Nhân dip Đại Lễ Phật Đản năm Quí Mùi 2003, tôi xin gửi đến
quí độc giả bốn phương, nhất là Phật Tử, hãy cùng tôi tìm hiểu
và xác định ngày nào là ngày Đại Lễ Phật Đản, tại sao tôi lại
trở lại vấn đề này, vì có một số người hỏi tôi, bằng thơ,
điện thoại, E-Mail và yêu cầu tôi giải thích, thực ra tôi không
đủ trình độ để xác định ngày nào là ngày Đại Lễ Phật Đản
chính thức và đúng, nhưng tôi cũng cố gắng sưu tầm biên soạn
ra tư liệu này cống hiến quí vị Phật Tử hiểu rõ. Nếu quí Chư
Tôn Đức Tăng, Ni và các vị thiện trí thức cao minh nào có các
dữ kiện khác kính xin chỉ giáo.
Đây là một sự kiện lịch sử, là một nghi lễ trọng đại nhất
trong đạo, đối với ngày xuất thế của Đức Thế Tôn, ngày lễ này đã
được lưu truyền từ ngàn xưa, ngay từ khi đạo Phật ở Ấn Dộ mới
truyền sang các nuớc phương Đông, những bộ kinh Phật phiên dịch từ
Phạn văn ra Hán văn, ở đời Đông Hán (Trung Quốc), bộ nào nói
về lịch sử Phật Tổ, ngày giáng sinh của Đức Phật Thích Ca đã
xuất hiện là ngày 8 tháng 4 âm lịch, điều này nhiều nhất thấy ở các
kinh sách Phật Giáo Bắc Tông. Nhưng Bắc Tông cũng có bộ nói
sinh ngày 15 (trăng tròn) đó là bộ Tây Vực Ký đời nhà Đường.
Trước kia nước ta cũng như các nước lớn trong khu vực Châu Á như
Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên.....đều làm lễ Phật Đản vào ngày
8 tháng 4 âm lịch . Tên gọi cũng như việc làm ngày Phật Đản, “ngày
tám tháng tư “ đã lưu truyền hàng bao
thế kỷ ở nhiều nước trên thế giới, đã trở thành phong tục tập
quán cổ truyền, ấn tượng ăn sâu vào đầu óc mọi người, kể cả
người theo hay không theo đạo Phật cũng đều nhớ như vậy.
“Cách xa dù mấy nhịp cầu.
Đến ngày Phật Đản 5 châu cũng gàn.”
“Dù ai buôn bán đâu đâu
Nhớ ngày Phật Đản rủ nhău mà về”
Nhưng kể từ đầu thập niên năm sáu mươi thi ngày Phật Đản lai là
ngày 15 tháng 4 âm lịch và cứ tiếp nối từ đó đến nay hàng năm cứ
đến ngày trang tròn tháng 4 là ngày Đản Sanh của Đức Thế Tôn
mà hầu hết các nước ở Châu Á và những người con Phật trên kháp
năm châu đều nhộn nhịp tổ chức kỷ niệm của Đức Phật giáng
trần. Vậy ta thử tìm hiểu xem tại sao ?. Nguồn gốc của đạo
Phật là phát sinh từ xứ Ân Độ, Trung Quốc là một nước lớn đạo
Phật du nhập sớm, kinh sách dịch ra chữ Hán rất nhiều, truyền sang nước
ta gắn liền với âm lịch hiện nay ta vẫn dùng. So sánh hai thứ
lịch này với nhau để xét tìm bàng cớ : Phật giáng sinh vào
ngày nào, tháng nào của lịch Ấn Độ, ngày đó có phải ngày trăng
tròn hay không, đem ghép vào lịch Trung Quốc mà tính toán,
xem nhàm vào ngày nào, tháng nào của thứ lịch này thì mới thấy
rõ được.
Ở đây chú ý một diều : Gọi là ngày trăng tròn, nhưng chính là thời
điểm trăng tròn thì giờ quãng đầu của ngày đó, phải tưởng tượng
như mình đang đứng ở góc độ múi thứ sáu của địa cầu làm mốc
mà nhìn trăng tròn, mới đúng giờ “sao mai mọc”
hay giờ Dần, khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mầu Ni đản sinh ra cõi
nhân gian trong ngày đó. Nếu chỉ chung chung, dựa vào những
câu đơn thuần trong các bộ kinh sách nói từ xưa, thì không có
gì xác đúng cho lám, không thể khám phá vấn đề mà giải quyết
dứt khoát được.
