Nhưng thật đáng tiếc, TS Phạm Huy Thông chỉ nhìn thấy cái
kim trong mắt người khác mà không nhìn thấy cái đà trong mắt mình [Chúa
Giê-su dạy: "Hãy lấy cây sà trong mắt ngươi ra trước rồi hãy lấy
cây kim trong mắt người khác ra sau. Đừng phê phán ai để ngươi cũng
không bị phê phán."] Nhưng tệ hơn nữa là TS đã không hiểu rõ về
chính đạo Công giáo của mình cũng như về truyền thống xã hội và văn hóa
của Việt Nam. Rất cường điệu, ông ta mượn lời của Alexandre de
Rhodes, cho rằng những gì trái ngược với Công giáo đều là mê tín mà
không xét đến bối cảnh lịch sử của Việt Nam qua các thời đại. Sau đây
chúng ta hãy đi vào phần phân tích một số tư tưởng của TS Phạm Huy
Thông [PHT].
PHT: Có một số
người vẫn đồng nhất tôn giáo với mê tín, lạc hậu. Ngay trong cuốn Từ
điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ do Nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành năm
2000 viết: “ Mê tín: Tin một cách mù quáng vào thần thánh, ma quỷ, số
mệnh và những điều huyền hoặc” ( tr.628). Thế nhưng, ngày nay nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng không phải tôn giáo là đồng nhất với mê tín, lạc
hậu mặc dù chúng đều tồn tại trên cơ sở niềm tin. GS Đặng Nghiêm Vạn-
nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu tôn giáo cho rằng: “Cũng cần thấy
niềm tin tôn giáo không phải là niềm tin mê muội cuồng tín, thiếu suy
nghĩ…Người tín đồ tôn giáo trước hết là người hiểu một cách “ trí tuệ”
điều mình tin, điều mình coi là thiêng liêng. Niềm tin tôn giáo cũng
không thể xem là những hiện tượng phản văn hoá, trái với tiến bộ, văn
minh” ( 1). Chúng ta có thể
xem xét vấn đề này qua trường hợp của đạo Công giáo.
TCN: Trước hết, từ
“tôn giáo” quá tổng quát, không thể viết như vậy, vì không ai có thể
tổng quát hóa bất cứ điều gì cho tất cả các tôn giáo trong thế gian.
Cho nên TS Phạm Huy Thông không thể viết “đồng nhất tôn giáo với mê tín, lạc hậu”.
Do đó, câu mà TS Phạm Huy Thông trích dẫn từ GS Đặng Nghiêm cũng trở
nên vô nghĩa, vì GS Đặng Nghiêm đã coi mọi tôn giáo đều như nhau ! Hiển
nhiên khi chúng ta nghiên cứu về vấn đề tôn giáo thì chúng ta thấy mọi
tôn giáo đều khác nhau, thuộc các nền văn hóa khác nhau, có tôn giáo là
tôn giáo của trí tuệ, có tôn giáo là tôn giáo của đức tin, có tôn giáo
thờ thần, có tôn giáo chủ trương nhân bản và nhân chủ v…v…, cho nên từ
“tôn giáo”, viết một cách thiếu suy nghĩ của TS Phạm Huy Thông cũng
như của Giáo sư Đặng Nghiêm đều không nói lên được điều gì. Vậy, vấn đề là, khi chúng ta muốn
nói về tôn giáo thì chúng ta phải quy định đó là tôn giáo nào và tìm
hiểu xem niềm tin tôn giáo đó thuộc loại nào, có phải là niềm tin dựa
trên sự hiểu biết, hay chỉ là niềm tin mê muội cuồng tín, thiếu suy
nghĩ. Từ đó chúng ta mới có thể quyết định tôn giáo đó có thuộc loại mê
tín, lạc hậu hay không?
Câu cuối cùng trong đoạn văn trên của TS Phạm Huy Thông hàm ý là
niềm tin Công giáo không phải là mê muội cuồng tín, thiếu suy nghĩ mà
là hiểu một cách “trí tuệ” điều mình tin… Nhưng trong suốt bài, TS Phạm Huy
Thông không đưa ra bất cứ một luận cứ nào để chứng minh Công giáo không
phải là mê tín dị đoan, mà chỉ đề cao Công giáo là đã “nghiêm
cấm các hành vi mê tín, dị đoan” [sic], và “phê phán những
tập tục lạc hậu, tệ đoan xã hội”, và nghĩ rằng như thế cũng đủ để
chứng tỏ niềm tin Công giáo không phải là mê muội cuồng tín, thiếu suy
nghĩ mà là hiểu một cách “trí tuệ” điều mình tin… Nhưng sự thực có phải
như vậy không? Ai cũng biết, Công giáo là đạo của “đức tin” (faith),
mà theo định nghĩa thì “đức tin” là:
1) tin vào những gì mà những người có đầu óc ngay thẳng [right
mind] không tin được;
2) tin vào những gì không chắc có thực;
3) tin vào một đấng siêu nhiên cai quản vũ trụ và muôn loài.
Và như vậy TS Phạm Huy Thông đã cố ý tránh né, không bàn đến căn bản
giáo lý đã tạo nên niềm tin Công giáo.
Điều đáng
trách là TS Phạm Huy Thông đã dùng một tài liệu từ thế kỷ 17 của tên
thừa sai thực dân ngu dốt bịp bợm là Alexandre de Rhodes. [Xin đọc bài “Di
Hại Của Nền Đạo Lý Thiên La Đắc Lộ” trên
http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN50.php]. Cái tên thừa sai
Công giáo ngu dốt này đã viết cuốn “Phép Giảng Tám Ngày” mà
nội dung đầy những điều thuộc loại mê tín, đồng thời còn xuyên tạc hạ
thấp Đức Phật và Đức Khổng Tử, nguyên do chỉ vì một niềm tin mù quáng
và sự cuồng tín của hắn về môn thần học mê hoặc lừa dối của Công giáo
trong thời đại mà Âu Châu còn nằm dưới sự thống trị của Công giáo, một
thời đại mà ngày nay các học giả Tây phương đã gọi là “Thời đại
Trung Cổ” (The Middle Ages), hay “Thời Đại Đen Tối” (The
Dark Ages) hay “Thời đại của sự man rợ và đen tối trí thức”
(The Ages of barbarism and intellectual darkness).. Trong bài “Di
Hại Của Nền Đạo Lý Thiên La Đắc Lộ”, [“Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ” là cụm từ Giáo sư Nguyễn Mạnh
Quang dùng để chỉ những ảnh hưởng tai hại của Thiên Chúa Giáo La Mã
(Thiên-La) mà giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc-Lộ) đã mang đến đầu độc
đầu óc lớp người dân thấp kém nhất trong xã hội Việt Nam trong thế kỷ
17; Xin đọc Chương 15 trong cuốn Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa
Toàn Thư (1954-1963) của Giáo sư Quang] tôi đã phân tích
cuốn Hành trình Truyền Giáo của Đắc Lộ và chứng minh rằng:
- Về lịch sử, Rhodes cũng chỉ biết lõm bõm.
- Về sinh hoạt người dân thì cũng chỉ là những nhận xét phiến
diện, hời hợt.
- Về văn hóa địa phương thì Rhodes mù tịt.
- Và đặc biệt về truyền giáo thì Rhodes có những mánh lới xảo
quyệt dụ đạo những người ngu, những điều này thể hiện ngay trong
những từ ngữ mà Rhodes dùng trong cuốn sách, trong những mánh lới này
chúng ta thấy những niềm tin nhảm nhí về ma quỉ, những phép lạ không
thể tin được, và những lý luận ẩu tả, phi lý và láo lếu.
Sau đây tôi xin nhắc lại một đoạn phê bình điển hình về sự bịp
bợm của Alexandre de Rhodes:
Trang 74: Với
thánh giá Chúa, với nước phép, giáo dân tốt lành đã thông thường đuổi
ma quỉ, chữa các thứ bệnh tật. Chỉ cho uống 4,5 giọt nước thánh mà chữa được người mù và
cho 2 người chết sống lại. Họ ra đi, cắm thánh giá ở đầu, ở
giữa và cuối xóm. Họ đến thăm bệnh nhân, đọc kinh và cho bệnh nhân uống
vài giọt nước phép. Không đầy 5 ngày đã chữa khỏi 272 người.
Trang 77: Họ
rất quí trọng nước phép, cứ 5, 6 ngày họ lại đến lấy.. Họ cho bệnh nhân
uống với những thành quả lạ lùng. Mỗi chủ nhật, tôi buộc lòng phải làm phép với 5 vại lớn,
để thỏa mãn lòng sốt sắng của họ.
TCN bình luận:
Nước phép hay nước thánh là nước thường đã được ông linh mục bi bô đọc
vài câu tiếng La-Tinh để biến nó thành nước phép hay nước thánh. Rhodes đã thông thạo môn thần học
bịp bợm dân ngu, nhưng chính ông ta cũng lại ngu không thể tả được mới
viết lên được những đoạn trên. Chỉ với 4, 5 giọt nước phép là có
thể chữa được người mù, người chết sống lại, và chữa khỏi mọi bệnh
tật. Nhưng mỗi chủ nhật ông ta phải phù phép biến 5 vại nước lớn thành
nước thánh hay nước phép để thỏa mãn nhu cầu của giáo dân. Một vại lớn có bao nhiêu lít nước?
