- Pali-Việt Đối Chiếu
- Bình Anson
Perth, Western Australia
Abhidhamma: Vi Diệu Pháp; Thắng Pháp; những
giáo pháp cao thượng
của Đức Phật; tạng thứ ba trong Tam Tạng Pali; triết học và tâm lý
học
Phật giáo; siêu hình học Phật giáo, giải thích sự vật theo chân
đế.
Abhinna: Thần thông; thắng trí; năng lực siêu
nhiên.
Abhirati: Người có sự thích thú về một thứ gì
đó, như
thích thú và nhiệt thành trong giáo pháp chẳng hạn; dùng để chỉ
người
hành thiền với mục đích được hưởng dục lạc ngũ trần trong các kiếp
sau.
Akusala: Bất thiện; ác; tội lỗi.
Alara Kalama: Một thiền sư nổi tiếng thời Đức
Phật, một
trong hai vị thầy của Bồ tát Sĩ Đạt Ta.
Anagami: A na hàm; bất lai; vị đắc tầng thánh
thứ ba,
không còn tái sanh vào cảnh dục giới, hoàn toàn loại trừ sân hận
và
tham ái ngũ dục; nhưng còn các phiền não vi tế như: luyến ái cảnh
sắc
giới, luyến ái cảnh vô sắc giới, ngã mạn, phóng dật và vô minh.
Anagarika: Người hộ tăng. Trong các xứ Phật
giáo, người
hộ tăng giữ tám giới hay mười giới, thường mặc đồ trắng, sống
trong chùa phụ giúp cho tăng, ni.
Anapana-sati: Niệm hơi thở.
Anatta: Vô ngã, phi ngã, không có tự ngã, không
có bản chất,
không đáp ứng được sự mong ước của con người. Một trong Tam tướng:
vô thường, khổ, vô ngã.
Anatta lakkhana: Đặc tính hay tướng vô ngã.
Hiện tượng
vượt ngoài khả năng kiểm soát.
Anatta-nupassana-nana: Tuệ giác thấy được sự vô
ngã. Trực
giác được rằng không ai có thể điều khiển, kiểm soát các pháp.
Anicca: Vô thường.
Anicca lakkhana: Đặc tính hay tướng vô thường.
Hiện tượng
sinh diệt của các pháp.
Anicca-nupassana-nana: Tuệ giác thấy được sự vô
thường.
Trực giác được sự diệt tận nhanh chóng của các pháp.
Anuggahita: Bảo vệ, đặc biệt cho việc hành
thiền.
Anumodana: Lời cầu chúc của nhà sư sau khi nhận
lãnh của
tín thí (tứ vật dụng).
Apaya: Cảnh khổ. Có bốn cảnh khổ: súc sanh, ngạ
quỉ, a
tu la, địa ngục. Chúng sinh ở những cõi này thiếu thiện nghiệp nên
không có hạnh phúc.
Araha: Hoàn toàn trong sạch thanh tịnh, xứng
đáng được
người, trời và phạm thiên kính trọng. Đây là ân đức đầu tiên trong
mười ân đức của Phật.
Arahat hay Arahanta: A la hán hay Ứng cúng, bậc
thánh thứ tư.
Là người hoàn toàn giác ngộ, diệt tận phiền não, không còn tâm
bệnh.
Sau khi chết không còn tái sinh nữa.
Ariyasaccani: Chân lý cao thượng. Xem thêm chữ
Cattari
ariyasaccani (Tứ Diệu Đế)
Asava: Hoặc lậu; ách nô lệ; trầm luân; trầm
mịch hay
dòng nước lũ. Bởi vì chúng trói buộc, nhận chìm và lôi cuốn chúng
sinh
trôi nổi trong sông mê bể khổ. Có bốn loại hoặc lậu:
Dục lậu (Kamasava): Ưa thích thụ hưởng những
khoái cảm
giác quan.
Hữu lậu (Bhavasava): Khát vọng được tồn tại
vĩnh viễn.
Kiến lậu (Ditthasava): Quan kiến sai lầm về vũ
trụ và
nhân sinh. Có sáu mươi hai tà kiến hay quan kiến sai lầm nhưng có
thể chia
ra làm hai nhóm chính: thường kiến và đoạn kiến. Thường kiến, cho
rằng
bản ngã và thế giới trường tồn vĩnh cửu. Đoạn kiến chủ trương bản
ngã hoàn toàn hủy diệt sau khi thân hoại mạng chung.
Vô minh lậu (Avijjasava): Không thấy rõ hay
thấy sai lầm.
(Xem chữ Avijja).
Atapa: Rất nóng; Thiền có năng lực đốt cháy
phiền não.
Avijja: Vô minh. Không thấy chân lý, nghĩa là
không thấy
được vô thường, khổ và vô ngã, và thấy sai lầm: cho rằng thế gian
là trường tồn, an vui và có tự ngã.
