càng trở nên nặng nề hơn khi đi trong sa mạc hoang vắng
nơi mà kiếp sống của nó được định hình trên nấm mồ cát trắng; cũng vậy,
kiến chấp về cuộc đời của chúng ta ngày một sâu dày hơn.
Trong Khế kinh đức Phật dạy “Toàn thể thế giới đang
bốc cháy. Toàn thể vũ trụ đắm chìm trong khói lửa, toàn thể vũ trụ làm
mồi cho lửa, toàn thể vũ trụ run lập cập”. Lời dạy này mở ra một nhận
thức mới về cuộc đời và thiết lập nên một lộ trình tu tập cần thiết cho
sự thể nghiệm tâm linh. Đó là nhận thức về một thế giới bất an và con
đường tu tập để viễn ly ra khỏi thế giới bất an đó, nghĩa là chúng ta
phải thực hành theo con đường Phật dạy, ứng dụng giáo lý vào trong cuộc
sống của mình. Thế cho nên, khi trình bày cuộc đời đức Phật là chúng ta
đang nghĩ về một con người siêu việt mà chân lý của vị ấy luôn vận hành
tương tức với đời sống tâm linh, một quá trình hành đạo thực chứng nội
tâm.
Cách đây 2632 năm, từ cung trời Đâu Suất,
với bi nguyện độ sanh, Bồ-tát Hộ Minh đã thị hiện trần gian, sanh ra
trong dòng họ Sakya, nước Ca-tỳ-la-vệ ở Ấn Độ. Ngài đản sanh trong giai
đoạn lịch sử xã hội Ấn Độ phân tầng khắc nghiệt. Xã hội đã chế định nên
những quy luật quá khắt khe với con người, tạo ra bao nhiêu bất công, áp
bức, bóc lột, biến con người vốn đã nô lệ lại càng trở nên nô lệ tồi tệ
hơn. Con người mất đi quyền sống, quyền được làm người. Trong sự chờ
mong bi thương tuyệt vọng đó, đức Thế Tôn xuất hiện. Sự xuất hiện của
Ngài được xem như là vị cứu tinh cho những người dân Ấn Độ nói riêng, và
là vị Đại Cứu Tinh cho toàn nhân loại nói chung. Sự xuất hiện của Ngài
báo hiệu suối nguồn tuệ giác rồi đây sẽ mở ra, con đường thực nghiệm tâm
linh, đạt đến Thánh quả cho bất cứ ai đi trên con đường ấy rồi đây cũng
sẽ thành tựu. Bóng tối của vô minh sẽ bị đẩy lùi bởi tuệ giác vô thượng
của Ngài và con đường hướng đến Thánh quả của các đệ tử Ngài sẽ được nở
rộ ở thế gian này. Vì thế, ngay sau khi xuất hiện, Ngài được xem như là
sư tử vương ra khỏi hang khiến các loài thú phải khiếp sợ, cũng như
giáo pháp của Ngài rồi đây sẽ phủ trùm trên tất cả học thuyết. Ngài còn
được xem như là nhật nguyệt bừng tỏa xua tan đi bóng tối âm u đã phủ
trùm vô số kiếp lên cuộc sống của chúng sanh, để rồi ánh sáng ấy làm
hiển lộ vẻ đẹp rực rỡ của buổi bình minh tươi vui và hạnh phúc, hàng
phục những tà thuyết đem lại sự đau khổ cho cuộc đời.
Như vậy, sự xuất hiện của đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã mở
ra một cuộc cách mạng mới. Cuộc cách mạng ấy khai triển tự tính duyên
sinh, giúp cho những ai đang còn chìm đắm trong vũng bùn sanh tử, bằng
đời sống tư duy vô chấp liễu ngộ thực tại tánh, sớm ly tham, ly sân, ly
si ngay ở cõi đời này. Ngài ra đời vì một lý do duy nhất là đáp ứng
nguyện vọng thâm sâu thầm kín đó của con người, đem tình thương hóa giải
những đau khổ trong tâm tư con người; lấy bình đẳng để san bằng những
bất công của xã hội, khai ngộ tuệ giác cho mọi chúng sanh như trong kinh
Pháp Hoa tuyên thuyết “Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến”.
Chính sự hiện thân từ lúc nhập thai, đản sanh, thành đạo cho đến giây
phút trước khi nhập niết-bàn ấy của Ngài đã diễn thuyết bài pháp vô
ngôn. Mỗi hành động, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói cho đến sự im lặng của Ngài
cũng là những bài học mang lại nhiều giá trị cho cuộc sống nhân sinh.