Một lít nước có bao nhiêu giọt nước. Nếu tính
ra thì 5 vại nước phép đó có thể chữa cho cả nước Pháp của ông ta khỏi
mù, vì trong thế kỷ 17, cả nước Pháp đang mù vì là toàn tòng Công Giáo.
Nhưng ngày nay, chẳng cần đến nước phép hay nước thánh (holy water) gì
đó mà Pháp cũng đã ra khỏi cảnh mù rồi. Giáo dân Việt Nam dùng loại
nước phép đó đã mù lại càng mù thêm vì cái đạo lý Thiên-La Đắc-Lộ bịp
bợm hoang đường quá lố lăng chẳng có ai có thể tin được...Vì thế ngày
nay chẳng còn ai tin là nước phép hay nước thánh có bất cứ một tác dụng
gì ngoài bản chất là nước thường như mọi nước thường khác. Ngày nay,
không ai chữa bệnh bằng nước thánh, mà đi khám bác sĩ, hay đi nhà
thương, và nhiều khi còn tin thuốc ta hơn là nước thánh. Alexandre de
Rhodes viết như trên chỉ để lừa bịp dân ngu vì chính ông ta cũng không
tin ở nước thánh. Trong cuốn Hành Trình Truyền Giáo ông ta viết: khi
ông ta bị sốt nặng nhưng lại không dùng nước thánh của ông ta để làm
cho hết sốt mà lại phải nhờ một Đông Y sĩ cho uống thuốc ta mới hết
sốt.
Điều
đáng nói là sự di hại của nền đạo lý Thiên-La Đắc Lộ vẫn còn kéo dài cho
đến ngày nay khi TS Phạm Huy Thông dùng cuốn Lịch Sử Vương Quốc
Đàng Ngoài của Rhodes để chứng minh là “đạo Công Giáo nghiêm
cấm các hành vi mê tín, dị đoan và phê phán các tập tục lạc hậu, tệ nạn
xã hội.”. Đọc cuốn trên của Rhodes ta có thể thấy lại những nhận
định của tôi về cuốn Hành Trình Truyền Giáo của Rhodes. Cũng
như trong cuốn Phép Giảng Tám Ngày, trong cuốn Lịch Sử
Vương Quốc Đàng Ngoài, Rhodes lại xuyên tạc viết láo lếu về Đức
Khổng Tử, Đức Phật, Lão Tử trong Quyển Một, Chương 18, 19 và 21.
■ Về Khổng tử, Rhodes viết: “Khổng tử không phải là thánh nhân,
bởi vì, theo tôi, nếu ngài
được gọi là thánh nhân, thì ngài phải biết có một đức Chúa trời dựng nên
trời và đất”
[sic] (trang 39). [Chuyện “có một đức Chúa trời dựng nên trời và đất “
ngày nay đã trở thành một trò cười cho thiên hạ trước những bằng chứng
khoa học bất khả phủ bác về nguồn gốc vũ trụ và con người mà chính Tòa
Thánh cũng đã phải công nhận. TCN]
■ Về Đức Phật, Rhodes viết: “Đức Thích Ca chưa đầy 17 tuổi thì
đã kết duyên với một công chúa trẻ tuổi tên là Adulala, con gái một vua
Ấn khác. Hai năm sau thì sinh hạ được một con gái tên là Hầu La…. Đức Thích Ca bực tức vì
không được kết quả trong công việc, liền dựa vào lời bàn của thần
thánh quen thuộc để gieo rắc một thứ truyện hoang đường về thần thánh.
Thế là có thành quả ngay đến nỗi trong 40 năm hoạt động, vừa dựa vào quyền thế, vừa dựa vào
ma thuật, ngài đã cho thành lập và phổ biến khắp Ấn Độ tín ngưỡng trước
đây chưa ai biết” (trang 42) [Chúng ta thấy rõ, Rhodes đã dựa vào chính những sắc thái
của Công Giáo để suy diễn và bài bác Đức Phật. Vì “gieo rắc một
thứ truyện hoang đường về thần thánh” (Chuyện Giê-su sinh ra từ
một trinh nữ, làm các phép lạ, chết rồi sống lại và bay lên trời), và “dựa
vào ma thuật” (nước thánh, các bí tích) chính là những sản phẩm
lừa bịp dân ngu của Công Giáo, chứ trong giáo lý của Đức Phật, không hề
có những thứ mà Rhodes bịa ra. TCN]
■ Về đạo Lão, Rhodes viết: “Lão tử, nhà ma thuật đời xưa rất
danh tiếng, đã có và còn có rất nhiều đồ đệ có uy tín cới Chúa [Trịnh]
và tất cả kẻ sang trọng trong nước. Chẳng có gì đáng khen, chính Chúa
và các quan trong phủ cũng bị truyền nhiễm. Là giáo phái thịnh hành ở
Đàng Ngoài, vì rất phổ thông và rất liên quan tới ma quỉ.” [Rhodes
hiển nhiên không biết đến Đạo Đức Kinh của Lão Tử. Nếu ông ta biết và
hiểu thì ông ta phải vứt cuốn Thánh Kinh của ông ta vào “recycle bin”
alias “trash”. TCN]
Một cuốn sách viết láo lếu như vậy mà ngày nay TS Phạm Huy Thông
còn dùng nó để chứng minh là Công giáo rất tiến bộ. Bây giờ chúng ta
hãy đi vào vài đoạn của TS Phạm Huy Thông [PHT]:
PHT: 1. Đạo Công giáo nghiêm cấm các hành
vi mê tín, dị đoan. [Thật vậy sao??]
Công giáo là một tôn giáo độc thần, vì vậy giáo lý của đạo
nghiêm cấm việc thờ các thần linh khác và tất cả các hành vi có ảnh
hưởng đến căn tính được ghi trong điều răn thứ nhất: Thờ phượng một
Chúa Trời và kính mến Chúa trên hết mọi sự. Do đó, các hiện tượng vốn
được coi là quen thuộc với phong tục dân gian ở Á Đông và Việt Nam như
lên đồng, bói toán, chọn ngày tốt xấu, chọn đất chôn táng, đốt vàng
mã…đều bị đạo Công giáo cấm tín đồ tham gia. Ai dù vô tình hay cố ý
tham gia đều coi là lỗi phạm giới răn thứ nhất và buộc phải sám hối,
xưng tội trước toà giải tội.
TCN: Công giáo là
một tôn giáo độc thần, đúng vậy. Nhưng thần đó là thần như thế nào, có
đáng để con người thờ phụng không? Tôi nghĩ rằng, niềm tin tôn giáo
của TS Phạm Huy Thông thực sự không phải là do “hiểu một cách “
trí tuệ” điều mình tin, điều mình coi là thiêng liêng”
mà là một niềm tin mù quáng về một vị thần của dân tộc Do Thái mà
người Công giáo Việt Nam gọi là Thiên Chúa hay Chúa Trời. Nhưng thật
ra Thiên Chúa của Công Giáo là như thế nào? Có lẽ TS Phạm Huy Thông
không hề đọc Thánh Kinh và cũng không biết đến một số nhận định về
Thiên Chúa của Công Giáo của những người đã đọc kỹ Thánh Kinh như sau:
1) Tổng Thống Thomas
Jefferson của Mỹ, sau khi đọc cuốn “Thánh Kinh”, đã nhận định về
Thiên Chúa của Ki Tô Giáo là “một nhân vật có tính tình khủng khiếp
– độc ác, ưa trả thù, đồng bóng, và bất công” [Thomas Jefferson
describes The God of Moses as “a being of terrific character – cruel,
vindictive, capricious and unjust].
2) Giám mục John Shelby
Spong: Cuốn Thánh Kinh đã làm cho tôi đối diện với quá nhiều
vấn đề hơn là giá trị. Nó đưa đến cho tôi một Thiên Chúa mà tôi
không thể kính trọng, đừng nói đến thờ phụng. [ John Shelby
Spong, Rescuing The Bible From Fundamentalism, p. 24: A
literal Bible presents me with far more problems than assets. It offers
me a God I cannot respect, much less worship.]
3) Linh mục Công giáo
James Kavanaugh viết về “Huyền Thoại Cứu Rỗi” trong cuốn Sự
Sinh Ra Của Thiên Chúa (The Birth of God), xin đọc:
http://sachhiem.net/TCNtg/TCN36.php :
Nhưng đối với con người hiện đại. chuyện hi sinh của Giê-su chẳng có ý
nghĩa gì mấy, trừ khi hắn đã bị reo rắc sự sợ hãi và bị tẩy não từ khi
mới sinh ra đời (But
to modern man, it makes far less sense unless he has been suitably
frightened and brainwashed from birth). Đối với tôi (Linh mục
James Kavanaugh), đó là một huyền thoại “cứu rỗi” của thời bán
khai, miêu tả một người cha giận dữ [Thiên Chúa], chỉ nguôi
được cơn giận bằng cái chết đầy máu me của chính con mình. Đó là một chuyện độc ác không thể
tưởng tượng được của thời bán khai (It is a primitive tale
of unbelievable cruelty).