Trong bộ Phật tổ thống ký đã tập hơp sáu bộ kinh sử đều nói
Phật giáng sinh năm Giáp Dần : a)Chu thư dị ký. b)-Pháp bản nội
truyện, c)- Nguỵ thư – d)- Nam nhạc, -đ)- Phụ hành, e)-Pháp
lâm. Tất cả đều thống nhất nói rằng : Đức Phật Thích Ca giáng
sinh nhằm đời nhà Chu Cơ, vua Chiêu vương năm thứ 26 (có chỗ
nói năm thứ 24) là năm Giáp Dần (tính theo lối 60 mươi năm hoa
giáp của Trung Quốc).
Bộ thống ký này tính toán rất tỷ mỷ, diễn tả từ khi Phật còn
là vị Bồ tát ngự trên cõi trời, Đản sinh xuống cõi người,
đến khi xuất gia (năm Mậu Dần, 25 tuổi đời), thành đạo ( năm
Quí Mùi, 30 tuổi đời) , nhập diệt (năm Mậu thân, 79 tuổi đời).
Tính đến năm Đinh mão – dương lịch 67 – niên hiệu Vĩnh Bình năm
thứ 10, đời vua thứ II Minh đế đời Đông Hán, kinh Phật băùt đầu
truyền dịch sang chữ Trung Quốc, rồi tính tiếp đến năm 2003 thì
được 3021 năm.
Như vậy Đức Phật giáng sinh trước vị Giê-su giáng sinh 1027 năm
(Năm kỷ nguyên theo tây lịch là năm Tân Dậu, vào khoảng đầu thế kỷ
thứ 6, một số nước theo thiên Chúa giáo ở Châu Âu cũng chưa
tìm được đúng năm sinh của vị Giê-Su, khi ấy họ hop nhau lại
bàn cách đem số nguyệt chu nhân với số tuần chu để lấy kết quả
được (19x28=532) liền quyết định lấy ngày năm đầu của số này
làm năm kỷ nguyên của Thiên Chúa gọi tát là Công nguyên.
Ngay cả cái ngày 25 tháng 12 cũng là ngày sinh của vị thần
Công-xtăng-ti-nốp sùng bái, sau khi chinh phuc được nước này
rồi lấy ngày đó làm ngày Noen của vị Giê-su, theo lối Âu Tây
thường kể tuổi tròn, người ta qui định vị Giê-su tuổi Canh
Thân, năm tuổi này là năm thứ hai trước kỷ nguyên Thiên Chúa
giáo, niên hiệu nguyên thọ, đời vua Ái Đế nhà Hán Trung Quốc.
Khổng Tử sinh trước vị Giê-su 551 năm, khớp với thuyết của sư
Tổ Hoàng Tán : Đức Phật giáng sinh trước ngài Khổng Tử 477
năm. Cộng được : (477-1+551)= 1027 năm.
Người Anh lúc đó cai trị Ấn Độ có đào được tấm bia của Vua
A-Dục khắc về niên đại Phật Đản, theo trên tấm bia này thì Phật
giáng sinh lại là năm Bính Thân, tính đến năm 2003 là 2567 năm. Căn
cứ trên các tư liệu nêu trên và các dữ kiện khác do đó trong
đại lễ kỷ niệm Phật Giáo thế giới tại Tích Lan năm 1956 mới
quyết định lấy ngày trăng tròn 15 tháng tư Âm Lịch làm ngày kỷ
niệm Đức Phật giáng sinh cho cả thế giới.
Tuy nhiên, ở những nước có Phật giáo nhưng không có Âm Lịch thì
người ta theo dương lịch mà nói : “Phật giáng sinh
ngày trăng tròn “ trong tháng năm dương lịch hằng năm cứ
luôn luôn xê dịch : trong 100 năm chỉ có 4 năm là ngày 15
tháng 5 trăng tròn mà thôi. mặc dầu vậy, nhưng ngày
trang tròn của tháng tư Âm Lịch lúc nào cũng rơi vào tháng 5 dương
lịch. Nước ta và những nước theo Âm Lịch thì xưa nay vẫn tính
năm, Phật sinh năm nào thì kể ngay năm ấy là một.