Ayatana: Các xứ, gồm nội xứ và ngoại xứ. Nội xứ
gồm:
Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm. Ngoại xứ gồm: Hình sắc, âm
thanh,
mùi, vị, vật xúc chạm và đối tượng của tâm.
Bhavana: Tham thiền hay thiền, đốt cháy phiền
não, gồm hai
loại: thiền vắng lặng và thiền minh sát. (Xem chữ Samadha và
Vipassana).
Bhikkhu: Tỳ khưu, tỳ kheo. Khất sĩ. Nam tu sĩ
Phật giáo, giữ
227 giới, cạo đầu, mặc y vàng sống nhờ vào thực phẩm khất thực.
Còn có nghĩa là những người cố gắng tu trì giới, định, huệ để giải
thoát.
Bodhi: Giác ngộ, trí tuệ phát sinh vào lúc đạo
tâm hiện
khởi.
Bodhisatta: Bồ tát, người có hạnh nguyện trở
thành một
vị Phật toàn giác để có đủ khả năng cứu độ chúng sinh. Còn để chỉ
Đức Phật khi chưa giác ngộ.
Bojjhanga: Yếu tố giác ngộ. Đặc tính của tâm
dẫn đến
giác ngộ. Cũng là tuệ giác thấy rõ Tứ Diệu Đế. (xem chữ
sambojjanga)
Brahma: Phạm thiên. Tên của vị trời cao nhất.
Tên của một
cõi trời vô sắc, chỉ có tâm mà không có thân.
Brahmacariya: Phạm hạnh. Đời sống thánh thiện,
một đời
sống cống hiến cho sự phát triển tinh thần. Đời sống độc thân
thánh
thiện.
Brahma vihara: Tứ vô lượng tâm: Từ, Bi, Hỉ, Xả.
Buddha: Phật. Đấng giác ngộ. Danh từ được dùng
để chỉ
Thái tử Siddhattha Gotama, con của vua Suddhodana và hoàng hậu
Maya. Vào năm
hai mươi chín tuổi, Thái tử rời bỏ cung điện, xuất gia tu hành.
Sau khi
theo học với một số thầy và thực hành khổ hạnh trong sáu năm không
hiệu
quả, Thái tử tự tìm ra Trung Đạo và giác ngộ do nỗ lực của chính
mình. Trong bài pháp đầu tiên, Dhammacakka-pavatthana Sutta (Kinh
chuyển pháp
luân), Đức Phật đã dạy Bát Chánh đạo và Tứ Diệu Đế.
Buddhanussati: Niệm Ân Đức Phật.
Caga: Bố thí, dứt bỏ. Mong muốn loại trừ phiền
não, cũng
như có sự bố thí vật chất rộng rãi.
Cattari ariyasaccani: Tứ Thánh Đế hay Tứ Diệu
Đế: (Bốn
chân lý về sự khổ):
Chân lý về sự khổ (Dukkha): Sinh là khổ, già là
khổ,
đau là khổ, chết là khổ, xa lìa những gì mình yêu thương là khổ,
gần
những gì mình ghét là khổ, muốn không được là khổ...(sầu, bi, khổ,
ưu, não là khổ)... ngũ uẩn thủ là khổ.
Chân lý về nguyên nhân của sự khổ (samudaya):
Dục ái
(kamatanha), hữu ái (bhavatanha) và vô hữu ái (vibhavatanha).
Chân lý về sự diệt khổ (Nirodha): Hoàn toàn
chấm dứt,
là từ bỏ ái dục, tháo gỡ và giải thoát.
Chân lý về con đường dẫn đến nơi thoát khổ
(magga): Đó
là Bát Chánh Đạo.
Chanda: Dục: ý muốn làm
Citta: Tâm
Cittaa: Tên một vị tỳ khưu ni vào thời Đức
Phật. Tỳ
khưu ni Cittaa đã chế ngự được sự đau yếu thể chất trầm trọng và
sự yếu đuối, nỗ lực tinh tấn trở thành một vị A la hán.
Citta viveka: Tâm ẩn cư. Tâm an trú. Tâm ẩn cư
khỏi mọi
phiền não làm cản trở sự phát triển minh sát. Tương đương với liên
tục
chánh niệm, không để cho phiền não chế ngự.
Dana: Bố thí. Một trong mười Ba la mật (xem
Parami). Đây
là pháp thực hành đầu tiên để loại trừ tâm tham ái.
Dasa kasina: Mười đề mục hành thiền: Tứ đại
(đất,
nước, gió, lửa), bốn màu sắc (xanh, vàng, đỏ, trắng), không gian,
ánh
sáng. Những đề mục hành thiền này giúp chế ngự tham ái.
Deva: (Nguyên nghĩa: Chúng sanh có ánh sáng).
Các vị trời,
có cơ thể vi tế nên mắt người không nhìn thấy được. Đây là những
chúng sanh sống trên các cõi trời, được an vui hạnh phúc hơn cõi
người,
nhưng khi hết tuổi thọ vẫn còn phải tái sanh trở lại chịu khổ
trong
sanh, già, đau, chết, tức là vẫn còn luân lưu trong vòng luân hồi.
