|
Trụ đá của Vua A Dục (Ashoka) đặt tại vườn
Lumbini, Nepal, nơi Đức Phật đản sinh (Photo: wikipedia)
|
Ghi chú của Á Châu Tuần Báo (Asiaweek):
Nhiều thế kỷ qua, các du khách hành hương đổ xô đến
chân núi Hy Mã Lạp Sơn để mong nhìn thấy chính xác nơi đức Phật đã ra
đời hàng nghìn năm trước. Nay công việc tìm kiếm này đã kết thúc. Một
nhóm chuyên gia khảo cổ quốc tế cho biết họ đã khám phá ra chứng tích
cuối cùng xác nhận rằng đức Phật đã giáng sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni
(Lumbini) trong vùng tây nam vương quốc Nepal. Ký giả ngoại quốc đầu
tiên được phái đến khu vực tìm ra thánh tích trên là Thomas Laird. Dưới
đây là bài tường thuật của ông ta.
Mặc dù trong tình trạng suy
tàn, ngôi chùa thờ Hoàng Hậu Ma Gia (Maya Devi) tại Phật tích
Lâm Tỳ Ni (Lumbini), cách thủ đô Kathmandu xứ Nepal 240 cây số,
là một trong những trung tâm hành hương chính của Phật Giáo. Trải qua
hơn 2600 năm, phần đông Phật tử đều tin rằng đây là nơi đản sinh của đức
Thế Tôn, vị giáo chủ của Phật Giáo. Nhưng các nhà khảo cổ vẫn chưa biết
chính xác được nơi nào trong vườn Lâm Tỳ Ni, thái tử Tất Đạt Đa (đức
Phật) đã ra đời.
Nay các nhà
khảo cổ cho biết đã tìm thấy một phiến đá không có vết nứt ở dưới nền
của một ngôi chùa cổ xây cất khoảng vào năm 249 trước Tây Lịch. Mẫu đá
này có chiều dài 45 phân và chiều ngang 15 phân tây được tìm thấy nằm
sâu gần năm thước tây dưới một cái nền lát đá đổ nát của ngôi chùa trên.
Hai nhà khảo cổ Nepal Babu
Khrishna Rijal và Nhật Bản Satoru Uesaka đã khám phá ra di tích này ngày
18 tháng 2 năm 1995. Nhưng họ trì hoãn gần một năm mới phổ biến cho
công chúng biết. Vì muốn chờ kiểm chứng lại của các nhà khảo cổ ở những
nước khác như Ấn Độ, Tích Lan và Hồi Quốc. Ông Rijal và Satoru bảo rằng
sau khi xem xét kỹ phiến đá, các chuyên viên khảo cổ ba quốc gia trên
đều “hoàn toàn đồng ý” công nhận là đúng.
Hai nhà khảo cổ Nepal và Nhật cho
biết thêm: “Chúng tôi đã dùng đến hoá chất và các kỹ thuật khác để áp
dụng trong việc khảo cứu. Chúng tôi vẫn tiếp tục đào bới tại đây, và
sau một năm tìm tòi, khảo sát kỹ lưỡng, bây giờ đã đến lúc chúng tôi cần
thông báo cho mọi người biết kết quả về những khám phá của chúng tôi”.
Sau khi tin này được loan
ra, có một số người tỏ vẽ nghi ngờ. Một tờ báo ấn hành tại Kathmandu (Nepal)
phủ nhận sự trình bày về kết quả công việc nghiên cứu của hai nhà khảo
cổ nói trên. Ông Satoru giải thích: “Thiên hạ tung ra nhiều tin đồn,
nhưng chủ yếu là do lòng ganh ghét. Chúng tôi mong rằng, sau khi đọc kỹ
bản báo cáo đầy đủ của chúng tôi, họ sẽ hết nghi ngờ”.
Tìm ra nơi đức Phật đản
sinh là một công trình khảo cổ trọng đại đối với khoảng 350 triệu tín đồ
Phật Giáo trên thế giới cũng như sự khám phá ra thành phố Bethlehem,
nơi Chúa Giê-su giáng sinh ngày xưa. Trước khi nhập diệt, đức Thế Tôn
dạy rằng Phật tử nào có duyên lành đến chiêm bái vườn Lâm Tỳ Ni, nơi
Ngài đã ra đời và ba thánh tích Phật Giáo khác (Bồ Đề Đạo Tràng, Vườn
Lộc Uyễn và Câu Thi Na) thì sau khi lâm chung, họ có thể được phước
báo “thác sinh lên cõi trời”. Cho nên sự phát hiện, tìm ra chứng tích
lịch sử này hy vọng sẽ giúp cho nhiều du khách Nepal muốn đến chiêm bái Phật tích
Lâm Tỳ Ni (Lumbini).
Tin tức về sự khám phá
trên đầu tiên được loan ra vào ngày 4 tháng 2 năm 1996, chỉ giới hạn cho
các ký giả địa phương ở Nepal.
Uỷ Ban Phát Triển Lâm Tỳ Ni - một trong ba tiểu ban thực hiện đề án
khai quật - cùng với Nha Khảo Cổ của chính phủ Nepal và Hội Đoàn Phật
Giáo Nhật Bản, đã thông báo ra ngoại quốc, nhưng chỉ vài thông tín viên
biết mà thôi. Trong tuần qua chưa có phản ứng chính thức gì từ các nhà
lãnh đạo Phật Giáo tại Ấn Độ, nơi mà một số học giả vẫn thường tuyên bố
rằng đức Phật đã không ra đời ở xứ Nepal
mà tại quận Gorakhpur
thuộc tiểu bang Uttar Pradesh (miền bắc Ấn Độ). Vườn Lâm Tỳ Ni
nằm trong lãnh thổ Nepal
cách tiểu bang Uttar Pradesh chỉ 10 cây số.
