Những
đàn kiến cỏ thầm lặng dắt díu nhau lên núi cao. Những loài dế đất, bọ
cát tản mạn về đâu mà càng đêm càng vắng tiếng... Những loài vật càng
nhẹ, ăn ít, không tham tàn với đồng loại càng vắng bóng nhiều hơn trong
những ngày gần kề cơn đại họa.
Hiện
tượng loài vật xôn xao, sợ hãi, lánh nạn khỏi vùng đất tai ương nhiều
ngày trước khi cơn sóng thần ập đến đất Nhật, làm trên hai vạn người
thiệt mạng, cũng đuợc những người dân sống sót tại địa phương quan sát
và ghi nhận.
Trong vũ trụ có muôn vàn hiện tượng chằng chịt và phát sóng liên hồi.
Không có gì tình cờ mà cũng chẳng có gì tiền định vì đó là dòng chảy tự
nhiên, tan hợp triền miên mang tính khách quan và cũng chẳng có cái
“ngã” nào chủ xướng phát sinh hay ngự trị cả.
Loài
vật có căn cơ riêng biệt bắt được sớm hơn hay có độ cảm nhận tinh vi và
bén nhạy hơn loài người về những làn sóng của dòng năng lượng vũ trụ
đang trôi chảy mà con người không thể – hay chưa – bắt được.
Con
người phải nhờ những con mắt thần “thiên lý nhãn” của phương tiện khoa
học, kỹ thuật mới theo kịp loài chim báo bão, biết trước sự vận hành của
thời tiết; nhưng vẫn còn mịt mờ với bao nhiêu biến động thường xuyên
trong lòng đất và ngoài vũ trụ.
Ai
biết trước được bão tố, cuồng lưu, sóng thần, động đất sẽ đến khi nào.
Trước thiên nhiên, con người nhỏ bé vừa nông nổi tự hào về những tiến bộ
của khoa học trong thế kỷ 20, bỗng chững lại trước trước những biến
dịch không lường từ bên ngoài vũ trụ.
Con
người cầm vũ khí nguyên tử trong tay mà run sợ về sự mong manh của mình
trước những cơn bão từ trường, những lối vận hành khốc liệt của các
thiên thể, những sự va chạm của thiên hà mà trái đất này còn bé mọn và
mau tan hơn cả một hạt bụi trần.
Những
người ở riêng trong lĩnh vực tâm linh và khoa học càng ngày càng gần
nhau hơn qua dòng tâm cảm và qua kiến thức, suy tư về một khái niệm
truyền thống dường như bí ẩn nhưng càng ngày càng hiện ra rõ mặt. Đó là
ngưồn năng lượng tự nhiên và thiêng liêng trong đời sống vũ trụ và trên
hành tinh này.
Nguồn
năng lượng tuy không hình, không dáng, rỗng lặng nhưng lại bao la, bát
ngát, bao trùm hết thảy. Nó phi thời gian, phi không gian, phi hình
tướng nhưng ở đâu, nơi đâu và thời nào cũng có.
Nó
thu liễm và phát tiết ra thành những làn sóng vô hình. Khi những cơn
sóng có cùng tần số thì bắt gặp nhau, giao thoa với nhau để tạo thành
một loại năng lượng mới tạm thời hay dài lâu: Sóng lành kết tụ thành
năng lượng lành đầy vui tươi, nhẹ nhàng, an lạc và giải thoát. Sóng dữ
kết tụ thành năng lượng dữ đầy cuồng nộ, tàn phá và đổ vỡ tang thương.
Mỗi
sinh vật là một đối thể cô đơn nhưng thường tại và năng động để thu và
phát năng lượng qua những tần số mang sóng lành hay dữ.