4) Nhưng đặc biệt hơn cả là khi đọc Richard Dawkins trong cuốn “The
God Delusion”, ấn bản 2008, tôi thấy tác giả đưa ra tới 16 nhận
định về Thiên Chúa của Ki Tô Giáo rất đáng để chúng ta nghiên cứu để
tìm hiểu sự thật. Mở đầu Chương 2, trang 51, về “Giả Thuyết Về Thiên
Chúa” [The God Hypothesis], tác giả Richard Dawkins viết:
Không cần phải
bàn cãi gì nữa, Thiên Chúa trong Cựu Ước là nhân vật xấu xa đáng ghét
nhất trong mọi chuyện giả tưởng: ghen tuông đố kỵ và hãnh diện vì thế; một kẻ nhỏ nhen lặt vặt, bất công, có tính đồng bóng tự cho là có quyền năng và bất
khoan dung; một kẻ hay
trả thù; một kẻ khát
máu diệt dân tộc khác; một kẻ ghét phái nữ, sợ đồng giống luyến ái, kỳ thị chủng tộc, giết hại trẻ con, chủ trương diệt chủng, dạy cha mẹ giết con cái, độc hại như bệnh dịch, có bệnh tâm thần hoang tưởng về quyền
lực, của cải, và toàn năng [megalomaniacal], thích thú trong sự đau đớn và những
trò tàn ác, bạo dâm [sadomasochistic], là kẻ hiếp đáp ác ôn thất thường.
[1]
Tôi nghĩ rằng, tất cả những tác giả trên phải có lý do gì mới dám
viết ra những điều như vậy, vì có tới gần 1/3 nhân loại, nghĩa là
khoảng gần 2 tỷ người, tuyệt đại đa số thuộc thành phần thấp kém, ít
hiểu biết trong xã hội, tin và thờ phụng Thiên Chúa của Ki Tô Giáo, và
nhất là họ lại viết và xuất bản ngay trên nước Mỹ, một nước văn minh
tiến bộ nhất nhưng lại lạc hậu nhất về niềm tin Ki Tô Giáo còn sót lại
trên thế giới. Và khá lạ lùng, cuốn The God Delusion của
Richard Dawkins lại là một cuốn sách thuộc loại bán chạy nhất ở phương
trời Âu Mỹ. Những nhận định của Richard Dawkins như trên không hề sai,
chúng đã được chứng minh rất
đầy đủ qua những trích dẫn từ cuốn Thánh Kinh của Công giáo:
http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/3NGOI/TCN64_2.php.
Như vậy, thần của Công giáo so với các thần cổ xưa trong dân gian
Việt Nam như thần cây đa, thần bình vôi v…v… thì thần nào có hại cho
nhân loại hơn. Bản chất của thần cây đa, hay thần bình vôi không khác
gì thần của Công giáo, vì cùng là những đối tượng của một niềm tin,
nhưng những người tin vào thần cây đa, thần bình vôi chưa hề làm hại
ai, trái lại những người tin vào thần của Công giáo đã gây ra 7 núi tội
ác đối với nhân loại mà Giáo hoàng John Paul II cùng Bộ Tham Mưu của
ông ta đã phải xưng thú cùng thế giới ngày 12 tháng 3 năm 2000 tại
Vatican. Do đó giáo lý Công giáo “nghiêm cấm việc thờ các thần
linh khác và tất cả các hành vi có ảnh hưởng đến căn tính được ghi
trong điều răn thứ nhất: Thờ phượng một Chúa Trời và kính mến Chúa trên
hết mọi sự” chỉ là nhắc lại huyền thoại của dân tộc Do Thái về
một vị thần của họ trong thời bán khai, một vị thần đang bị đẩy lui vào
hậu trường ở Âu Châu trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại. Điều
đáng nói ở đây là các tín đồ Công Giáo Việt Nam đã bị mê hoặc để đi thờ
phụng một thần không đáng thờ phụng, và vì thiếu hiểu biết, nên đã
nhắm mắt tuân theo.
Theo TS Phạm Huy Thông thì giáo lý Công giáo nghiêm cấm việc
thờ các thần linh khác. Nhưng những phong tục dân gian ở Á
Đông và Việt Nam như lên đồng, bói toán, chọn ngày tốt xấu, chọn đất
chôn táng, đốt vàng mã không phải là thờ thần linh khác và không
ai bắt ai phải tin những phong tục như vậy. Những việc như trên, khi
người dân hiểu ra thì họ sẽ không còn thực hành nữa. Vậy tại sao Công
giáo phải nghiêm cấm? Phải chăng Công giáo chủ trương bài bác tất cả
những phong tục tập quán trong nền văn hóa khác không phù hợp với nền
văn hóa độc thần trịch thượng của Công giáo. Nhưng thực ra, một số
trong những phong tục trên không phải là không có ý nghĩa. Đạo Công
giáo cấm tín đồ tham gia vì không hiểu ý nghĩa của các phong tục dân
gian, và vì theo sách lược độc tôn, độc thần. Những gì không phù hợp
với chủ thuyết Công Giáo đều bị nghiêm cấm, thí dụ như tục lệ thờ cúng
tổ tiên hay những nghi thức về cưới hỏi, tang lễ trong dân gian. Đó chính là sự ngu xuẩn của Công
giáo trong một thế giới mà các nền văn hóa đều khác nhau. Nhưng
thực ra Công giáo không chỉ nghiêm cấm tín đồ không được thờ các thần
linh khác mà còn ra lệnh cho tín đồ phải tìm cách tiêu diệt những người
thờ thần linh khác, phá hủy đền thờ miếu mạo của những người thờ thần
linh khác. Đó là sự man rợ
của Công giáo. Và đây cũng là điều TS Phạm Huy Thông tránh né
không đụng tới. Chứng minh?
Giáo lý Công giáo bắt nguồn từ đâu? Có phải là từ cuốn Thánh Kinh
không? Chúng ta hãy đọc vài đoạn trong Cựu Ước về lệnh lạc của Thiên
Chúa của Công giáo mà TS Phạm Huy Thông tin rằng phải “thờ phượng
và kính mến trên hết mọi sự”:
PHỤC TRUYỀN 6:17; 7:1-5:
PHẢI TUYỆT ĐỐI TUÂN HÀNH CÁC
ĐIỀU RĂN, LUẬT LỆ CỦA THIÊN CHÚA... KHI ĐỨC CHÚA TRỜI DẪN CÁC
NGƯƠI VÀO VÙNG ĐẤT MÀ CÁC NGƯƠI SẼ CHIẾM HỮU…CÁC NGƯƠI PHẢI TẬN DIỆT
HỌ, KHÔNG ĐƯỢC LẬP GIAO ƯỚC, KHÔNG ĐƯỢC THƯƠNG XÓT... KHÔNG ĐƯỢC GẢ CON GÁI MÌNH CHO CON
TRAI HỌ, HOẶC CƯỚI CON GÁI HỌ CHO CON TRAI MÌNH VÌ HỌ SẼ DỤ CON CÁI CÁC
NGƯƠI THỜ CÚNG CÁC THẦN CỦA HỌ MÀ BỎ CHÚA HẰNG HỮU.. CÁC NGƯƠI
PHẢI ĐỐI XỬ VỚI HỌ NHƯ SAU: PHẢI
PHÁ HỦY NHỮNG BÀN THỜ CỦA HỌ, PHẢI ĐẬP PHÁ NHỮNG CỘT TRỤ THIÊNG LIÊNG
CỦA HỌ, ĐẬP NÁT NHỮNG HÌNH TƯỢNG BẰNG GỖ, ĐỐT SẠCH CÁC TƯỢNG CHẠM CỦA
HỌ..
PHỤC TRUYỀN 20: 12-18:
LÚC KÉO QUÂN ĐẾN TẤN CÔNG MỘT THÀNH NÀO, NẾU THIÊN CHÚA CHO CÁC NGƯƠI
HẠ ĐƯỢC THÀNH ĐÓ, PHẢI GIẾT HẾT ĐÀN ÔNG TRONG THÀNH, NHƯNG BẮT GIỮ ĐÀN
BÀ, TRẺ CON, SÚC VẬT, VÀ CHIẾM GIỮ CÁC CHIẾN LỢI PHẨM...BÊN TRONG LÃNH
THỔ CHÚA BAN CHO, PHẢI DIỆT HẾT MỌI SINH VẬT. PHẢI TẬN DIỆT DÂN
HÊ-TÍT, A-MO, CA-NA-AN, PHÊ-RẾT, HÊ-VÍT VÀ GIÊ-BU NHƯ CHÚA ĐÃ TRUYỀN
DẠY. NHƯ VẬY HỌ KHÔNG CÒN
SỐNG ĐỂ DỤ DỖ ĐỒNG BÀO HỌ LÀM TỘI ÁC, THỜ CÚNG THẦN CỦA HỌ MÀ MANG TỘI
VỚI CHÚA.
Có phải là Công giáo Việt Nam đã từng theo sát những luật lệ này
không? Cho đến ngày nay, Công giáo vẫn ép người ngoại đạo phải học
giáo lý nhồi sọ của Công giáo trước khi lập gia đình với người có đạo.
Chúng ta hãy bỏ qua những gì Công giáo đã thực hành các điều răn trên
khi xâm lăng các nước trên thế giới như ở Mỹ Châu, Nam Mỹ và Phi Châu,
và hãy đọc một chút về lịch sử xâm lăng của Công giáo vào Việt Nam.