Devadatta: Một vị sư vào thời Đức Phật, âm mưu
chia rẽ
giáo hội, và về sau nhiều lần muốn giết hại Đức Phật.
Dhamma: Pháp, những lời dạy của Đức Phật; bản
chất của
sự vật; luật thiên nhiên; chân lý.
Dhamma vicaya: Trạch pháp giác chi, một tâm sở
thấy rõ bản
chất các pháp, hay thấy rõ Niết bàn. Chi thứ hai trong Thất Giác
Chi.
Dhutanga: Hạnh đầu đà, Thầy Tỳ khưu thực hành
hạnh
này để loại trừ phiền não. Người hành hạnh đầu đà giữ một số
qui điều chặt chẽ, tri túc, từ bỏ, hạn chế các nhu cầu, chẳng hạn
giữ hạnh: Chỉ dùng một bộ y gồm: y vai trái, y nội, y hai lớp; ăn
ngày
một bữa, sống trong rừng ....
Dosa: Sân hận, giận dữ, nóng giận. Tâm từ chối
các đối
tượng không vừa lòng; chẳng hạn, trong lúc hành thiền, tâm khó
chịu khi
cơ thể bị đau nhức. Sân hận là một trong ba phiền não chính khiến
tâm
chúng sinh mê mờ. Hai phiền não kia là tham lam và si mê.
Dukkha: Khổ, bất toại nguyện, đau khổ. Đặc tính
thứ
hai của các pháp có điều kiện (pháp hữu vi). Đây là kết quả của vô
thường và tham ái. Khổ là chân lý đầu tiên trong Tứ Diệu Đế, có ba
loại khổ chính: khổ khổ, hành khổ và hoại khổ.
Dukkha lakkhana: Đặc tính hay tướng của khổ nhờ
đó mà
thấy được khổ. Bị áp bức, bị đè nén bởi sự vô thường.
Dukkha-nupassana-nana: Tuệ giác thấy được sự
khổ. Trực
giác được rằng không thể dựa vào ai hay cái gì cả, tất cả mọi đối
tượng đều đáng sợ, đáng nhờm gớm, không nơi nào có thể nương nhờ
hay ỷ lại vì tất cả đều bị hủy diệt, bị tan biến mau chóng.
Hiri: Hổ thẹn tội lỗi, cảm giác hổ thẹn về
những gì
cần phải hổ thẹn. Cảm giác hổ thẹn khi làm hay nghĩ đến điều xấu
xa, tội lỗi.
Issa: Ganh tị. Không muốn nhìn thấy người khác
thành công
hay hạnh phúc.
Jetavana: Chùa Kỳ Viên. Một ngôi chùa gần thành
Savatthi ở
miền bắc Ấn Độ, nơi đức Phật thường dạy đạo.
Jhana: Nhập định hay tầng thiền. Đặc tính của
tâm có
khả năng dính chặt trên đối tượng và quan sát đối tượng, đốt cháy
phiền não.
Jhana samma ditthi: Chánh kiến trong các tầng
thiền. Đây là
chánh kiến khởi sinh trong tám tầng thiền định, không phải trong
thiền
minh sát.
Kaccayana: Một trong những người học trò lớn
của Đức
Phật, một vị A la hán, có khả năng diễn giải những bài pháp ngắn
gọn
của Đức Phật. Nhiều bài Pháp của Đức Phật chỉ vỏn vẹn có vài chữ.
Kalyana mitta: Người bạn đức hạnh, người bạn
tinh thần.
Kamacchanda: Dục lạc. Chướng ngại đầu tiên
trong năm chướng
ngại.
Kamma: Nghiệp. Hành động, lời nói hay tư tưởng
cố ý.
Nghiệp tích lũy trong quá khứ hay trong hiện tại sẽ trả quả trong
hiện
tại hay trong tương lai tùy theo tính chất của nghiệp.
Kammassakata samma-dhitthi: Chánh kiến thấy rõ
chỉ có nghiệp
mới thực sự là gia tài của chúng ta.
Kammatthana: Tham thiền.
Karuna: Lòng bi mẫn. Tâm se lại trước sự đau
khổ của chúng
sinh khác. Lòng mong muốn loại bỏ những đau khổ của chúng sinh
khác.
Kasina: Đề mục hành thiền Kasina (Biến xứ). Có
mười đề
mục hành thiền Kasina: Đất, nước, lửa, gió, xanh, vàng, đỏ, trắng,
ánh sáng, "khoảng không" có giới hạn.
Kaya: Thân thể, hình dáng.
Kaya viveka: Thân ẩn cư, thân an trú. Điều kiện
đầu tiên
giúp cho việc hành thiền tốt đẹp. Thái độ không dính mắc vào lục
trần:
sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp. Cũng có nghĩa là thân ẩn cư,
tức là
xa lánh các nơi ồn ào náo nhiệt. Hằng ngày đến nơi yên tịnh vắng
lặng
để hành thiền.