Con
người vừa cô đơn, vừa “độc tôn” vì ai ăn nấy no, ai dò nấy biết. Những
thần thánh và những nhà tiên tri là những “trạm” thu và phát sóng có
tần số diệu kỳ chứ không phải là nguyên nhân tạo sóng. Gần gũi với các
bậc thiện lành chân chính, bất cứ trong lĩnh vực nào, con người cũng sẽ
được lợi lạc thu nhiễm được định lực của những lượn sóng lành qua tâm,
qua trí.
Đức
Phật xuống đời mang cho đời một nguồn an lạc. Sóng lành mùa Phật Đản từ
mấy nghìn năm trước không biết có khác chi mấy nghìn năm sau. Nhưng con
người bỗng thấy gần nhau hơn và nhìn vào đất trời lộng gió sâu hơn qua
hương sen trên hồ và tiếng chuông chùa trầm ngân rơi dần vào tịch lặng.
Mùa
Phật Đản đầu tiên – mà thế hệ Chiến Tranh Việt Nam 4x & 5x chúng
tôi được thấy – trên quê tôi đang về có sớm quá hay muộn màng thì chỉ có
những mùa sen trên Bàu Lộ hay dưới những ao hồ mới biết. Đó là ngày 8
tháng Tư ta năm 1955, khi tôi 10 tuổi.
Những
xóm nghèo trên quê tôi đón hòa bình vui như chim ca nắng mới. Chút yên
ổn vừa hồi sinh sau ngày hòa bình trở lại với hiệp định “Giơ neo” chia
đôi đất nước năm 1954.
Trong
ký ức của tuổi thơ, tôi chỉ còn nhớ cái nền xi măng đầy gạch ngói vụn
còn sót lại của ngôi chùa Làng bị bom đạn tàn phá. Người ta làm một cái
rạp bằng tranh tre và lợp lá cau. Cũng có “lễ đài” dựng lên. Rơm rạ
cột thành bó vuông chồng lên nhau làm nền và bao quanh bằng những tấm
cót đan bằng tre, nứa màu trắng đục.
Lũ
trẻ trong làng thích nhất là cái tượng “Phật mới sinh” to bằng hai
người thường, vừa được những nhà... nghệ sĩ nông dân trong làng vẽ lên
trên tấm cót có ba cây tre bắt chéo làm giá đỡ đằng sau.
Tôi
được nhìn tận mắt mấy chú trong làng dùng mực xạ màu đen, củ nghệ màu
vàng, hột mồng tơi màu tím, bao nhang dầm trong nước màu đỏ và mực xanh
bình dân học vụ để vẽ tượng Phật.
Lần
đầu, tôi được nhìn “ôn Phật” mới sinh, một tay giơ lên trời, một tay
chỉ xuống đất, môi đỏ chót, miệng cười toe... vui chi lạ!
Đã
56 năm rồi mà tôi vẫn chưa quên lời bình luận của mấy bác trưởng tộc
trong làng về bức tượng Phật Đản Sinh đầu tiên trên quê tôi, rằng: “Mấy chú quen đi cày, mạnh tay vẽ ông Phật mới sinh mà mặt mũi già khằn như ông cụ già 5, 6 mươi tuổi!”
Ấy thế mà không sao cả. Nghe đâu lễ đài làng Liễu Hạ chúng tôi vẫn được chấm hạng nhì trong toàn xã Hương Cần năm đó. “Kính lão ngoan đồng cầu đắc thọ” chăng?!
Sớm
mồng 8 tháng Tư ta là ngày Phật Đản. Mỗi làng là một đơn vị rước Phật
về tập trung trên đồng lúa mới gặt. Có một lễ đài chung cho cả 7 làng
và 3 phe trong xã. Cả 10 đơn vị sẽ cử hành chung một lễ Phật Đản chính
thức.