Những bài pháp ấy cho đến ngày nay và mai sau vẫn luôn
là nền tảng tư tưởng căn bản cho mọi thời đại, cho mọi học thuyết đang
tìm kiếm giải pháp để xây dựng một thế giới hòa bình, một quốc gia an
lạc. Chúng được chuyển thành những pháp hành thẩm thấu trong đời sống tu
tập của mỗi người. Không kể sang hèn, không kể vua chúa hay kẻ bần
cùng, nếu người nào biết thực tập chuyển hóa thì người ấy có hạnh phúc,
có an lạc. Người nào sống trọn vẹn tinh thần mà đức Phật đã chỉ dạy thì
người đó gọi là Phật tử. Đức Phật là hiện thân của giác ngộ nên đạo Phật
gọi là đạo giác ngộ. Vì không hiểu rõ về vấn đề này, nên nhiều người
lầm lẫn cho rằng, đức Phật chúng ta là một nhà tôn giáo. Ngài cũng chỉ
như những vị thần của những tôn giáo khác với những huyền thoại khó tin,
khó chấp nhận mà lịch sử đã tô vẽ vị giáo chủ của mình. Ngài không đứng
trên lập trường như vậy “Ta không phải là Thượng đế, cũng không phải là
thần thánh, cũng không phải là con người, mà Ta là Phật.” Điều đó đã
minh chứng phần nào về con người và sự xuất hiện của Ngài. Do đó, chúng
ta không thể nói đức Phật lịch sử là con người bình thường như những
người xưa nay từng quan niệm bởi vì nếu ai cũng nhìn như vậy thì tôn
giáo không còn là tôn giáo nữa. Tôn giáo có một cái nhìn và cách lý giải
riêng của tôn giáo, cũng như khoa học có cái nhìn và cách lý giải riêng
của khoa học. Khoa học chỉ có thể giải thích một khía cạnh nào đó của
tôn giáo có thể cho là đúng mà thôi, chứ khoa học không thể giải thích
toàn bộ những điều mà tôn giáo đang đề cập. Theo Phật giáo, muốn có một
nhận định đúng về cuộc đời của đức Phật, chúng ta phải đặt cái nhìn
trong phạm trù tương quan duyên khởi, “cái này có cái kia có, cái này
không cái kia không; cái này sanh cái kia sanh, cái này diệt cái kia
diệt”. Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao
giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược
nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược. Sự đản sanh của Ngài là sự
đản sanh trong sự trú tâm an tịnh, hướng tâm nguyện độ sanh đem lại an
vui cho mọi người.
Trong kinh Trung bộ III, số
123, kinh Vị Tằng Hữu, đức Phật dạy: “Ngài không được sinh ra từ nơi bất
tịnh, lớn lên trong đau khổ và chết dần trong đau khổ.”
Còn kinh Hoa
Nghiêm, phẩm Nhập pháp giới đã trình bày: “Lúc Ma-da phu nhơn sắp đản
sanh Bồ-tát, ở trước mặt phu nhơn bỗng từ kim cang tế mọc lên hoa sen
lớn tên là nhất thiết bửu trang nghiêm tạng. Kim-cang làm cọng, các báu
làm tua, Như ý châu vương làm đài, có Phật sát vi trần số cánh. Tất cả
đều bằng châu Ma-ni, lưới báu lọng báu đều che phía trên. Tất cả thiên
vương cầm giữ, tất cả long vương mưa hương vũ, tất cả Dạ-xoa vương cung
kính rải thiên hoa. Tất cả Càn-thát-bà vương dùng âm thanh vi diệu ca
ngợi công đức của Bồ-tát thuở xưa cúng dường chư Phật. Tất cả Tu-la
vương bỏ tâm kiêu mạn mà cúi đầu đảnh lễ. Tất cả Ca-lâu-la vương thòng
phan báu khắp hư không. Tất cả Khẩn-na-la vương hoan hỷ chiêm ngưỡng ca
ngâm khen ngợi công đức của Bồ-tát. Tất cả Ma-hầu-la vương đều hoan hỷ
tán thán rải mây báu trang nghiêm cúng dường. Đây là thần biến thứ mười
của Bồ-tát sắp đản sanh.
Này thiện nam tử! Vườn Lâm-tì-ni thị hiện
mười thần biến như vậy rồi, sau đó Bồ-tát đản sanh như mặt nhật hiện nơi
hư không, như mây lành hiện ở đỉnh núi cao, như làn chớp sáng giữa cụm
mây dày, như ngọn đuốc sáng giữa đêm tối. Bấy giờ Bồ-tát từ hông bên hữu
của phu nhơn mà đản sanh, thân tướng quang minh, đủ các tướng hảo.
