Tầng lớp Yangban (là một phần của
giai cấp thống trị truyền thống hoặc các quý tộc của triều đại Triều
Tiên) lúc đầu tiếp nhận Thiên Chúa giáo như một phần của nền học
thuật phương Tây. Sau đó, dưới thời vua Chính Tổ (Jeongjo), một số học
giả bắt đầu nhìn nhận và tin tưởng Thiên Chúa như là một tín ngưỡng. Lý
Thừa Huân (I Seung-hun) sau khi được vị Linh Mục người phương Tây triều
đại nhà Thanh, Trung Quốc làm lễ rửa tội đã quay trở về và lập nên giáo
hội Thiên Chúa giáo (1784) ở Triều Tiên (Joseon).
Vào thời kỳ đầu, chủ yếu ở tầng lớp
Yangban, tầng lớp không được tham gia vào nắm chính quyền và tầng lớp
trung nhân tin tưởng vào Thiên Chúa giáo nhưng sao đó, dần dần cả những
người ở tầng lớp thường dân và phụ nữ cũng tin vào tôn giáo này. Ngay
khi hoạt động tín ngưỡng của Thiên Chúa giáo trở nên phát triển và số
lượng các tín đồ ngày càng tăng thì chính quyền Triều Tiên (Joseon) đã
ra lệnh cấm hoạt động đối với Thiên Chúa giáo. Sự cấm đoán này là do
chính quyền Triều Tiên (Joseon) cho rằng Thiên Chúa giáo đã không coi
trọng ý thức thờ cúng cha mẹ Tổ tiên của Nho giáo và Phật giáo đồng thời
lại theo tư tưởng bình đẳng và cho rằng thế giới tương lai mới quan
trọng sẽ làm đảo lộn về cơ bản trật tự xã hội của Triều Tiên (Joseon).
Ngược dòng lịch sử dân tộc Triều Tiên cũng như Việt Nam có những giai
đoạn Phật giáo Quốc Đạo thì dân tộc được thấm nhuần hiếu đạo qua những
thơ ca phổ vào nhân gian :
“Phụ mẫu tại đường như Phật
tại thế”
hay :
“Tâm Hiếu là Tâm Phật – Hạnh
Hiếu là Hạnh Phật”. . .
Dưới thời vua Chính Tổ (Jeongjo), Thiên
Chúa giáo không bị cấm nghiêm ngặt lắm nhưng ngay khi vua Thuần Tổ
(Sunjo trị vì 1800-1834), Thiên Chúa giáo đã bị đàn áp trên phạm vi rộng
lớn. Mặc dù vậy, họ vẫn được truyền bá và mở rộng mạnh trong tầng lớp
thường dân và phụ nữ Triều Tiên (Joseon).
Trong tình hình xã hội trở nên rối ren,
lòng dân bất an thì tôn giáo đương thời lại không phát huy đúng vai trò
của nó. Phật giáo thì bị nghịch cảnh nên phải tạm lánh xa vào rừng núi,
xa cách với xã hội, Nho giáo cũng xa dần với nông dân. Tôn giáo mới được
truyền bá là Thiên Chúa giáo phát triển trong tầng lớp thường dân và
phụ nữ, nhưng đây là Tôn giáo được du nhập từ phương Tây, thêm vào đó là
không khí bài ngoại của dân Triều Tiên (Joseon) trước sự uy hiếp xâm
lược của phương Tây ngày càng lên cao, nên phần lớn trí thức vẫn còn
cảnh giác với Tôn giáo này. Cũng chính lúc đó, Thôi Tế Ngu (Choe Je-u),
một Yangban sa sút ở vùng Khánh Châu (Gyeongju), đã dung hợp tam giáo
Nho, Phật, Lão với tín ngưỡng dân gian truyền thống để tạo ra một Tôn
giáo mới gọi là Đông học (donghak).
Đông học (Donghak) đối lập với Thiên
Chúa giáo và thế lực phương Tây nhằm gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc của Triều Tiên (Joseon) và luôn hướng tới những người dân cùng
khổ. Vì vậy mà nó không chỉ đơn thuần là một phong trào Tôn giáo mà có
thể coi là một phong trào xã hội nhằm chấn chỉnh lại nền chính trị hổn
loạn và xã hội đen tối, giúp cho cuộc sống của người dân bần cùng khốn
khổ.