Thuở
đó, chưa có Gia Đình Phật Tử trong địa phương. Sắp nhỏ có cha mẹ sinh
hoạt ở chùa thì được xếp vào hàng “thiếu nhi Phật tử”. Trong mùa Phật
Đản đầu tiên sau ngày hòa bình trở lại năm ấy, dân làng chúng tôi vốn đã
chịu nhiều tang thương và đau khổ của chiến tranh suốt mấy mươi năm,
nên ai cũng muốn gần gũi một chỗ dựa tinh thần an lành và vô sự.
Hình
ảnh ông Phật trầm tư muôn thuở và lời kinh từ ái, thuận hòa của đạo
Phật đến với dân làng như những giọt nước mát rưới trên vùng khát vọng
khô héo đã bao năm qua.
Bởi
vậy, lễ rước Phật trong ngày lễ Phật Đản nầy không ai chủ xướng vận
động kêu gọi nhưng lại trở thành một ngày lễ hội thân thiết với dân
làng, những người sau cuộc chiến đang thiết tha tìm cầu nẻo thiện.
Đám rước mộc mạc và đơn sơ nhưng ai cũng nếm được chút hương vị đượm
tình khó tả như mùi vị đồng chua nước mặn. Nắng mùa Xuân trên con đường
Nhứt càng lên cao, đám rước càng dài ra. Tự phát. Những Thiếu nhi Phật
tử chúng tôi được xếp hàng hai, mỗi đứa cầm một cây đèn ú, đi trước,
ngay sau giá tượng “ôn Phật” có hai lọng che. Tiếp theo có kiệu hương
án và hai giá trống chiêng; mỗi giá do hai người gánh. Đám thanh niên
trong làng thay phiên nhau gánh từ chùa Làng cho đến địa điểm hành lễ
chung, đi bộ chừng một giờ. Tất cả giàn giá là bộ đồ gánh đám ma của
Làng được mượn tạm và trang trí, chế biến lại theo “kiểu Phật” với nhiều
chữ vạn, hoa sen và những đường hoa văn cắt xén đơn sơ, thoáng nét vụng
về nhưng đầy... hỷ xã.
Chúng tôi đã được tập dượt tối hôm qua tới khuya. Đám bé quê lần đầu
được người lớn công nhận, cho tham gia một vai trò lễ nghi trong một đám
rước nên đứa nào đứa nấy đều sung sướng và hãnh diện như cậu ấm về
làng.
Bởi thế, đứa nào cũng mở hết khẩu độ bình sinh của tuổi hoa niên để vừa đi vừa hát vang trời bài “Vui Mừng Gặp...” theo điệu đăng đàn cung: “Vui mừng gặp ngày nay, mồng 8 tháng tư. Ngày khánh tiết, Phật Thích Ca ngài, hiện về Ca Tỳ La Vệ trong đời khổ, vận đức từ bi...”
Tiếng
hát vang lừng của tuổi thơ hòa với tiếng chuông trống trầm hùng và lời
niệm Phật của tuổi già tạo nên một đám rước rỡ ràng đầy kính ngưỡng là
“dấu Phật” in bóng trên đường quê sau ngày hòa bình trở lại.
Phật
Đản, không phải chỉ có một ngày mà là một mùa kể từ khi đám sen trong
hồ nhú lên và nứt ra từng lá mới cho đến những ngày các chùa lắng lòng
trong ba tháng an cư kiết hạ của chư Tăng, Ni và trải dài cho đến tháng
Bảy ngày Rằm xá tội vong nhân.
Rồi thời gian đi qua, ngày Phật Đản mồng 8 tháng 4 theo Trung Quốc thay đổi. Bài “Vui mừng gặp ngày nay mồng 8 tháng Tư...”
không còn hát nữa khi ngày Phật Đản đổi sang Rằm tháng Tư theo truyền
thống chung của Phật giáo Thế giới chọn ngày trăng tròn tháng Năm làm
ngày Phật Đản (Vesàkha, Vesak).
Nói
đúng hơn là Mùa Phật Đản vì thời điểm được chọn theo Phật giáo của mỗi
nước không giống nhau, thống nhất trong cùng một ngày như ngày Chúa
Giáng Sinh – Noel, Christmas... 25 tháng Chạp.