Một trong những tài liệu có tính cách tổng hợp về sự xâm lăng của
Công Giáo vào Việt Nam là của Helen B. Lamb, trong cuốn Vietnam's
Will to Live. Sau đây là vài đoạn trong đó, xin độc giả để ý đến những lời văn
châm biếm rất ý nhị của tác giả.. và chúng ta có thể thấy trong
đó tất cả những sắc thái trong tài liệu của Alexandre de Rhodes mà TS
Phạm Huy Thông sử dụng:
"Những sự giao tiếp giữa Pháp và Việt Nam từ thế kỷ 17 trở
đi đều theo một mô thức cổ điển xâm nhập Á Châu của Tây phương. Mới
đầu là các thừa sai và con buôn. Rồi các nhà ngoại giao đến can
thiệp, nhân danh cả hai, và cuối cùng, quân lính tiến vào, áp đặt
sự thống trị của ngoại quốc - lẽ dĩ nhiên là để làm tốt cho dân bản xứ.
Động cơ chính để một nước đi chiếm thuộc địa và những vùng
ảnh hưởng là sự chiếm hữu một cái gì đó, quyền lực, uy tín, của cải,
hay những thứ cưỡng đoạt được...Trong trường hợp nước Pháp, họ đặt nặng
vấn đề tôn giáo. Là những người cầm đuốc soi sáng cho những người
khác về chủ thuyết Công giáo, người
Pháp đã lao mình vào một cuộc Thánh chiến để mang tới cho dân Việt Nam
món quà vô giá, cơ hội để sống đời đời, bất tử.
Chỉ khi nước Pháp trở thành thế tục hơn trong thế kỷ 19, họ
mới đặt nặng chiêu bài "nhiệm vụ văn minh hóa" - trong những quốc gia
mà niềm tự hào về nền văn minh cổ của họ rất là chính đáng.
...Dù các con buôn bị đối đãi lạnh nhạt đến đâu thì các thừa sai
Tây phương còn bị nghi ngờ hơn nữa. Sau năm 1645, khi Alexandre de
Rhodes bị bắt cầm tù và rồi bị trục xuất, theo những con buôn người Anh
tới giao thương ở Việt Nam thì các thừa sai phải ngụy trang dưới
dạng con buôn.
...Một triết gia Đông phương hiện đại, khi giải thích về sự đối
kháng của Á Châu đối với những nhà rao bán Phúc Âm Ki Tô Giáo (truyền
giáo), đã nhấn mạnh đến thái độ kiêu căng điển hình của thừa sai Ki Tô
như sau:
"Cái óc Tây phương của các ông thường quá bị ám ảnh bởi ý
tưởng chinh phục và chiếm hữu, cái thói quen dụ người khác vào đạo đã ăn sâu trong đầu óc
các ông cũng là một hình thức chinh phục và chiếm hữu... Rao
giảng về giáo thuyết của các ông chẳng phải là một sự hi sinh, mà là
đắm mình trong một sự xa xỉ nguy hiểm hơn mọi xa xỉ vật chất rất
nhiều. Nó nuôi dưỡng trong
tâm các ông một ảo tưởng là các ông đang làm bổn phận - rằng các ông
khôn ngoan hơn và giỏi hơn đồng loại của các ông.."
Sự phỉ báng tất cả
những gì của Á Châu được thấy rõ, ngay từ lúc đầu, trong thái độ của
những thừa sai Pháp đối với những tôn giáo ở Việt Nam, như chúng ta đã
thấy trong những thư từ liên lạc và tác phẩm của họ. [Đó
là những gì Alexandre de Rhodes đã làm và ngày nay TS Phạm Huy Thông còn
đưa nó ra như để chứng minh Công giáo là đạo tiến bộ]
...Bất kể là những sự khác biệt giữa các tôn giáo ở Việt Nam như
thế nào, chúng thật không đáng kể so với cái vực thẳm ngăn cách những
tôn giáo này với giáo hội
hiếu chiến Công giáo.. Các Vua Việt Nam coi chủ thuyết Công
giáo như là một sự đe dọa đến quyền hành của họ, và coi những người
Việt Nam theo đạo như thuộc hạng chót trong một hệ thống quyền lực tôn
giáo chặt chẽ dưới quyền những giám mục ngoại quốc. (Bị ngoại
nhân hoàn toàn thống trị đến độ giáo hội Gia Tô Việt Nam không có một
giám mục Việt Nam nào được bổ nhiệm cho tới thập niên 1930, 400 năm sau
khi những giáo sĩ thừa sai Gia Tô đầu tiên tới Việt Nam) Ở trên những giám mục ngoại quốc là
một giáo hoàng ngoại quốc ở tận La Mã xa xôi, và những tín đồ Việt Nam
này trung thành và tuân lệnh giáo hoàng thay vì hoàng đế Việt Nam.
[Ông Tổng Ngô Quang Kiệt, trong vụ Tòa Khâm Sứ, đã nghe lệnh của
Vatican và coi thường lệnh của chính quyền Việt Nam]
Những thừa sai thì hoàn toàn xa lạ với Việt Nam và với ý
tưởng hòa hợp giữa các lý tưởng tôn giáo khác nhau. Đối với dân ngoan
đạo Công giáo thời đó thì chỉ có hai quan điểm đối ngược, hoặc đúng hoặc
sai, không thể có một sự thỏa hiệp hay đối thoại nào giữa hai quan
điểm trên. Các thừa sai coi
thường tín ngưỡng và cách hành đạo địa phương, cho chúng là sai lầm...
[Đây là những gì Rhodes viết trong cuốn Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài]
Nhiều bản báo cáo thời đó mô tả sự việc các thừa sai đã mang
vào Việt Nam một số lượng lớn Âu dược chữa bệnh cho dân chúng để
"chiếm lòng họ." (Linh mục de Courtaulin, trích trong tác phẩm của
Taboulet, trg. 42). Nhưng trong những hoạt động dụ người vào
đạo, các thừa sai Công giáo đã khai thác sự sợ hãi và hi vọng của đám
dân ngu dốt và nhẹ dạ cả tin. Những kẻ tân tòng coi Ki Tô Giáo như là
một hệ thống ma thuật mới. Nước thánh Công giáo được dùng với hi vọng
có thể đuổi được quỷ ám, cứu người chết sống lại, làm cho người mù
sáng mắt trở lại v...v.. [Đây chính là sự bịp bợm phóng đại đến độ
ngu xuẩn của Rhodes khi viết về tác dụng của nước thánh].
Tin vào sự không
thể sai lầm của Công giáo, những hội viên trong Hội Truyền Giáo Hải
Ngoại đã tấn công Phật Giáo, coi Phật Giáo như là vô thần và thờ hình
tượng, và chỉ trích nặng nề Khổng giáo về tục lệ thờ cúng tổ tiên.
[Đây chính là những gì Rhodes viết trong những cuốn Phép Giảng 8
Ngày, Hành Trình Truyền Giáo, và Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài]
...Đối với những nhà lãnh đạo Việt Nam, toàn thể giáo thuyết Ki
Tô bị coi là không thực. Theo quan điểm của Nho gia thì bản chất con
người là tốt; chỉ cần được huấn luyện cho tốt để có thể sử dụng lý trí
của mình mà phân biệt giữa tốt và xấu. Con người không cần phải được
"cứu rỗi" bởi sự can thiệp của Chúa Ki Tô hay Thiên Chúa, và nếu cho rằng Chúa Ki Tô có khả
năng như vậy thì đối với giới Nho sĩ, đó cũng không khác gì một sự mê
tín.
Giáo điều Ki Tô, ngoài tính chất thô thiển và không hợp lý,
còn bị coi như là thật sự nguy hiểm, vì nó làm cho con người xa cách
với gia đình để tìm sự giải thoát cho riêng mình.
... Bằng sự đe dọa hỏa ngục và sự đày đọa đời đời, các giáo sĩ
thừa sai bắt buộc những đàn chiên Việt Nam của họ phải theo đuổi ly
rượu Thánh cho sự sống đời đời của mình trong một thế giới sau thay vì
làm những bổn phận hiếu thảo trong đời này. Những nhà cấm quyền Việt
Nam đặc biệt lo ngại về giáo điều xưng tội của Công Giáo, coi đó như là
một cách áp đặt quyền lực trên giáo dân. (Không những thế, đây
cũng là một cách lấy tin tức tình báo quân sự rất hữu hiệu. TCN).