Đông học (Donghak) mang trong mình ý
thức bài ngoại, mong muốn cứu đất nước khỏi sự xâm lược của thế lực
phương Tây mà tiêu biểu là Thiên Chúa giáo và đem lại cuộc sống yên bình
cho người dân. Ngay bản thân cái tên Đông học (Donghak) được đặt ra
cũng mang ý nghĩa là đối lập với Tây học (Seohok) của Thiên Chúa giáo.
Điều được nhấn mạnh nhất trong giáo lý
Đông học (Donghak) là “Nhân nãi Thiên” có nghĩa là “Con
người chính là Trời”. Theo đó, “Nhân tâm cũng chính là
Thiên tâm và phụng sự con người cũng chính là phụng sự Trời”. Điều
đó có nghĩa là phải vượt qua các vấn đề phân biệt về thân phận, giai
cấp và con người phải được tự do bình đẳng. Đây chính là nguyên nhân
Đông học (Donghak) đã được những người nông dân đang bị áp bức đón nhận
một cách trân trọng.
Trên cơ sở giáo lý như vậy, Đông học
(Donghak) đã được mở rộng nhanh chóng ở các vùng nông thôn. Lúc này,
chính quyền xem Đông học (Donghak) là Tôn giáo làm đảo lộn thế giới là
lừa phỉnh nhân dân nên đã xử tử hình giáo chủ Thôi Tế Ngu (Choe Je-u) và
đàn áp phong trào Đông học (Donghak).
Thời kỳ những năm trước và sau 1860,
chính quyền Triều Tiên (Joseon) phải đối mặt với nhiều khó khăn từ bên
trong và bên ngoài. Trong nước, quyền lực của Sedojeongchi (Chính trị
Thế đạo) tồn tại trong suốt 60 năm nay đã suy yếu, chính trị mất đàn kỷ
cương, lại thêm vấn nạn Tam Thanh (Samjeong) khiến nông dân khắp nơi
liên tục nổi dậy khởi nghĩa. Cùng lúc đó, phong trào Đông học (Donghak)
hình thành và phát triển nhanh chóng với sự hưởng ứng nhiệt tình của
tầng lớp nông dân vốn đã rất bất mãn với cuộc sống thực tại và mong muốn
có một cuộc cải cách xã hội.
Đạo Thiên Chúa mặc dù bị đàn áp và bị
nhà nước cấm đoán những vẫn ngày càng được truyền bá rộng rãi. Mặc khác,
tàu thuyền của một số nước phương Tây đã xuất hiện ở gần biển Triều
Tiên (Josen) để đe dọa và yêu cầu thông thương. Lúc này, Trung Quốc bị
phương Tây xâm lược và Bắc Kinh đã thất thủ, trong khi Nga đang chiếm
giữ Yeonhae-ju nên biên giới của Triều Tiên (Joseon) được tiếp giáp với
biên giới của Nga qua sông Duman.
Điều này khiến nhân dân Triều Tiên
(Joseon) vô cùng lo lắng về họa xâm lăng của phương Tây và vì vậy, họ
muốn ổn định chính trị để đất nước có được an toàn hơn trước họa ngoại
xâm.
Vào thời Hưng Tuyên Đại Viện Quân
(Heungseon Daewongung) tên là Lý Thị Ứng (Yi Ha-eung) cầm quyền, đã có
rất nhiều tín đồ Thiên Chúa giáo ở Triều Tiên (Joseon) và các giáo sĩ
người Pháp vẫn lén lút truyền đạo ở khắp các tỉnh. Ban đầu, Hưng Tuyên
Đại Viện Quân (Heungseon Daewongung) đối xử ôn hòa với đạo Thiên Chúa
nhưng năm 1860, sự kiện phương Tây chiếm đóng Bắc Kinh của nhà Thanh và
việc quân Nga ngấm nghé biên thùy đã khiến Triều Tiên (Joseon) phải cảnh
giác hơn với Nga và các thế lực phương Tây. Hưng Tuyên Đại Viện Quân
(Heungseon Daewongung) cũng nhận thấy những hiểm họa từ nước Nga. Vì
vậy, ông định mượn sức mạnh của Pháp thông qua các nhà truyền đạo người
Pháp chủ trương không tham gia chính trị, vì vậy Triều Tiên (Joseon) đã
không thiết lập được quan hệ ngoại giao với Pháp.