Ngày 15 tháng 12 năm 1999, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã chọn một ngày Văn Hóa Phật Giáo gọi là “Ngày Tam Hợp Thiêng Liêng Phật Đản”
(The Thrice–Sacred Day of Vesak). Đây là một thời điểm biểu tượng bao
gồm cả ngày đản sinh, ngày thành đạo và ngày nhập diệt của đức Phật
Thích Ca Mâu Ni.
Trong
một thập niên qua, Phật giáo thế giới đã có ngày lễ hội Tam Hợp Phật
Đản hàng năm chung cho Phật giáo toàn thế giới, hay Phật giáo của nhiều
nước trong từng vùng địa lý thích ứng.
Mùa
Phật Đản 2600, tức là 2011 theo lịch Công nguyên, Vesak nhằm vào ngày
17 tháng Năm. Lễ hội Phật Đản Vesak quốc tế năm nay sẽ được tổ chức tại
thủ đô Bangkok của Thái Lan từ ngày 11 đến ngày 16 tháng 5.
Tuy
nhiên Phật giáo của mỗi nước như Tích Lan, Miến Điện, Trung Hoa, Đài
Loan, Nhật, Lào, Cam Bốt, Mã Lai, Việt Nam, Singapore, Úc... sẽ tổ chứa
Vesak riêng.
Tại
các nước Âu, Mỹ thì Vesak được tổ chức theo từng vùng. Như ở miền Bắc
California, lễ hội Vesak 2011 sẽ được tổ chức tại chùa Kim Quang, thành
phố Sacramento, trong hai ngày 28 và 29 tháng 5 với sự tham dự của các
phái đoàn Phật giáo thuộc nhiều nước đang sinh hoạt trong vùng.
Dẫu
cho đứng ở vùng đất hay thời điểm nào thì sự kết hợp giữa đời sống thể
lý và tâm linh vẫn là yếu tính của con người. Đạo Phật không đem Đạo từ
ngoài để gieo vào đời sống tâm linh của con người. Đạo Phật khơi mở để
giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình.
Có
những tâm hồn như “hóa Phật” khi tiếp cận với những năng lượng an lành
trong mùa Phật Đản. Người Việt chỉ mới đạt tới phần thẩm mỹ của tâm hồn
khi thu nhiếp sóng lành mùa Phật Đản. Nếp cũ tâm linh và văn hóa được
gọi là “đạo Thờ Cúng Ông Bà” của người Việt mới chỉ ở mức độ là
phần cảm tính. Khái niệm tôn giáo dân gian của người Việt chưa rõ ràng
và lan tỏa trong đời sống văn hóa xã hội như tôn giáo dân gian Thần Đạo
(Shinto) của người Nhật Bản.
Thần
Đạo không có kinh điển nhưng có tới 800 huyền thoại và chuyện thần
thoại để làm căn bản cho thế giới quan và nhân sinh quan của dân tộc
họ. Trong khi nếp tâm linh dân gian truyền thống của người Việt chúng
ta vẫn còn mờ nhạt như những viễn mơ đầy sương khói.
Khác với hàng Tăng lữ Việt Nam xuất gia là xuất thế, các thiền sư Nhật
Bản đồng thời cũng là những đạo sĩ Thần Đạo nhập thế. Từ thế kỷ thứ 6,
đạo Phật đã hòa quyện với Thần Đạo để hình thành một dân tộc tính vừa
mạnh mẽ, vừa nhu hòa giúp con người vươn lên trong tâm bình và trí lạc.
Trong
thiên tai động đất và sóng thần kinh hoàng kéo theo hệ lụy vỡ lò nguyên
tử xảy đến cho dân Nhật trong tháng 3 - 2011 vừa qua đã làm cho toàn
thế giới sững sờ và kinh ngạc trước phản ứng đầy hy sinh, chịu đựng quá
kham nhẫn và chính định của một dân tộc anh hùng.