...Như là một sự thách đố đối với thiên tài của Khổng giáo
trong việc hòa hợp các tín ngưỡng khác nhau, Công giáo đã chứng tỏ là một tôn
giáo hoàn toàn không thể tiêu hóa nổi. Trong bốn thế kỷ, Công
giáo vẫn còn như là một lực lượng chia rẽ trong xã hội Việt Nam. Để
tăng cường cái vực thẳm ý thức hệ giữa những tín đồ Công giáo và đại
khối dân tộc, những tín đồ Công giáo thường sống trong những làng mạc
riêng biệt, dưới quyền thống trị của các linh mục, y như những làng mạc
trong thời Trung Cổ ở Âu Châu cách đây 500 năm. [Linh Mục Trần
Tam Tĩnh đã gọi những làng mạc riêng biệt này là những “ốc đảo ngu
dốt”]
Về mặt văn hóa cũng vậy, những người Việt Nam tân tòng Công giáo trở thành cô lập
với nền văn hóa chủ đạo. Để phổ biến giáo lý Công giáo, các thừa
sai đã nghĩ ra một dạng chữ mới theo mẫu tự La Mã gọi là Quốc Ngữ, một
cách phiên âm tiếng Việt họ dùng để dạy những đàn chiên của họ. Họ
dịch những sách cầu nguyện hay kinh sách Công giáo khác ra loại chữ mới
này, nhưng không dịch văn chương Việt Nam. Điều này có nghĩa là những
tín đồ Công giáo Việt Nam, vì không còn học ở các trường làng do các
thầy Nho dạy, không thể đọc được tiếng Việt, gọi là chữ Nôm, hay chữ
Hán được dùng trong mọi văn kiện công cộng. Chữ Quốc Ngữ là một trong vài đóng
góp có ảnh hưởng lâu dài vào nền văn minh Việt Nam của Tây phương,
nhưng ảnh hưởng tức thời của nó là chia rẽ quốc gia và đánh thẳng vào
gốc rễ văn hóa của Việt Nam.
Đối với một quốc gia mà lý tưởng là sự hòa đồng trong cộng
đồng và lối sống theo những qui định giao thiệp giữa con người với
nhau, sự xâm nhập của Công
giáo biểu thị cho sự xáo trộn và bất hòa trong xã hội.
Ngay từ ngày đầu, những người xây dựng Công giáo ở Việt Nam
đã cố ý coi thường chính quyền Việt Nam và đã dùng đến phương cách hối
lộ và gian lận để đạt được những mục đích của họ." [2]
Đọc lại lịch sử Việt Nam trong giai đoạn Francis Garnier chiếm
thành Hà Nội và các tỉnh lân cận như Phủ Lý, Nam Định, Hải Dương v..v..
chúng ta sẽ thấy sự thực về vai trò cộng tác, tiếp tay, hỗ trợ của
giáo dân Công giáo Việt Nam cho những đoàn quân xâm lăng ngoại quốc như
thế nào, và họ đã làm những gì để tuân theo luật của Thiên Chúa.
Mark L. McLeod, viết trong cuốn The Vietnam Response to
French Intervention, 1862-1874, trg. 114-122:
"Bản chất
và mức độ hỗ trợ những đoàn quân viễn chinh Pháp của những tín đồ Gia
Tô là như thế nào?
Những thư từ liên lạc và phúc trình của Balny và Harmand, được
Garnier phái đi chinh phục nhiều tỉnh lỵ và những điểm trọng yếu trong
miền đồng bằng, cho chúng ta thấy một kiểu hỗ trợ đáng kể của những tín
đồ Công giáo bao gồm - nhưng không chỉ giới hạn ở - những nhiệm vụ
hành chánh và quân sự. Những nguồn tài liệu này cũng cho chúng ta
thấy một kiểu xoay sở lẫn nhau giữa các sĩ quan Pháp và các thừa sai
Công giáo với kết quả là những kẻ "tình nguyện" thường cũng được lợi
bằng hay hơn những sĩ quan Pháp.
... Để giúp chúng ta hiểu rõ hơn, chúng ta hãy xét tới những
hành động của Balny tại Phủ Lý và Hải Dương và của Harmand ở Nam Định,
và nhấn mạnh đến sự liên hệ giữa Bộ Truyền Giáo Công giáo và các lực
lượng quân sự Pháp. Sự phân tích những hành động này cho thấy, trong
những cuộc tấn công vào những cứ điểm của chính quyền Việt Nam, quân đội
Pháp đã nhận được một mức độ hỗ trợ rất đáng kể từ những thừa sai và
những tín đồ Công giáo Việt Nam. Hơn nữa, những phương pháp mà các
sĩ quan Pháp và những cộng tác viên Công giáo dùng tuyệt đối không
thể coi là có đạo đức cao theo những tiêu chuẩn đương thời của ngay
chính họ, vì những phái bộ truyền giáo Công giáo đã dùng sức lao động
(của tín đồ Công giáo bản xứ; TCN), tài nguyên, và tin tức
tình báo, đổi lấy hậu thuẫn của Pháp để thực hiện sự tàn sát liên miên người "lương", mạo phạm
những công trình xây dựng của Phật Giáo, thiêu hủy những làng mạc
phi-Công giáo, và cướp bóc những thành phố của nhà Vua. Sự cộng
tác với chủ nghĩa đế quốc Pháp của những tín đồ Công giáo
thường không được các sử gia nhận biết đầy đủ, nhưng đó chính là một yếu tố đáng kể góp
phần thắng lợi cho Pháp ở Bắc Kỳ." [3]
Chúng ta thấy, TS Phạm
Huy Thông đã bỏ sót những ảnh hưởng và hành động tai hại của Công giáo
Việt Nam khi ông ta
chỉ viết rằng giáo lý Công giáo nghiêm cấm tín đồ thờ các thần linh khác.
Chúng ta hãy đọc tiếp TS Phạm Huy Thông:
PHT: Ngay từ
những buổi đầu truyền giáo đến Việt Nam, nhiều giáo sĩ dù nhận ra ở xứ
sở này có nhiều điều tốt đẹp từ truyền thống gia đình đến văn hoá, xã
hội nhưng cũng chỉ ra nhiều phong tục mê tín, dị đoan. Alexandre de
Rhodes ( Đắc Lộ) đã dành hẳn chương 25 trong cuốn Histoire du Royaume
de Tunquin ( Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài) để nói về những tập tục lạc
hậu này. Ông viết: “Người Đàng Ngoài có tâm tình hiếu thảo rất đặc
biệt đối với cha mẹ đã qua đời và tiêu phí quá đáng để cúng giỗ. Vì thế
không những họ đâm ra nghèo túng mà còn làm cho họ mắc nợ nần, bởi
muốn theo tục lệ và phép xã giao nên không những phải chi dụng về cỗ
bàn mà còn về các nghi lễ khác, vừa vô ích vừa phù phiếm, nhưng theo
phép xử thế, họ không sao tự miễn cho mình được. Thí dụ, họ đua nhau
dựng nhà, sắm các dụng cụ bếp núc bằng tre nứa và giấy hoa rồi đem đi
đốt. Họ điên dại tin rằng nhờ đồ vàng mã này người quá cố được nhà đẹp,
đồ dùng tươm tất trong thế giới các người tới. Cũng điên dại như thế,
vào ngày cuối năm, họ sắm quần áo cũng làm bằng giấy hoa rồi đem đốt.
Họ kỳ khôi tưởng rằng hàng mã này sẽ hoá thành áo mới, vải đẹp để dùng
trong năm mới. Vì thế chúng tôi đã công khai công kích dị đoan và chế
diễu tập quán kỳ dị này” (2). Đọc những dòng trên, chúng ta có lẽ cũng
ngạc nhiên, vì đến tận hôm nay, không ít người “ vẫn điên dại” và chắc
là điên dại hơn vì họ sống ở thời kỳ khoa học hiện đại, có trình độ học
thức gấp nhiều lần những người dân Đàng Ngoài sống cách đây gần 400
năm, xong họ vẫn đốt và còn đốt vàng mã nhiều hơn, kỳ dị hơn từ ô tô
cho đến người mẫu, từ tiền giả đến tiền thật.
TCN: Trích dẫn
Alexandre de Rhodes trong cuốn Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài,
TS Phạm Huy Thông đã dùng kiến thức của một thừa sai Công Giáo trong thế
kỷ 17, một kiến thức không thể gọi là kiến thức, về tôn giáo và những
phong tục tập quán của Việt Nam như tôi đã chứng minh ở trên. Rhodes
cho rằng người Việt Nam đã tiêu phí quá đáng để cúng giỗ, và con chiên
Phạm Huy Thông ngày nay cũng cho rằng như vậy. Nhưng người Việt Nam có
nghĩ như vậy không. Vấn đề là người dân Việt Nam đã bao nhiêu đời
theo tục lệ cúng giỗ tổ tiên mà Công giáo độc thần cho là một hình thức
thờ phụng thần linh cho nên đã cấm đoán qua bao thế kỷ. Người Công
giáo bị cấm không cho thờ cúng tổ tiên mà chỉ được thờ Chúa của Do Thái
nên cho rằng cúng giỗ là tiêu phí quá đáng. Đối với họ, để 10% lợi tức
đóng cho nhà thờ của Chúa với hi vọng sẽ được lên thiên đường (mù),
thì không phải là tiêu phí trong khi cả mấy tỷ đô-la Giáo hội đã phải
bỏ ra để bồi thường cho các nạn nhân tình dục của các “Chúa thứ hai”
(Alter Christus). Cúng giỗ không phải là tiêu phí quá đáng vì đó là một
nếp sống trong dân gian, và cúng giỗ như thế nào tùy theo hoàn cảnh
kinh tế của người dân. Trước hết, đó là để tỏ lòng hiếu thảo, nhớ đến
những người đã quá cố. Thứ đến, những thức ăn cúng giỗ chính người
sống hưởng, vậy tiêu phí ở chỗ nào? Ngoài ra, những giỗ chính còn là
dịp để hội họp gia đình, con cháu, có thể từ phương xa, về đóng góp
cúng giỗ. Và sau cùng, trong các làng mạc còn là dịp để thể hiện lòng
tương thân tương ái của dân làng. Rhodes làm sao hiểu được những điều
này, và con chiên Phạm Huy Thông cũng không hiểu nốt cho nên mới trích
dẫn Rhodes. Thật là tội nghiệp.