Này thiện nam tử! Lúc đó dù hiện sơ sanh nhưng Bồ-tát
đã tỏ thấu tất cả pháp như mộng, như huyễn, như ảnh, như tượng, không
đến, không đi, chẳng sanh, chẳng diệt.”
Sự đản sanh của một vị Phật
không thể hiểu và giải thích như sự sanh ra của những con người bình
thường. Vì chúng sanh mê muội đầu thai rồi mê muội ra đời, còn sự ra đời
của đức Phật chính là sự ra đời của một bậc Phước trí song toàn, theo
bi nguyện thị hiện độ sanh. Sự đản sanh của Ngài trong cuộc đời này là
muốn thể hiện rõ ràng hơn chân lý của cuộc đời xưa nay vẫn như vậy,
“Pháp nhĩ như thị”, “dù Như Lai có xuất hiện hay không xuất hiện thì
pháp tánh ấy vẫn như vậy”. Pháp ấy là cội nguồn của chân lý, là sự thật,
là một nơi không có dáng dấp của khổ đau hay bất hạnh, không có sự phân
chia giai cấp sang hèn, “tất cả sinh ra trong dòng máu cùng đỏ, trong
nước mắt cùng mặn”, cho nên ai cũng bình đẳng và có thể thành Phật “Nhất
thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh” như Ngài. Những huyền thoại ghi
chép đã lưu dấu lại cho đời những thâm ý mầu nhiệm. Mỗi biểu hiện là mỗi
bài pháp quý giá như “Voi trắng sáu ngà” khi vào thai mẹ với giáo lý
lục độ Ba-la-mật, vừa “sanh ra biết đi” đã phá tan những tập tục cổ hữu
đương thời của Ấn Độ, “Bảy bước đi” với thất thánh tài, hay câu nói bất
di bất dịch “trên trời dưới trời chỉ có chân lý là tối thượng”, v.v…
Phủ phục trước ánh sáng của trí tuệ và lòng từ bi bao
la của đức Phật, học giả Radha Krishman đã viết: “Nơi đức Phật Cù đàm,
ta nhận thấy một tinh hoa toàn diện của người phương Đông. Ảnh hưởng của
ngài trong tư tưởng và đời sống nhân loại là một kỳ công hi hữu, cho
đến nay không thua kém ảnh hưởng của bất cứ vị giáo chủ nào trong lịch
sử. Mọi người đều sùng kính tôn ngài là người đã dựng lên một hệ thống
tôn giáo vô cùng thâm sâu huyền diệu, ngài thuộc về lịch sử tư tưởng thế
giới. Ngài là kết tinh của người thiện trí, bởi vì đứng về phương diện
trí thức, đạo đức trang nghiêm và tinh thần minh mẫn chắc chắn ngài là
một trong những bậc vĩ nhân cao thượng nhất của lịch sử.”
Cuộc đời của Ngài có nhiều giải thích khác nhau. Mục
đích chung trong việc dùng ngôn từ để diễn đạt cũng chỉ làm cho mọi
người rõ thêm về sự thị hiện của Ngài, và chính là làm sao đạt được sự
giải thoát ngay trong hiện tại cho chính mình. Đức Phật cũng đã từng
dạy: “Ta chỉ là bậc đạo sư chỉ đường”, để nói lên thể tính trong sáng
nơi mỗi người, nhằm khích lệ con người không nên ỷ y nơi ngài mà hãy
bằng nỗ lực tự thân vươn lên trong khả tính thực chứng của mình. Tất cả
những gì Ngài còn để lại ở cuộc đời không được xây dựng trên tính cố hữu
ràng buộc bắt buộc mọi người phải tuân theo, nhưng để đạt được hạnh
phúc an lạc thực sự thì phải đi theo lộ trình tự chứng mà Ngài đã trải
qua. Chính điểm này chúng ta thấy, sự thị hiện đản sanh của Ngài đã mở
ra cho nhân loại một kỷ nguyên mới. Kỷ nguyên ấy được duy trì và tồn tại
đích thực trong hiện quán của trí tuệ và từ bi. Chỉ khi nào trí tuệ và
từ bi luôn được vận dụng trong đời sống, thì cuộc đời sẽ có một sự
chuyển đổi, có sự thăng hoa tâm linh, còn không thì nó mãi mãi vẫn đắm
chìm trong chuỗi chấp thủ khổ đau và bất hạnh.■
Thích
Khải Tâm