Nhật
có thể không bằng các nước Âu Mỹ hàng đầu về khoa học kỹ thuật. Nhưng
trình độ dân trí, khí phách kiên cường và lòng yêu nước, yêu dân tộc,
yêu thiên nhiên và con người của dân tộc Nhật biểu hiện trong cảnh tai
ương nạn khổ của đất nước họ vừa qua, rõ ràng là chưa có nước nào sánh
kịp trong một hoàn cảnh tương tự.
Cộng
đồng thế giới ngưỡng mộ phong cách trầm tĩnh tự điều phục, sự dấn thân
trong tinh thần kỷ luật cao độ, lòng hy sinh âm thầm không tên tuổi,
tình tự dân tộc dâng trào không băng cờ khẩu hiệu của người Nhật.
Một câu hỏi nổi lên tự nhiên là những yếu tố tinh thần và văn hóa nào đã
un đúc nên một dân tộc tính cao đẹp như thế. Có nhiều cách nhìn nhưng
tựu trung có 4 hướng chính: Đó là từ phía truyền thông đại chúng, phía
doanh nhân và khoa học kỹ thuật, phía chính trị cầm quyền và phía xã hội
tôn giáo.
Những yếu tố hình thành và chi tiết tạo tác tương ưng cái “tinh thần Nhật Bản”
ấy tuy khác nhau nhiều về cách thế, nhưng câu trả lời xương sống mà hầu
như mọi phía đều đồng ý là: Dân tộc Nhật Bản từ thế kỷ thứ 6 sau Công
nguyên đã sống và chiến đấu bằng tinh thần Thần Đạo; nhưng cung cách xử
thế tiếp vật trầm tĩnh, kham nhẫn và ý chí chịu đựng để sáng suốt vươn
lên trong mọi tình huống cay nghiệt nhất đã được un đúc bằng tinh thần
Phật Giáo.
Dân
Nhật có 130 triệu nhưng hơn 100 triệu là tín đồ Thần Đạo Phật Đạo. Sự
tĩnh tại của đạo Phật là một sức mạnh tinh thần nội tại. Tôn giáo không
khuất bóng trong những suy niệm siêu hình mà thể hiện thành một “tinh thần Nhật Bản” có bản sắc dân tộc đầy dũng cảm, hy sinh, tự chế và tự trọng làm cho thế giới nghiêng mình cảm phục.
Suốt 15 thế kỷ sóng lành của đạo Phật đã thường xuyên có mặt bên cạnh
những ngọn sóng thần đầy cuồng nộ – cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng – trong
dòng lịch sử nhiều thăng trầm của nước Nhật.
Nhà văn Trần Mộng Tú đã có một đoạn viết rất đẹp về hình ảnh và tinh thần Võ sĩ Đạo – Samurai – của Nhật: “Hầu
hết những nguyên tắc của Võ Sĩ Đạo đều dựa trên căn bản triết lý của
đạo Phật và Thần đạo. Thần đạo thiên về khía cạnh tích cực, hướng dẫn
con người thăng hoa vật chất, phát huy tối đa sự sáng tạo, xây dựng một
xã hội vượt bực bằng tất cả khả năng của mỗi cá nhân.
Trong khi đó Phật giáo giúp cho con người nhìn thấy cái phù du của đời sống, cái hư ảo của mất còn.
Hai
tôn giáo này đã nằm trong máu người dân Nhật. Nên với những phẩm hạnh
đó, các Samurai hành xử qua sự thấm nhuần tư tưởng Phật Giáo, đặc biệt
tinh thần an nhiên của Phật Giáo Thiền Tông, đơn giản và tĩnh lặng.
Họ
trở thành những anh hùng đơn giản và bình tĩnh trước mọi tình huống.