Khanda: Uẩn, nhóm, tập hợp. Thân người là tập
hợp của
năm uẩn: Sắc (rupa), thọ (vedana), tưởng (sanna), hành (sankhara),
thức
(vinnana).
Khema: Tịnh an. An ninh, an toàn. Một trong
những đặc tính của
Niết bàn, trái hẳn với sự an toàn có điều kiện của thế gian.
Kilesa: Phiền não, những yếu tố làm cho tâm ô
nhiễm. Phiền
não có thể khởi dậy ngay cả khi các điều kiện của chúng đã được
loại trừ.
Kilesa parinibbana: Hoàn toàn loại trừ phiền
não.
Kodha: Sân hận, nóng nảy, "tâm gai góc". Sân
hận
và những tâm sở đi kèm với sân hận.
Kusala: Thiện, tốt.
Kusita: Người lười biếng.
Lakkhana: Đặc tính.
Lobha: Tham. Tâm nắm giữ vật ưa thích.
Lokiya: Thế tục.
Lokuttara: Siêu thế. Đây là từ để chỉ bốn đạo,
bốn
quả và Niết bàn.
Macchariya: Bủn xỉn. Không muốn thấy người khác
hạnh
phúc như mình.
Magga: Đạo. Danh từ để chỉ giây phút giác ngộ,
khi mọi
phiền não đều được loại trừ. Tâm đầu tiên của Niết bàn.
Mahakassapa: Ma Ha Ca Diếp. Một trong những vị
học trò đầu
tiên của Đức Phật. Ngài là vị tỳ khưu đệ nhất đầu đà, chủ tọa
kỳ kết tập Tam Tạng lần đầu tiên sau khi Đức Phật niết bàn ba
tháng.
Mahamoggallana: Ma Ha Mục Kiền Liên. Một trong
hai Đại Đệ
Tử của Đức Phật, có thần thông bậc nhất.
Mahapajapati Gotami: Người dì đồng thời cũng là
mẹ kế của
Thái Tử Siddhatta. Vị nữ tỳ khưu đầu tiên, sáng lập Tỳ khưu ni
đoàn.
Vị thánh đệ nhất về sự chứng đắc.
Mahayana: Đại thừa. Sau khi hoàng đế Asoka cố
gắng hợp
nhất Tăng Chúng vào thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, một số tông
phái tự động phát triển các học phái của riêng mình. Một số quan
điểm
của Đại thừa khác hẳn giáo lý thời nguyên thủy, chẳng hạn như quan
điểm về Bồ tát (bodhisatta): Bồ tát từ khước Niết bàn để có thể
tiếp tục sống trong Tam Giới cứu độ chúng sinh. Trong khi đó Phật
giáo
Nguyên thủy dựa vào lời dạy cuối cùng của Đức Phật trước khi nhập
diệt, khuyến khích mọi người hãy "tự nổ lực để cứu độ chính
mình" (Xem kinh Mahaparinibbana Sutta). Kinh Vaipulya quan niệm
khác biệt về
Bồ tát đã được thêm vào trong Đại tạng Sanskrit. Đại thừa thêm vào
nhiều kinh điển mà thời Phật Giáo Nguyên Thủy không có. Phật giáo
Đại
thừa được truyền bá vào Trung Á do các thương buôn và các nhà sư
thời
vua Kushan ở Ấn Độ trong suốt hai thế kỷ đầu tiên sau Công nguyên
và dần
dần lan tràn sang Tây tạng, Trung hoa, Siberia, Triều tiên, Nhật
bản và Việt
nam. Từ thế kỷ thứ tám đến thế kỷ thứ mười ba được truyền sang
Kampuchia, Java, Sumatra và Mã lai.
Mana: Mạn. Có ba loại mạn: Cho mình hơn người,
cho mình bằng
người, cho mình thua người.
Mara: Ma vương. Theo nguyên ngữ Pali, Mara được
rút ra từ một
từ gốc có nghĩa là "sự chết". Nhân cách hóa sức mạnh của si
mê và ái dục. Si mê và ái dục hủy hoại đức hạnh và mạng sống
chúng sinh, là chủ tể của mọi cảnh giới có điều kiện.
Matikamata: Một tín nữ vào thời Đức Phật, hỗ
trợ chư
tăng hành thiền. Trong lúc lo nấu nướng cho chư tăng bà luôn luôn
chú tâm
chánh niệm vào việc làm, chẳng bao lâu sau bà đắc quả.
Metta: Từ ái, tâm từ. Mong cầu tất cả chúng
sinh có đầy
đủ sức khỏe, thân tâm an lạc.
Middha: Buồn ngủ. Tâm trở nên tiêu cực, thụ
động khi buồn
ngủ có mặt.