Ai cũng biết là đốt vàng mã là sự phí phạm, mang tiền thật đổi
lấy tiền giả. Phật Giáo thường xuyên khuyên nên bỏ tục lệ này, và
khuyên con người nên dùng tiền vào những việc công ích hơn như là từ
thiện, bố thí, mua sách vở cho học sinh nghèo v…v…. Nhưng tục lệ này
đã ăn sâu trong tâm thức người Việt Nam, và sự phí phạm là cho cá nhân,
nếu họ có khả năng phí phạm. Ngày nay, tục lệ này phát triển trở lại
không những ở Việt Nam mà còn ở ngoại quốc, nhất là ở Mỹ. Cho nên, tôi
có một cái nhìn khác về việc đốt vàng mã. Trong thời chiến, người dân
nghèo, ăn không đủ, chẳng có ai nghĩ đến chuyện đốt vàng mã. Ngày nay,
tục lệ đốt vàng mã lại lan tràn trong dân gian, không chỉ trong các tư
nhân mà còn cả ở trong một số cơ quan, công sở, xí nghiệp. Tại sao
vậy? Vì “phú quý sinh lễ nghĩa”. Phải có tiền thật mới mua được tiền
giả. Hiện tượng đốt vàng mã phát triển mạnh chứng tỏ người dân nay có
tiền, đời sống vật chất của người dân đã lên cao, và giới làm vàng mã
cũng có công ăn việc làm, giúp cho kinh tế nước nhà. Do đó, bản thân
tôi cũng cho đốt vàng mã là phí phạm và là một tục lệ nên bỏ, vì tiền
mua vàng mã có thể dùng cho nhiều việc công ích hơn. Nhưng trong bất
cứ xã hội nào, con người thường chỉ nghĩ cho bản thân chứ số người nghĩ
đến công ích thực sự là thiểu số. Vì vậy tôi không phản đối việc đốt
vàng mã, vì ai có tiền muốn phí phạm thì cứ phí phạm, chúng ta không
thể xía vào đời tư của họ để mà công kích dị đoan và chế diễu tập
quán kỳ dị này như tên Alexandre de Rhodes. Chúng ta chỉ có thể
khuyên họ là không nên phí phạm như vậy, họ có nghe hay không là quyền
của họ. Trong xã hội, có nhiều chuyện còn phí phạm hơn nhiều về xa xỉ,
về ăn uống, về quần áo v..v… nhưng đó không phải là những tục lệ nên
chẳng ai nói tới. Nhưng bản chất sự việc thì giống nhau, đều là những
cách hành xử cá nhân. Khác nhau là ở chỗ, việc đốt vàng mã thể hiện
lòng tưởng nhớ và quan tâm đến những người đã quá cố và có tác dụng làm
an lòng người sống.
Chúng ta hãy đọc thêm một đoạn của TS Phạm Huy Thông:
PHT: Một hiện
tượng phổ biến trong đời sống của người Việt xưa là là người đàn ông có
“ năm thê bảy thiếp”. Hình như ai càng có nhiều thê thiếp càng danh
giá, quyền quý: Trai chính chuyên thường dăm bảy vợ; Gái chính chuyên
chỉ có một chồng. Nhưng chính lối sống đó đã đẩy bao phụ nữ vào cảnh bị
ngược đãi...
Giáo lý Công giáo quy định hôn nhân một vợ một chồng. Đây là
quan niệm tiến bộ ngay cả với thế giới văn minh ngày nay…
Nhiều hương ước của các làng Công giáo cổ trước đây đều có
quy định khá nghiêm ngặt về hôn nhân chung thuỷ. Hương ước của làng
Vĩnh Trị ghi trong điều 103: “ Làng toàn tòng Công giáo chỉ được phép
nhất phu nhất phụ thôi. Vậy ai còn vợ cả mà lấy vợ hai thì làng không
ăn ngồi với nữa để khỏi làm gương xấu cho kẻ khác”. Hương ước làng Nam
Am, điều 67 viết: “Lại dân toàn tòng, theo luật tôn giáo, không được
phép lấy vợ lẽ, ai phạm đến cũng như tội thông dâm, nếu có con thì đứa
con ấy cũng như ngoại tình. Con ngoại tình, con vợ lẽ, là con giai khi
đến tuổi nhập bạ thì phải nộp phạt cho làng 5đ.000”.
TCN: Chế độ đa
thê của Việt Nam khi xưa (ngày nay người ta không gọi là vợ lẽ mà là
“bồ nhí”) là phù hợp với hoàn cảnh xã hội. Chế độ này chỉ có trong lớp
người có tiền, giàu có như phú ông, hương chức v..v.. chứ nông dân
nghèo khó làm gì có tiền để cưới vợ lẽ, khoan nói đến năm thê bảy
thiếp. Trong các ốc đảo Công giáo ở Việt Nam, chuyện có khả năng để có
năm thê bảy thiếp là chuyện không tưởng, chẳng cần phải cấm. Mặt
khác, trong một xã hội mà trai thiếu gái thừa, nhất là lại đối với các
con gái nhà nghèo thì làm thê làm thiếp là một cách để giải quyết vấn
đề sinh kế hợp pháp thay vì phải đi làm những nghề bất đắc dĩ mất nhân
phẩm như gái lầu xanh để kiếm ăn. Đây là một vấn đề xã hội không liên
quan gì đến vấn đề đạo đức tôn giáo của Công giáo, nếu Công giáo có cái
gọi là đạo đức. Tôi biết là Công giáo có quan niệm “một vợ một chồng”
. Tôi cũng biết là giáo luật Công giáo cấm ly dị. Tại sao? Vì vợ
chồng là do Chúa kết hợp qua cái gọi là “bí tích” (sacrament) hôn phối,
mà “bí tích” là Chúa đặt ra, cho nên không thể ly dị. Nhưng quan niệm
một vợ một chồng kèm theo với giáo luật cấm ly dị của Công giáo chẳng
phải là một quan niệm tiến bộ, mà là sự tổng hợp của mê tín, vì tin
rằng chính Chúa đã đặt ra “bí tích” hôn phối, và sự ngu xuẩn của Giáo
hội vì giáo hội chỉ quan tâm đến luật lệ chứ không quan tâm đến thực
trạng xã hội trong đó có những cặp vợ chồng không hợp với nhau, hoặc
người vợ bị hành hạ, bạc đãi, coi như nô lệ v..v…bị bắt buộc sống với
nhau thì cũng chẳng khác gì sống trong địa ngục. Thực tế là, trong thế
giới Âu Mỹ, thế giới của Ki Tô Giáo, tỷ lệ những cặp vợ chồng do Chúa
kết hợp rồi ly dị lên tới trên dưới 50%. TS Phạm Huy Thông cũng nói
đến tệ nạn ly hôn ở Việt Nam. Nhưng TS có biết là mỗi năm có bao nhiêu
tín đồ Công giáo xin hủy bỏ hôn ước [annulment] không? Giáo hội cấm
ly dị nhưng có biện pháp hủy bỏ hôn ước, gọi là “annulement”. Thưa với
TS, mỗi năm trung bình có trên 50000 (năm mươi ngàn) cặp vợ chồng Công
giáo được tòa xử của Công giáo (Catholic trials) cho phép hủy bỏ hôn
ước. Theo lời giải thích lắt léo của Giáo hội thì Annulment là một
tuyên bố của tòa xử Công giáo rằng hôn ước giữa hai người đã được Chúa kết hợp trong “bí tích”
(sacrament) hôn phối trở thành vô hiệu (void) vì chưa từng xảy ra chứ
không phải là ly dị. [Annulment means that in the view of canon
lawyers no marriage has taken
place: it is not a
divorce, it is a statement that the marriage, as a sacrament,
was null and void] Đó là giáo luật “một vợ một chồng” rất tiến bộ của
Công giáo đấy.
TS Phạm Huy Thông đưa ra Hương ước của làng Vĩnh Trị
cũng như Hương ước làng Nam Am, với những luật lệ riêng,
nghiêm cấm những chuyện hợp pháp ở Việt Nam, đã chứng tỏ những lời
Helen B. Lamb viết ở trên là đúng:
Trong bốn thế kỷ, Công giáo vẫn còn như là một lực lượng chia
rẽ trong xã hội Việt Nam. Để tăng cường cái vực thẳm ý thức hệ giữa
những tín đồ Công giáo và đại khối dân tộc, những tín đồ Công giáo
thường sống trong những làng mạc riêng biệt, dưới quyền thống trị của
các linh mục, y như những làng mạc trong thời Trung Cổ ở Âu Châu cách
đây 500 năm. [Linh Mục Trần Tam Tĩnh đã gọi những làng mạc riêng
biệt này là những “ốc đảo ngu dốt”] Vì ngu dốt và cuồng tín, Công giáo
đã không biết đến những tình trạng xã hội trong đất nước Việt Nam, cho
nên đã ngăn cấm giáo dân những điều không đáng cấm, những điều mà đối
với người dân Việt Nam đều là hợp Pháp. Đó không phải là Công giáo
tiến bộ mà là mù quáng tuân theo những luật lệ của Giáo hội, nhiều khi
trái ngược với truyền thống xã hội của Việt Nam. Đọc lịch sử các Giáo
hoàng Công giáo, chúng ta thấy không thiếu những vị, không phải là chỉ
có năm thê bảy thiếp, mà còn hoang dâm vô độ, loạn luân, ngủ cả với
mẹ và con, ngoài những chuyện độc ác như giết người v…v…. Xin đọc
trong:
http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN20.php, bài “Đây!! Những
“Đức Thánh Cha”, Đại Diện Của Chúa Trên Trần Và Là Chủa Chăn Của Giáo
Hội Công Giáo “Thiên Khải, Duy Nhất, Thánh Thiện, Tông Truyền”.