Samurai tự coi mình mang vẻ đẹp thanh cao và lý tưởng của hoa Anh Đào.
Khi nắng xuân ấm áp những nụ hoa Anh Đào đang khép, nở bung ra, nó khoe
tất cả những nét đẹp tuyệt vời của từng cánh hoa.
Nhưng
khi một trận gió, một cơn mưa xuân đến thổi tung cánh hoa lìa cành, nó
cũng dâng hiến một trận mưa hoa ngoạn mục trong không gian, để mọi người
đứng ngẩn ngơ chiêm ngắm. Sống và chết, hoa Anh Đào cùng khoe vẻ đẹp dù
mong manh ngắn ngủi.”
Từ
một vùng quê Việt Nam vô danh sau chiến tranh như làng tôi cho đến điểm
nóng trong mắt nhìn thế giới như nước Nhật hôm nay, đạo Phật đã đến và ở
lại không hồ nghi, phân biệt. Tính Phật giữa đời thường có khi nhỏ bé
và đơn sơ như một hạt cát: Lành. Có khi cao rộng, thâm sâu mà vô tâm như
suối nguồn hạnh phúc: Xả !
Năm
nay, mùa Phật Đản lại về trong khung cảnh toàn thế giới đang trải qua
nhiều biến động chẳng lành. Thiên tai xẩy ra liên miên ở nhiều nơi gieo
nhiều tang thương và bể khổ. Nhiệt độ trái đất đang nóng dần kéo theo
khả năng hủy diệt môi trường sống. Ngôn ngữ súng đạn thay cho ái ngữ
cảm thông thương thảo hòa bình trong quan hệ quốc tế.
Chỉ
riêng tại xứ Hoa Kỳ nầy, đầu năm ở miền Đông có những đàn chim hàng
chục nghìn con đang bay rợp trời bỗng rơi xuống chết đầy đường. Cùng
thời gian động đất xảy ra ở Nhật, ở bờ biển phía Tây Nam California,
hàng triệu con cá chết đột ngột, xác đóng dày bãi biển tới 30cm mà không
hiểu nguyên nhân vì sao.
Hiện
tại, tin từ Florida cho biết trong vùng vịnh Mexico cực Đông Nam của
Mỹ, đang có hàng chục nghìn con cá voi khổng lồ kết thành một vòng tròn
chợt biến, chợt hiện chẳng biết vì lí do gì.
Người ta lo ngại hiện tượng “chim sa cá... chết”
là điềm báo trước chuyện chẳng lành. Cho dẫu đó là những hiện tượng
thiên nhiên do sự biến động môi trường sinh thái đang âm ỉ hoặc bừng
bừng diễn ra trên địa cầu hay chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên thôi,
nhưng tại sao con người càng văn minh tiến bộ, càng no cơm ấm áo – cứ
ngỡ như đang đứng lấp ló ở cửa Thiên Đường, Niết Bàn – lại càng canh
cánh nỗi lo bên mình đến thế.
Điều nghịch lý đầy mỉa mai cho khát vọng hòa bình an lạc của con người
là phương tiện vật lý càng giàu có thì kết quả tinh thần càng nghèo
khó. Khoa học kỹ thuật và giao thông vận tải phát triển, những tưởng
càng ngày con người càng có điều kiện đến gần nhau hơn. Nhưng thực tế
thì lại càng tạo ra mầm đối đầu và xung đột nhiều hơn là cảm thông và
hóa giải.
Môi
trường truyền thông đại chúng như báo chí, truyền hình, truyền thanh,
mạng lưới vi tính, điện thư, điện thoại cầm tay... ngỡ như giúp con
người sống chan hòa, chia sẻ với nhau giữa lòng cuộc đời thì lại càng
làm cho những đối tượng hiểu lầm, cô đơn và xa cách nhau nhanh chóng
hơn.