Moha: Si mê. Tâm không đủ khả năng nhận biết
những điều
xảy ra, đặc biệt là các cảm giác vô ký. Một trong ba Phiền não
chính
(tham, sân, si) làm tâm chúng sinh mê mờ, đen tối.
Mudita: Hỉ. Vui mừng trước sự thành công, hạnh
phúc của
kẻ khác.
Nama: Danh hay tâm. Tâm, theo nguyên nghĩa, là
cái hướng đến
đối tượng hay cái làm cho những cái khác hướng đến chúng. Đây là
một
từ để chỉ mọi hiện tượng của tâm.
Namuci: Một tên khác của Mara.
Nekkhamma sukha: Hạnh phúc của sự khước từ,
hạnh phúc của
sự xuất gia. Hạnh phúc, an lạc và thoải mái đến từ sự xa lìa dục
lạc
ngũ trần, xa lìa những phiền não do lạc thú ngũ trần đem lại.
Nibbana: Niết bàn. Không điều kiện, hoàn toàn
không có phiền
não vì không phải là thân hay tâm.
Nikanti tanha: Tham luyến vào những lạc thú do
thiền đem lại.
Đây là một loại phiền não rất vi tế, mong manh như mạng nhện nhưng
làm
cản trở bánh xe trí tuệ.
Nimita: "Tướng" hay hình ảnh trong tâm xuất
hiện
lúc hành thiền, cho thấy khả năng định tâm cao.
Nirodha: Diệt, chấm dứt.
Nirodha samapatti: Diệt Thọ Tưởng Định. Đạt
được sự
diệt. Đây là loại định tâm mà chỉ có vị A la hán hay A na hàm mới
có
thể vào được.
Nivarana: Chướng ngại. Có năm chướng ngại trên
đường
giải thoát, giác ngộ: Tham ái, sân hận, giao động hối hận, dã dượi
buồn
ngủ và hoài nghi.
Ottappa: Ghê sợ tội lỗi. Không muốn làm điều ác
vì sợ
hậu quả tai hại của nó; đây là thái độ của người trí.
Pabbajita: Xuất gia hay từ bỏ. Người từ bỏ đời
sống
thế tục để diệt trừ phiền não.
Pacceka Buddha: Độc Giác Phật. Tự mình giác
ngộ, nhưng sau
khi giác ngộ không thể giảng dạy cho người khác.
Paccakkha-nana: Tri giác tuệ. Tri giác do kinh
nghiệm trực tiếp.
Tuệ giác trực tiếp. Đồng nghĩa với chữ Vipassana.
Pali: Ngôn ngữ dùng để ghi kinh điển Phật giáo,
gần với
tiếng Magadhi. Đây là ngôn ngữ mà Đức Phật và các đệ tử của Ngài
dùng để giảng dạy và nói chuyện hằng ngày.
Pamojja, pamujja: Khinh hỉ hay thiểu hỉ. Loại
hỉ đầu tiên
trong năm loại hỉ.
Pancendriya: Ngũ căn: Một từ về thiền để chỉ
năm tâm sở:
Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ.
Panna: Trí tuệ. Trí tuệ trực giác về chân lý
tối thượng.
Paramattha dhamma: Thực tại tuyệt đối. Chân đế:
Đối tượng
được nhận biết một cách trực tiếp không qua khái niệm. Có ba loại
chân đế: hiện tượng vật chất, hiện tượng tâm và Niết bàn.
Paramatha sacca: Chân lý tuyệt đối. Cùng nghĩa
với
paramattha dhamma. (phản nghĩa với sammuti sacca).
Parami: Ba la mật. Hoàn hảo. Sức mạnh thanh
tịnh nội tâm
được phát triển và tích lũy qua nhiều đời. Có mười ba la mật: dana
(bố
thí), sila (trì giới), nekkhama (xuất gia hay khước từ), panna
(trí tuệ),
viriya (tinh tấn), khanti (nhẫn nhục), sacca (chân thật),
adhitthana (quyết định),
metta (tâm từ) và upekkha (tâm xả).
Parinibbana: Vô Dư Niết Bàn. Một vị Phật hay A
la hán khi
còn sống thì gọi là Hữu Dư Niết Bàn, lúc rời bỏ thân thể này thì
gọi
là Vô Dư Niết Bàn.
Parisuddhi sukha: Tịnh lạc. Hạnh phúc an lạc
không trộn lẫn
với phiền não. Niết bàn.
Passaddhi: Thư thái. Chi thứ năm trong thất
giác chi.
Paticca samuppada: Thập nhị nhân duyên.
Patimokkha: Giới bổn, Ba la đề mộc xoa: Giới
luật được
ghi trong tạng luật (227 giới cho Tỳ khưu và 311 giới cho Tỳ khưu
ni), tạng
đầu tiên trong Tam Tạng Pali. Chư Tăng Ni mỗi tháng phải tụng giới
bổn
hai lần vào ngày mười bốn và ba mươi mỗi tháng
Peta: Ngạ quỉ. Quỉ đói. Loại quỉ không có hạnh
phúc.