Sau đây là một đoạn điển hình trong đó:
Trong thời đại này, không phải là
Thánh Linh tuyển chọn giáo hoàng mà là, theo Hồng y Baronius, những cô
gái điếm (scortas). Đó là “luật lệ của những cô gái điếm hạng
sang” (rule of the courtesans), đôi khi còn được gọi là “chế
độ điếm trị” (Pornocracy), hay là triều đại của các cô gái
điếm (reign of the whores). Trong số điếm này có một người mà
Baronius gọi là “con điếm vô liêm sỉ”, Theodora, và đứa con gái vô
liêm sỉ không kém là Marozia. Cả
hai mẹ con đều có con với giáo hoàng Sergius III, và cả hai đều đưa
những đứa con hoang của mình lên ngai giáo hoàng - John XI và John XII.
John XI bị cầm tù và John XII
đã “biến dinh Lateran (nơi giáo hoàng ở, trong Vatican.
TCN) thành một ổ điếm”.
Không có một tội ác nào mà
John XII không làm - giết người, khai gian, thông dâm, loạn luân với
hai em, đâm chém và thiến kẻ thù v..v.. Hắn ta chết trong tay của một
người chồng bị xúc phạm (vì bị bắt quả tang đang thông dâm
với vợ người này.)
Tôi chẳng muốn phê bình tiếp TS Phạm Huy Thông, vì những điều ông
ta viết chẳng có gì đặc biệt để chứng tỏ Công giáo là đạo tiến bộ, văn
minh. Nhưng có một câu tôi không thể bỏ qua.
GS Phạm Huy Thông viết: Đạo Công giáo nghiêm cấm các hành vi mê tín, dị đoan.
Vậy tôi xin có vài vấn đề đặt với ông TS: Tại sao Công giáo không
nghiêm cấm những hành vi cực kỳ mê tín như sau:
1) “Các tín đồ Công Giáo, khi ăn một cái bánh nhỏ mà họ thường được
dạy là “bánh thánh”, tin rằng mình đã thực sự ăn thịt và uống máu Chúa
Giê-su. Như vậy có phải là một hành vi mê tín, dị đoan không? Họ tin
rằng một mẩu bánh làm bột thường, sau khi được ông linh mục hoa tay
làm phép, lẩm bẩm vài câu bằng tiếng La-Tinh, mẩu bánh đó đã được thánh
hóa và trở thành đích thực là thịt và máu Chúa của họ. Đó là niềm tin
dựa vào “trí tuệ” hay chỉ là niềm tin mù quáng, nghe theo những lời
lừa bịp của giới chăn chiên. Đối với người ngoại đạo chúng tôi, đó là
những hành vi mê tín, dị đoan hơn bất cứ hành vi mê tín dị đoan nào
khác.
2) Người Công giáo hàng ngày làm dấu cái mà họ gọi là “thánh giá”,
tin rằng đó là biểu tượng “cứu rỗi”, nhưng không hề biết là cây gỗ hình
chữ thập dùng để đóng đinh Chúa Giê-su chỉ tượng trưng cho một loại
hình phạt tra tấn và hành quyết man rợ nhất của La Mã khi xưa. Như vậy
có phải là mê tín dị đoan không? Nếu trong lịch sử loài người, chỉ có
một mình Giê-su bị đóng đinh trên cái giá chữ thập thì may ra, may ra
thôi, còn có người có thể tin đó là một biểu tượng “cứu rỗi” nếu họ
nhắm mắt tin theo nền thần học của Ki Tô Giáo. Những Tân Ước viết rất
rõ là Giê-su bị đóng đinh trên giá hình chữ thập cùng lượt với hai tên
ăn trộm ở hai bên. Ngoài ra trong lịch sử còn có không biết bao nhiêu
người cũng đã bị hành quyết như vậy. Vậy cái giá nào gọi là “thánh
giá”, tại sao chỉ tôn sùng một cái giá mà Giê-su bị đóng đinh trên đó
trong khi thực sự chẳng ai biết cái giá đó là cái nào, có gì khác biệt
với các giá khác không. Và cái giá đó thánh ở chỗ nào.
3) Người Công giáo mang những đứa con sơ sinh chưa biết gì ngoài
việc bú, ị, ngủ, tè và khóc, đến nhà thờ cho các ông linh mục “rửa
tội”, cái tội nó không hề có. Nếu bảo đó là tội tổ tông thì Giáo Hoàng
John Paul II đã dứt khoát bác bỏ khi Ngài công nhận thuyết Big Bang về
nguồn gốc vũ trụ, và thuyết Tiến Hóa về nguồn gốc con người. Hơn nữa,
ông linh mục có thể trên người đầy tội lỗi như trên 5000 linh mục đã
can tội hiếp dâm các “sơ” trên 23 quốc gia và ấu dâm với trên 10000 trẻ
em. Như Linh mục Nguyễn Hữu Trọng đã viết: Ở Việt Nam có những ông
Linh mục không lo truyền đạo mà chỉ lo truyền giống. Mang con nít đi
rửa tội có phải là mê tín hay không khi mà thuyết sáng tạo đã sụp đổ và
tội tổ tông truyền xuống từ Adam và Eve chỉ là những huyền thoại cổ
xưa của dân tộc Do Thái. Không những thế, tất cả những “bí tích” mà
Giáo hội Công giáo đưa ra đều là mê tín cả, những bí tích mà John
Walters đã liệt vào hạng “mê tín tàn bạo” (sadistic superstition) và
mục đích chỉ là tạo quyền lực cho giới chăn chiên.
4) Người Công giáo tin rằng Chúa của họ được sinh ra từ một nữ
trinh và bà ta còn trinh vĩnh viễn [perpetual virginity] tuy rằng sau
Giê-su bà ta đã sinh ra thêm ít nhất là 6 người con nữa. Người Công
giáo cũng còn tin là sau khi bị đóng đinh, chết và táng xác, ông ta lại
sống lại và sau 40 ngày, tự nhiên bay lên trời mà không có sức đẩy của
một hỏa tiễn đeo trên lưng. Như vậy có phải là mê tín hay không, hay
đó là những niềm tin dựa vào sự hiểu biết “trí tuệ” điều mình tin? Tôi
xin nhắc lại định nghĩa về mê tín mà TS viết ở trên: “ Mê tín: Tin
một cách mù quáng vào thần thánh, ma quỷ, số mệnh và những điều huyền
hoặc”. TS nói Công giáo là tôn giáo độc thần, vậy thần của Công
giáo có thuộc loại thần thánh không? Trong Công giáo cũng còn không
biết là bao nhiêu thánh mà tín đồ thường tin, có phải không?
Vậy Công giáo có mê tín dị đoan hay không? Chúng ta hãy đọc nhận
định của Leon Tolstoy trong vô số các nhận định khác:
Leo Tolstoy :Tôi
tin chắc rằng giáo lý của giáo hội Công Giáo là một sự nói láo xảo
quyệt và xấu xa theo lý thuyết, và là sự pha trộn của sự mê tín thô
thiển nhất và trò ma thuật về phương diện thực hành (I am
convinced that the teaching of the Catholic church is in theory a
crafty and evil lie, and in practice a concoction of gross superstition
and witchcraft.) .
Xin TS Phạm Huy Thông đừng có nói là những niềm tin tôn giáo
thuộc loại đặc biệt, không thể lý giải, khác với những niềm tin trong
dân gian. Người Công giáo muốn tin cái gì là quyền của họ, nhưng khi
họ lên tiếng cho rằng những gì không hợp với niềm tin của họ là mê tín
dị đoan, trong khi đạo của họ thuộc loại cực kỳ mê tín và dị đoan thì
đúng là họ không hề theo lời dạy của Chúa của họ: "Hãy lấy cây sà
trong mắt ngươi ra trước rồi hãy lấy cây kim trong mắt người khác ra
sau. Đừng phê phán ai để ngươi cũng không bị phê phán." Nhất là
khi sự mê tín của Công giáo đã gây ra bao nhiêu tác hại cho nhân loại
như chính Giáo hoàng John Paul II và bộ tham mưu của ông ta đã phải
xưng thú cùng thế giới 7 núi tội ác của Công giáo đối với nhân loại tại
Vatican ngày 12 tháng 3 năm 2000, trong khi sự mê tín mà không hẳn là
mê tín về những tục lệ như cúng giỗ, đốt vàng mã, cúng cô hồn, xem ngày
lành tháng tốt, hay xem đất để mai táng [thuộc khoa phong thủy mà nay
người Tây phương cũng tin] chẳng gây hại đến bất cứ ai. Đó là sự khác
biệt giữa hai loại mê tín.