Muốn xác định được ngày đại lễ Phật Đản trước hết phải tìm
những điều ghi trong các kinh sách nói về lịch sử Phật tổ cả
Bắc Tông lẫn Nam Tông (về ngày Phật Đản kinh sách Nam Tông nói
rất đơn giản chi qui gọn một câu “ngày trăng
tròn” mà thôi). đem đọ với giữa 2 thứ lịch Ấn
Độ và Trung Quốc mà tra cứu thì mới đạt được yêu cầu mong
muốn.
Ấn Độ từ xưa vẫn có 4 thứ lịch : lịch Sóc vọng, lịch Mặt trời,
lịch Địa cầu, lịch Ngôi sao. Trung Quốc cũng có 4 thứ lịch : lịch
nhà Hạ, (chính kiến dần) lịch nhà Thượng hay nhà Ấn (chinh
kiến sửu), lịch nhà Chu, (chính kiến tý), lịch nhà Tần (chính
kiến hợi). Bốn thứ lịch này đều là Âm lịch. Lịch nhà Hạ vẫn hiện hành
từ xưa đến nay, có thể gọi là âm dương lịch, vì nội dung đối
chiếu cả các ngày tháng về dương lịch.
Nay chỉ cần dùng 2 thứ lịch : Sóc vọng của Ấn Độ và Hạ lịch
(ta thường gọi là nông lịch) của Trung Quốc mà xác định ngày lễ Phật
Đản, vì 2 lịch này đều tính theo độ số chu toàn của sao Thái Âm
xoay quanh trái đất mà làm lịch. Mỗi nguyệt chu là 19 năm,
cũng mỗi năm 12 tháng, có tháng đủ, có tháng thiều và tháng
nhuận bù trừ vào nhău, mặc dù ngày tháng sáp đạt có chênh lệch
mỗi năm đều khác nhău.
Mỗi tháng của lịch Ấn Độ đều muộn hớn lịch Trung Quốc một
tháng rưỡi. Ngày trăng tròn của lịch Ấn Độ thì đạt vào
ngàycuối cùng của mỗi tháng, chứ không phải giữa tháng như
lịch Trung Quốc. Các ngày 30 trong mỗi tháng của lịch Ấn Độ
đều trùng hợp với ngày 15 trong mỗi tháng của lịch Trung Quôc,
như thế ngày trăng tròn của lịch Ấn Độ tức là ngày trăng tròn
của lịch Trung Quốc vậy.
Chỉ có một điều khác nhău giữa 2 lịch nhưng không ảnh hưởng
sai trái với ngày trăng tròn. Nghĩa là lịch Trung Quốc một năm chia
thành 4 mùa : Xuân, Hạ, Thu, Đông, lấy 12 con giáp Tý, Sửu,
Dần, Mão.....đạt tên cho 12 tháng. Lịch Ấn Độ thì chia một năm
làm 3 mùa : Xuân, Hạ, Đông (mỗi mùa 4 tháng) không có mùa
Thu, lấy tên 12 ngôi sao đặt cho 12 tháng.
Trên đây tôi sưu tầm biên soạn để chứng minh tại sao ngáy
Phật Đản lại có sự thay đổi từ ngày 8 tháng 4 ra ngày 15 tháng
4 âm lịch, và xác định ngày Phật Đản là ngày trăng tròn. Đây
cũng là ngày rất trọng đại đối với người Phật Tử chúng ta cần nghiên
cứu tìm hiểu để am tường về bối cảnh lịch sử của Đức Bổn
Sư .Tôi hy vọng đã góp một phần sự hiểu biết nông cạn của
mình vào việc hoằng dương chánh pháp. Nếu qui chư Tôn Đức
Tăng, Ni hoăïc các vị thiện trí thức, có những dữ kiện nào
chính xác hơn xin chỉ giáo và có những gì thiếu sót kính xin
quí ngài niệm tình thứ lỗi.
Nguyễn
Đức Can