Phala: Quả. Tâm xảy ra tiếp theo đạo tâm, tiếp
tục thấy
Niết bàn, và trong khi đó thì phiền não bị loại trừ.
Phassa: Xúc, một tâm sở phát sanh khi tâm tiếp
xúc với đối
tượng.
Pindapata: Trì bình hay khất thực: chư tăng ôm
bát nhận cơm
cúng dường của bá tánh.
Pati: Hỉ. Nhờ tâm trong sáng thanh tịnh nên
thân và tâm có
cảm giác nhẹ nhàng thích thú.
Puthujjana: Thế tục
Raga: Dục ái. Tham ái.
Rupa: Sắc, vật chất
Saddha: Đức tin
Sahagata: Đi kèm với. Phối hợp với.
Sakadagami: Tư Đà Hàm. Nhất Lai. Tham ái và sân
hận của vị
có quả thánh thứ hai đã yếu kém nên chỉ còn tái sinh một lần.
Samatha bhavana: Thiền vắng lặng. Hành thiền
theo bốn mươi
đề mục nhằm mục đích đạt được tâm vắng lặng. Bình an do chế ngự
được một số phiền não và chướng ngại.
Samadhi: Định. Trạng thái của tâm trụ trên một
đối tượng
duy nhất. Có ba loại Định: Chuẩn bị (Parikamma), cận định
(upacara) và
định (jhana hay appana). Chi thứ sáu trong Thất Giác Chi.
Samanera: Sa di
Samaneri: Sa di ni
Samatha jhana: Nhập Định. Tâm hoàn toàn an trú
trong một đề
mục duy nhất. ở trong tình trạng hoàn toàn an tịnh, tĩnh lặng, tâm
thấm
nhập vào đề mục.
Sambojjhanga: Thất giác chi. Bảy yếu tố giác
ngộ. Bảy
nhân sinh quả bồ đề gồm: Chánh niệm (sati), Trạch pháp (dhamma
vicaya),
Tinh tấn (viriya), Hỉ (piti), Thư thái (passaddhi), Định (samadhi)
và Xả
(upekkha).
Samma-ditthi: Chánh kiến. Kiến thức chân chánh.
Samma-kammanta: Chánh nghiệp. Hành động chân
chánh: Không
sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh.
Samma-sambuddha: Tam miệu tam bồ đề. Chánh đẳng
chánh
giác, tự mình ngộ lấy không thầy chỉ dạy.
Sammasana-nana: Tư duy trí. Tuệ thấy rõ: vô
thường, khổ não,
vô ngã. Đạt tuệ này, thiền sinh thấy rõ sự tan rã, sự biến mất một
cách nhanh chóng của đối tượng. Với sự thấy rõ này, thiền sinh
kinh
nghiệm trực tiếp rằng tất cả mọi vật đều vô thường, bất toại
nguyện và không có tự ngã. Được gọi là "liễu tri" vì thiền
sinh tự mình thấy rõ chân lý căn bản.
Samma vaca: Chánh ngữ. Lời nói chân chánh: lời
nói thành thật,
lời nói đem lại sự đoàn kết, lời nói dịu dàng, lời nói hữu ích.
Sampajjanna: Giác tỉnh. Biết mình. Hiểu biết
sáng suốt.
Samsara: Vòng luân hồi. Vòng tham ái và đau khổ
do không hiểu
biết chân lý
Samudaya: Khởi sinh.
Samudaya dhamma: Pháp duyên sinh.
Samutti sacca: Tục đế. Sự thật thế tình. Ngược
với chân
đế: sự thật tuyệt đối. Tục đế dính mắc quan niệm, vào danh từ như
cho rằng có tôi, anh, chị, ghế, bàn, sông, núi ... Chân đế nhìn
đúng bản
chất của sự vật nên không có tôi, anh, chị, ghế, bàn, sông, núi
... mà
chỉ có vật chất và tinh thần thuần túy hay danh và sắc hoặc thân
và
tâm
Sangha: Tăng già. Chúng. Cộng đồng tu sĩ Phật
giáo gồm những
nhà sư ăn mặc theo Phật, tu trì Giới (227 giới), Định, Huệ.
Sankhara: Hành. Trong thập nhị nhân duyên thì
hành có nghĩa
là tác ý. Trong ngũ uẩn thì hành chỉ cho năm mươi tâm sở. Hành còn
có
nghĩa là danh sắc hay các pháp có điều kiện, chẳng hạn như câu:
Các
pháp hành đều vô thường, hãy tinh tấn, chớ phóng dật. Chữ hành ở
đây
có nghĩa là các pháp có điều kiện hay danh sắc
Sankhara paramattha dhamma: Chân lý tuyệt đối
về các pháp
có điều kiện. Hiện tượng danh sắc hay thân tâm được trực tiếp thấy
rõ, không xuyên qua tư duy hay khái niệm.