Cuối cùng, khi làn sóng phản đối đạo
Thiên Chúa trong nước dâng lên mạnh mẽ, để bảo vệ địa vị chính trị của
mình cũng như gìn giữ bản sắc văn hóa của dân tộc, Hưng Tuyên Đại Viện
Quân (Heungseon Daewongung) bắt đầu đàn áp Thiên Chúa giáo. Kết quả là 9
nhà truyền giáo người Pháp và rất nhiều con chiên đã bị bắt và bị xử tử
hình.
(Sau đó Đô đốc Roze (1812-1883) vị
tướng Hải quân người Pháp mới gửi một bức thư, yêu cầu phóng thích hai
nhà truyền giáo người Pháp còn lại mà ông ta tin rằng có thể bị bỏ tù.
Không thấy hồi âm phúc đáp, nhưng nó trở nên rõ ràng từ các hoạt động
được thấy trên đất liền qua eo biển hẹp rằng quân đội Hàn Quốc đã huy
động hàng ngày. Ngày 09 tháng 11 Pháp lại kiểm tra một lần nữa khi họ
đã cố gắng chiếm một ngôi Cổ Tự kiên cố ở bờ biển phía nam của Giang Hoa
đó là Truyền Đăng Tự (Jeongdeung-sa). Ở đây một lần nữa Hàn Quốc quyết
kháng chiến, cùng với sự ưu thế bởi chư Tăng cùng Phật tử chuẩn bị sẳn
sàng và đã biến ngôi Cổ Tự Truyền Đăng làm thành trì kiên cố cho quốc
phòng để bảo vệ đất nước Triều Tiên, Pháp buộc phải rút lui với hàng
chục thương vong nhưng không có ca tử vong. Ngay sau đó, với gần mùa
đông và các lực lượng Hàn Quốc đang phát triển mạnh mẽ hơn, Đô đốc Roze
thực hiện các quyết định chiến lược để sơ tán. Trước khi làm như vậy,
bọn họ đã cho bắn phá các tòa nhà chính phủ trên đảo Giang Hoa
(Ganghwa-do) và để thực hiện ý đồ của mình. Bọn chúng cũng kinh nghiệm
được khoảng thời gian này, hai người truyền giáo sợ bị bắt tại Hàn Quốc
đã thực sự trốn thoát sang Trung Quốc).
Vì thế bọn thực dân Pháp lập tức viện cớ
những cái chết của các nhà truyền giáo, đòi Triều Tiên (Joseon) mở cửa
thông thương, và tiến vào đảo Giang Hoa (Ganghwa-do) chiếm sơn thành
Giang Hoa năm 1866. Quân Pháp cướp phá các thư tịch và văn hóa phẩm,
trong đó có bộ Trực Chỉ Thiền tông Phật giáo được khắc in bằng kim loại
đầu tiên trên thế giới ở đảo Giang Hoa (Gangwha-do). Sau khi Hưng Tuyên
Đại Viện Quân (Heungseon Daewongung) cầm quyền, chính quyền Triều Tiên
(Joseon) đã chấn chỉnh lại lực lượng quân sự từng có hoạt động phòng
chống ngoại xâm ở các địa phương, chiêu mộ các tay cầm súng giỏi để tăng
cường bảo vệ các vùng ven bờ sông Hàn và cuối cùng đã đánh lui quân
Pháp.
Sau sự kiện này người phương Tây đứng
đầu là Opbert E.J. định đào mồ cuốc mã cha của Hưng Tuyên Đại Viện Quân
(Heungseon Daewongung) lên, nhưng thất bại và phải bỏ trốn. Sự việc này
càng thêm sự căm hờn người phương Tây của nhân dân Triều Tiên (Joseon)
và tăng cường đại hùng lực để quyết chiến giành độc lập tự chủ.
(Biên tập theo lịch sử Hàn quốc)
12/05/2010