Phải chăng vì “một dòng nước trong năm bảy dòng nước đục” đang
xâm lấn địa cầu nên năng lượng lành càng ngày càng mất. Sóng đời thô
nhám quá nên khó bắt được sóng lành co rút lại, ẩn sâu kín trong đáy
lòng người khó ngoi lên được.
Đức Phật ra đời, đem đến cho trần gian một pháp môn vi diệu nhất: Buông
xả. Khi tất cả đều trống không và rỗng lặng thì ôm đồm và khư khư nắm
giữ gì đây?! Đạo Phật kế thừa đem đến cho người phương thuốc thần diệu
nhất: Thêm vui, bớt khổ. Cho đến một ngày chỉ có toàn niềm vui là ngày
đắc đạo!
Ngày 31 tháng 3 năm 2011, một người Nhật tên là Masaru Emoto, gởi điện
thư cho nhiều người trên thế giới. Anh là một nhà khoa học và cũng là
một nghệ sĩ, tự nhận mình là một Người Mang Thông Tin của Nước (Messenger of Water).
Trước
hết anh chứng minh rằng, công thức về năng lượng lừng danh của nhà bác
học Albert Einstein, E=MC², thật sự có nghĩa rằng: Năng lượng = Số
người nhân với bình phương của lương tâm. (Energy = Men × Conscience²).
Bởi
thế theo sự hiểu biết và trải nghiệm của anh trong suốt 20 năm nghiên
cứu và làm việc với môi trường Nước thì nước thiên nhiên đã trở thành
trong mát hơn khi nó nhận những làn sóng rung động vi tế xuất phát từ
tấm lòng lành cầu nguyện của con người, bất luận dẫu cho sóng lành cầu
nguyện đó ở cách xa bao nhiêu.
Trong
hoàn cảnh bi thảm của lò nguyên tử Fukushima bị rò rỉ sau trận động đất
tại Nhật, phóng xạ nguyên tử mang khả năng giết người và mọi loài sinh
thể đã tìm thấy lan vào trong vùng nước xung quanh.
Theo
Emoto, sự khôn ngoan của trí tuệ con người chưa đủ cứu nguy khi sóng
nước thiên nhiên đã và đang đến hồi cuồng nộ, nhất là dòng nước bị con
người đưa vào lò phản ứng nguyên tử để làm dịu lại nguy cơ nóng chảy các
thiết bị kích hoạt phản ứng.
Cần phải có sóng lành của tâm hồn mới mong góp phần cứu khổ. Anh tha
thiết khẩn cầu nhân loại trên toàn thế giới đúng 12:00 giờ trưa hôm nay
tại múi giờ của mình, xin lắng lòng cầu nguyện để chuyển tải năng lượng
lành tới cứu nguy cho vùng đất trời đang bị nạn.
Lời cầu nguyện: “Xin
hướng về Nước của Lò Nguyên Tử Fukushima, chúng tôi xin tạ lỗi đã làm
cho Nước phải chịu đựng khổ đau. Xin tha lỗi cho chúng tôi. Xin cảm tạ
Nước với lòng yêu thương.” (The Water of Fukushima Nuclear Plant, we are sorry to make you suffer. Please forgive us. We thank you and we love you.)
Một
lời nguyện đơn giản thế thôi, nhưng nếu được cả hàng tỷ người cùng phát
sóng từ trái tim mình, năng lượng giao thoa sẽ có hùng lực không thể
nghĩ bàn, xoay chuyển được những chuyển động của vũ trụ.
Không phải chỉ có ngày hôm nay mà ước mong mùa Phật Đản năm nay và mãi
mãi rằng, chỉ có sóng lành trôi chảy trong tâm thức của nhân gian để cho
bụi đời lắng xuống: Một con nước đục, một chục dòng trong. Chỉ có sự
trong ngần mới thấy được nhau để cảm thông và hóa giải.
Sacramento, mùa Phật Đản 2600; Vesak 2011