Sankharupekkhanana: Tuệ xả. Có tâm xả thọ đối
với tất
cả mọi pháp (duyên sinh). Một trong những tuệ giác cao nhất trong
thiền
minh sát. Một trạng thái quân bình nội tâm tinh tế không bị ảnh
hưởng
bởi các cảm thọ vui khổ
Sanna: Tưởng: tri giác, ý niệm, quan kiến, trí
nhớ.
Santi sukha: Tịnh lạc: hạnh phúc tịch tịnh. Một
từ để
chỉ kinh nghiệm Niết bàn.
Sariputta: Xá lợi phất. Một trong hai đại đệ tử
của Phật,
có trí tuệ bậc nhất.
Sati: Chánh niệm. Ghi nhớ đúng đắn. Chi thứ
nhất trong thất
giác chi.
Satipatthana: Tứ niệm xứ: Bốn căn bản hay bốn
lãnh vực
của chánh niệm (ghi nhớ): niệm thân, niệm thọ, niệm tâm và niệm
pháp.
Satipatthana Sutta: Kinh Tứ niệm xứ. Một bài
kinh trong đó
Đức Phật chỉ dạy cách thực hành chánh niệm.
Sayadaw: Đại sư. Một danh từ của người Miến
Điện để
tôn xưng một thiền sư hay một vị trụ trì.
Sila: Giới. Đức hạnh.
Silashin: Tu nữ Miến Điện, giữ tám hay mười
giới, Mặc
y phục vàng, hồng hay nâu.
Sona Thera: Tên một vị tỳ khưu ni. Bị con cái
ruồng bỏ
Sona vào chùa tu và đắc quả.
Sotapanna: Tu đà huờn, nhập lưu: đắc quả thánh
thứ nhất,
kinh nghiệm Niết bàn lần đầu tiên, dứt trừ ba dây trói buộc: thân
kiến,
hoài nghi, giới cấm thủ. Vì các phiền não đã yếu nên vị tu đà huờn
không bị tái sinh vào bốn cõi dữ. Còn gọi là thất lai vì vị tu đà
huờn
chỉ còn tái sinh tối đa bẩy kiếp.
Subhadda: Một tu sĩ ngoại đạo trở thành người
học trò
cuối cùng của Đức Phật. Subhadda trở thành một vị tỳ kheo Phật
giáo
trước khi Phật nhập Niết bàn độ vài tiếng đồng hồ.
Sukha: Lạc, hoan hỉ, cảm giác vui vẻ. Chi thứ
tư trong tầng
thiền định thứ nhất.
Sumedha: tên một vị ẩn sĩ giữ hạnh bồ tát để
trở thành
một vị Phật toàn giác. Đây là vị bồ tát tiền thân Phật Thích Ca.
Sutta: Kinh. Ghi lại những lời giảng của Đức
Phật. Tạng
thứ hai trong Tam Tạng Pali.
Tanha: Ái dục, tham ái, lòng tham muốn dẫn đến
tái sinh.
Tatra majjhattata: Quân bình nội tâm. Một khía
cạnh của
tâm xả.
Tavatimsa: Cõi trời Đao Lợi còn gọi là cõi trời
Tam thập
tam thiên: cõi trời của ba mươi ba vị trời. Đây là cõi trời mà Đức
Phật thuyết vi diệu pháp cho Phật mẫu nghe. Hoàng hậu Maya sau khi
chết
tái sinh vào cõi trời này.
Thera: Trưởng lão tăng. Thường được dùng để
trước tên
những vị tăng cao hạ để bày tỏ lòng kính trọng.
Theri: Trưởng lão ni. Thường được dùng để trước
tên
những vị Ni cao hạ để bày tỏ lòng kính trọng.
Theravada: Nguyên ngữ là lời dạy của những vị
trưởng lão.
Trưởng lão bộ, Bảo thủ bộ, Thượng tọa bộ hay Phật giáo nguyên
thủy.
Một tông phái duy nhất trong số mười tám tông phái còn lại sau khi
Phật
niết bàn. Các vị trưởng lão tụng đọc lại tất cả những lời dạy của
Đức Phật vào kỳ kết tạp tam tạng lần thứ nhất, ba tháng sau khi
Phật
niết bàn. Những lời dạy này được nhóm trưởng lão bảo thủ lưu giữ
cho đến ngày nay. Phật Giáo Nguyên Thủy được duy trì và phổ biến
tại
các xứ Miến Điện, Thái Lan, Kampuchia, Lào, và Tích Lan.
Thina: Dã dượi.
Thina middha: Dã dượi buồn ngủ. Dã dượi và buồn
ngủ thường
đi đôi với nhau. Dã dượi là tâm co rút lại như lông gà đặt gần lửa
thì bị teo lại. Buồn ngủ là một tâm thụ động đi theo dã dượi.
ThÊna
middha là chướng ngại thứ tư trong năm chướng ngại, là đạo binh
thứ
năm trong mười đạo binh ma.