Theo kinh điển Phật Giáo,
hoàng hậu Ma Gia, thân mẫu đức Phật, khoảng năm 623 trước Tây Lịch, trên
đường trở về thăm quê hương ở nước Câu Ly (Koliya), bà đã ghé
vào nghỉ ở vườn Lâm Tỳ Ni. Sau khi xuống tắm ở hồ nước thiêng, hoàng hậu
đi 25 bước đến gốc cây Vô Ưu và hạ sinh thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha).
Theo truyền thuyết Phật Giáo, vừa mới ra chào đời, thái tử đã bước đi
bảy bước.
Gần 400 năm, sau khi vua A
Dục (Asoka) lên nắm quyền cai trị toàn cõi Ấn Độ và ngài đã có
công truyền bá Phật Giáo đến các quốc gia vùng Đông Á. Sử chép rằng vua A
Dục có đến chiêm bái vườn Lâm Tỳ Ni, nơi đức Thế Tôn giáng sinh. Bấy
giờ ngài đã ra lịnh cho đặt một viên đá ngay chỗ thái tử Tất Đạt Đa (đức
Phật) ra đời và trồng một trụ đá sát bên cạnh. Trên trụ đá này có
khắc mấy dòng cổ ngữ Ấn Độ đề cập đến phiến đá nói trên. Về sau, nhiều
chùa đã được xây cất tại thánh tích này, nhưng trải qua nhiều thế kỷ đổi
thay, Lâm Tỳ Ni đã rơi vào tình trạng đổ nát hoang tàn không còn ai
biết tới. Mãi đến năm 1895, trụ đá vua A Dục mới được tìm thấy bởi nhà
khảo cổ người Đức. Năm 1967, ông U Thant (Miến Ðiện) tổng thư ký Liên
Hiệp Quốc đến chiêm bái đã khóc khi thấy vườn Lâm Tỳ Ni trong cảnh suy
tàn đổ nát.
Công việc khai quật của hai
nhà khảo cổ Nepal
và Nhật Bản khởi đầu ba năm trước với 200 nhân công. Họ đã đào thấy cái
nền nhà của 15 phòng. Ngay ở giữa họ khám phá, phát hiện một đường
mương (trench) bên dưới có một phiến đá mà hai nhà khảo cổ tin
rằng có thể nó là tấm đá do vua A Dục của Ấn Độ cho đặt xuống ngày xưa.
Các nhân viên khảo cổ xứ Nepal xác nhận rằng từ đường mương này cách xa
đúng 25 bước hồ nước thiêng nơi hoàng hậu Ma Gia đã tắm trước khi sanh
thái tử Tất Đạt Đa. Ông Lok Darshan Bajracharya, nguyên chủ tịch Uỷ Ban
Phát Triển Lâm Tỳ Ni đã phát biểu: “Khám phá này chứng tỏ cho thấy
những điều ghi chép trong kinh điển Phật Giáo nói về địa điểm chính xác
nơi đức Phật đản sinh xưa kia là đúng”.
Hai ngày sau khi loan báo
tin về kết quả việc khám phá trên, vua Nepal Birendra cùng với hoàng hậu
Aishwarya và thủ tướng Sher Bahadur Deuba đã đến viếng thăm khu vực nơi
các nhà khảo cổ đã tìm thấy phiến đá lẫn trụ đá A Dục (Asoka pillar).
Trước khi đức vua và hoàng hậu Nepal đến chiêm bái, không một nhiếp
ảnh gia ngoại quốc nào được phép tiến vào khu vực đang khai quật và toàn
vùng này đã được ngăn chặn bao quanh bằng một dải băng vải nhựa màu
vàng.
Tôi chăm chú nhìn vua Nepal
đang chất vấn hai chuyên gia khảo cổ Rijal và Satoru về phiến đá nằm
bên dưới khung tò vò (arch) được xây bằng loại gạch thuộc thời
đại vua A Dục. Họ giải thích đó là một “phiến đá khối kết”
(conglomerate stone) không có tại địa phương mà nó được lấy từ nơi khác
đến và đặt ngay ở trung tâm của ngôi chùa. Vua Birendra hỏi tiếp phải
chăng chính đó là phiến đá mà trên trụ đá vua A Dục có khắc ghi nói đến.
Họ đã trả lời chắc chắn là như vậy. Đức vua và hoàng hậu Nepal cùng
đoàn tháp tùng tất cả vào chùa làm lễ trước tượng hoàng hậu Ma Gia (Maya
Devi) và ra về.
Sau đó, hai nhà khảo cổ
Rijal và Satoru có cho tôi biết rằng ngày mai họ sẽ lên đường sang Ấn Độ
để tham dự cuộc hội thảo, thuyết trình về khám phá chứng tích lịch sử
quan trọng này. Cả hai ngạc nhiên khi nghe tôi đề nghị rằng họ nên ở lại
Kathmandu để tiếp xúc mở cuộc họp báo với các
ký giả ngoại quốc. Nhưng hai nhà khảo cổ đã trả lời: “Chúng tôi không
thể vắng mặt trong buổi hội thảo nói trên tại Ấn Độ”. Chúng tôi sẽ
mở cuộc họp báo tại Kathmandu (Nepal) sau, vì trể một vài
ngày cũng không sao.
Trích tuần báo ASIAWEEK số
phát hành ngày 23-02-1996 trang 34 và 35
Nguyên tác: Ký Giả Thomas Laird | Chuyển ngữ: H.T. Thích
Trí Chơn