Tipitaka: Tam tạng kinh. Gồm ba tạng: Luật
(vinaya) giới điều,
(những qui luật mà tăng Ni phải hành trì), Kinh (sutta) và Vi diệu
pháp
(Abhidhamma)
Tisarana: Tam qui. Qui y Phật, qui y Pháp, qui y
Tăng.
Uddhacca kukkucca: Trạo hối: Bất an giao động
và hối hận.
Chướng ngại thứ tư trong năm chướng ngại
Uddhata: Bất an, nguyên nghĩa là giao động.
Udaka Ramaputta: Một thiền sư nổi tiếng thời
Đức Phật,
một trong hai vị thầy của Bồ tát Sĩ Đạt Ta.
Upadana: Chấp thủ. Tâm tham ái dính chặt vào
đối tượng
không buông rời
Upasama: Bình an, tĩnh lặng
Upekkha: Xả. Quân bình năng lực. Đặc tính của
tâm thăng
bằng không nghiêng về một thái cực nào. Chi thứ bảy trong thất
giác
chi.
Vaya dhamma: Pháp diệt.
Vedana: Thọ hay cảm thọ.
Vicara: Tứ hay Sát: một khía cạnh của sự định
tâm bao gồm
tâm "chà xát" trên đối tượng. Yếu tố thứ hai trong tầng thiền
định đầu tiên.
Vicikiccha: Hoài nghi. Tâm mệt mỏi vì phân vân
không quyết
và ức đoán. Chướng ngại thứ năm trong năm chướng ngại. Đạo binh ma
thứ bảy trong mười đạo binh ma.
Vikkhambhana viveka: Tị phiền não ẩn cư. Trạng
thái phiền
não bị yếu kém trong một thời gian. Đây là kết quả của thân ẩn cư
và
tâm ẩn cư.
Vinaya: Luật (xem Patimokkha)
Vinnana: Thức.
Vipaka: Quả của nghiệp. Những điều kiện sinh
khởi do hành
động quá khứ
Vipassana: Thiền minh sát. Nguyên nghĩa: 'thấy
bằng nhiều cách'.
Năng lực quán sát đối tượng thân tâm qua ánh sáng của vô thường,
khổ
não và vô ngã.
Vipassana jhana: 1) Tiếp tục chú tâm vào bản
chất thật sự
(chân đế) của sự vật không xuyên qua sự suy nghĩ hay khái niệm. 2)
Trụ
tâm vào các đề mục thay đổi, nhưng vẫn chú tâm khắn khít vào đặc
tính
vô thường, khổ và vô ngã.
Vipassana kilesa: Minh sát phiền não. Đây là
những loại phiền
não khởi sinh lúc thiền sinh đạt đến tuệ giác thấy rõ sự sinh diệt
mau chóng của các hiện tượng. Hỉ lạc phát sinh vào lúc này. Minh
sát phiền
não bao gồm sự nắm giữ những kinh nghiệm hỉ lạc do việc hành thiền
đem lại mà không biết rằng mình đang dính mắc vào chúng.
Viranam bhavo: Dũng cảm. Đặc tính của một anh
hùng. Đây
là từ để chỉ sự dũng cảm tinh tấn trong việc hành thiền.
Virati: Sự thu thúc, sự kiêng cữ.
Viriya: Tinh tấn. Năng lực hay sự tinh tấn liên
tục hướng
tâm đến đối tượng. Được rút ra từ chữ anh hùng. Chi thứ ba trong
thất
giác chi.
Visuddhi Magga: Thanh tịnh đạo. Một cuốn sách
viết về thiền
do Ngài Buddhaghosa soạn vào thế kỷ thứ tư sau công nguyên.
Vitakka: Tầm: Một khía cạnh của định tâm, tâm
hướng về
đối tượng, dính trên đối tượng và đặt trên đối tượng. Chi thứ
nhất của tầng thiền định đầu tiên.
Viveka: ẩn cư, an trú. Một từ chỉ trạng thái an
tịnh tĩnh
lặng, xuất hiện khi tâm được an trú và bảo vệ không bị phiền não
quấy
nhiễu.
Vivekaja pati sukha: ẩn cư hỉ lạc. Hỉ lạc, hạnh
phúc do sự
ẩn cư đem lại. Một từ để chỉ hai chi thiền thứ ba và thứ tư của
tầng
thiền định đầu tiên, được xem như phối hợp chung với nhau.
Vyapada: Sân hận. Chướng ngại thứ hai trong năm
chướng ngại.
Yogi: Thiền sinh.
Dựa theo bản Phụ Lục trong quyển "Ngay Trong
Kiếp Sống
Nầy" (In This Very Life) của thiền sư Sayadaw U Pandita, Tỳ Kheo
Khánh Hỷ
(Bikkhu Aggasami Trần Minh Tài) dịch (1996), Như Lai Thiền Viện,
San Jose,
California, USA.