Để kết luận, tôi có vài lời với các trí thức Công giáo như TS Phạm
Huy Thông. Ngày nay tất cả những sự thật về bản chất, giáo lý, ảnh
hưởng v..v… của Công giáo đã được phơi bày cho quần chúng. Quý vị
không thể che dấu được bất cứ điều gì. Quý vị có thể nói tất cả những
gì tốt đẹp về Công giáo trong các nhà thờ hay trong các ốc đảo Công
giáo của quý vị với nhau. Nhưng một khi quý vị viết trên những diễn
đàn truyền thông mà mọi người có thể đọc thì xin quý vị viết cho đúng
và lương thiện hơn một chút, nhất là đừng có đụng đến những vấn đề mà
quý vị không hiểu rõ về truyền thống dân tộc cũng như về chính tôn giáo
của quý vị.. Trong thời đại này quý vị không nên đề cao đánh bóng tôn
giáo của quý vị trên các diễn đàn công cộng, hành xử như là các nô lệ
tâm linh, bởi vì tôn giáo của quý vị chẳng có gì đáng để tôn vinh, đề
cao, đánh bóng. Tôi viết đây là viết về Công giáo nói chung chứ không
viết về cá nhân Công giáo mà chắc chắn có nhiều người rất lương thiện
và đạo đức không thua kém gì người “lương”. Giáo lý Công giáo thì
thuộc loại huyễn hoặc để mê hoặc quần chúng. Lịch sử Công giáo là một
lịch sử ô nhục đẫm máu. Đạo đức của các bậc chăn chiên, từ giáo hoàng
trở xuống, chẳng có gì đáng ca ngợi. Lịch sử Công giáo Việt Nam cũng
chẳng có gì đáng khen ngợi mà trái lại như trong những tài liệu của
Helen B. Lamb và McLeod đã trích dẫn ở trên. Quý vị không có cách nào
có thể viết lại lịch sử như quý vị đãng từng làm. Hiện nay, vụ giới
chăn chiên loạn dâm và ấu dâm, với sự bao che của chính Giáo hoàng
Benedict XVI và một số Hồng Y, Tổng Giám Mục ở các giáo phận v..v..
đang nổ ra như pháo trên khắp thế giới. Người ta còn đòi Giáo hoàng
Benedict XVI phải từ chức vì đã che dấu và bao bọc cho những linh mục
loạn dâm. Bản tin tổng hợp trên sachhiem.net ngày 26 tháng 3, 2010 có
đoạn như sau:
Qua điểm tin từ những tờ báo nổi tiếng tại : Anh
quốc, Pháp quốc, Ý, và Hoa Kỳ ...nhà bình luận có tên là Richart de la
Cure kết luận như sau :
..."Đạo công giáo đang đi vào ngỏ cụt, và hao tốn, vị giáo hoàng
hiện nay bất lực kèm theo lo lắng nay mai sẻ bị thải hồi, và nhất là
thế giới nguyền rủa, căm thù ...mà từ trước đến nay Vatican thường
tuyên bố .." đạo công giáo là một tôn giáo bác ái và Yêu thương hay
thường gọi là công giáo hoàn cầu "...nay đang trên con đường lụi bại và
nhục nhả.
Do đó, quý vị hãy nhìn lại chính tôn giáo của quý vị, về nội dung
cuốn Kinh Thánh, về lịch sử của Giáo hội, về đạo đức của các bậc chăn
chiên, về Vatican, về các Giáo hoàng v…v… và hãy dè dặt khi quý vị muốn
đề cao, đánh bóng Công giáo. Trong thời đại này, tôn giáo dính liền
với các vấn đề xã hội và được coi như là một bộ phận của xã hội, không
thể đứng ngoài hay đứng trên xã hội. Không ai có thể viện lẽ tự do tôn
giáo hay tự do tín ngưỡng để có thể có những hành động vô trí đứng
ngoài xã hội hay đứng trên xã hội. Cho nên đừng bao giờ quý vị có quan
niệm tôn giáo là lãnh vực bất khả xâm phạm vì đó là tự do tôn giáo hay
tự do tín ngưỡng.
[1]. The God of the Old Testament is arguably the
most unpleasant character in all fiction: jealous and proud of it; a
petty, unjust, unforgiving control-freak; a vindictive, bloodthirsty
ethnic cleanser; a misogynistic, homophobic, racist, infanticidal,
genocidal, filicidal, pestilential, megalomaniacal, sadomasochistic,
capriciously malevolent bully.
[2]. Franco-Vietnamese relations from the 17th century on followed
the classic pattern of Western penetration of Asia. First came the
missionaries and traders. In time, diplomats arrived to intercede on
behalf of both and, in the end, soldiers marched in to impose foreign
rule - for the subject people's own good, of course.
A country's chief motive in acquiring colonies and spheres of
influence would seem to be acquisition - to get something, be it
power, prestige, wealth, or plunder...In the French case the chief
emphasis was on religion. As the torchbearers of Catholicism, the
French were engaged in a religious crusade to give the people of
Vietnam that most priceless of gifts, the opportunity to achieve
immortality. Only when France became more secular in the 19th century
did it place emphasis on its "civilizing mission" - in countries justly
proud of their ancient civilization.
...However unwelcome the traders were, Western missionaries were even
more suspect. After 1645, when Alexandre de Rhodes was first
imprisoned and then expelled, missionaries had to disguise themselves
as traders, according to English merchants who came to Vietnam to open
up trade channels.
...A modern Eastern philosopher, in attempting to explain Asia's
antagonism toward Christian evangelists, stressed the arrogance of the
typical Christian missionary:
"You Western mind is too much obsessed with the idea of conquest
and possession, you inveterate habit of proselytism is another form of
it.. Preaching your doctrine is no sacrifice at all - it is indulging
in a luxury far more dangerous than all luxuries of material living.
It breeds an illusion in your mind that you are doing your duty - that
you are wiser and better than your fellow-beings..."
A denigration of everything Asian is implicit in the attitudes of
early French missionaries toward the religions they found in Vietnam,
as can be seen in their correspondence and writings.
...Whatever the difference between Vietnam's various religions, they
were minor compared with the gulf separating them from the militant
Catholic Church.. Vietnamese emperors regarded Catholicism as a threat
to their authority and the local Vietnamese converts as the bottom rung
of a tight religious hierarchy under foreign bishops. (So completely
dominated by foreigners was the Vietnamese Catholic Church that there
were no Vietnamese bishops appointed until the 1930s, almost 400 years
after the first Catholic missionaries arrived in Vietnam.) Above the
foreign bishops was the foreign pope in far-off Rome, and they owned
their loyalty and obedience to him rather than to the Vietnamese
emperor.
The missionaries were totally alien to Vietnam and to the very
idea of mutual accomodation between different religious viewpoints. To
the Catholic faithful of this period there was truth and error, with
no possibility of compromise or "dialogue" between the two.
Missionaries looked down on local beliefs and practices, calling them
false.
...Early reports describe how a large quantity of Western medicines
was brought to Vietnam so that the missionaries could administer them
"in order to win the hearts of these peoples" (Father de Courtaulin,
quoted in Taboulet, p.42). But in their proselytizing activities many
Catholic missionaries exploited the fears and hopes of the ignorant and
the credulous. Christianity was regarded by those who adopted it as a
new system of magic. Catholic holy water was used, hopefully, to
exorcise devils, raise the dead, and restore sight to the blind...
True to their belief in Catholic infallibility, members of the
Society of Foreign Mission attacked Buddhism as both atheistic and
idolatrous and excoriated Confucianism because of its rites of ancestor
worship.
...To Vietnam's rulers, the entire Christian doctrine was suspect.
In the Confucian view, man is essentially good; all he needs is good
training and the use of his reasoning powers to ascertain the
difference between good and evil. He does not have to be "saved" by
Christ's intercession with God, and the supposition that he did, struck
the educated Confucian as just so much superstitious.
Besides being considered crude and implausible, Christian dogma
was viewed as positively dangerous, since it alineated a person from
his family by emphasizing individual salvation.
The missionaries enjoined their Vietnamese flocks, under the
threat of hell fire and damnation, to pursue the Holy Grail of personal
immortality in the next world instead of fulfilling the duties of
filial piety in this one. The Vietnamese authorities were particularly
alarmed over the Catholic confessional as a means of exercising
power over people.
...As if challenging the Confucian genius for merging and tempering
alien creeds, Catholic proved to be completely indigestible. For four
centuries the Catholic faith has remained a divisive force in the
society. Reinforcing the ideological gulf between Vietnamese Catholics
and the rest of the population, Christian converts have tended to live
apart in separate villages dominated by their priests, much as the
villages of medieval Europe were dominated five hundred years ago.
In a cultural sense, too, Vietnamese converts to Catholicism
became isolated from the mainstream. In order to dissiminate Christian
teachings in Vietnam, the missionaries worked out a new form of
Romanized script called Quoc Ngu, a phonetic rendering of Vietnamese
which they taught their flocks. They translated prayer books and
religious tracts into this new script, but no Vietnamese literature.
This meant that Vietnamese Catholics, who no longer attended village
schools run by Confucian scholars, could read neither the Vietnamese
script, called "Nom", nor the Chinese characters used for all public
documents. The Romanized script was one of the few lasting Western
contributions to Vietnamese civilization, but its immediate effect was
to divide the nation and strike at the roots of Vietnamese culture.
For a nation whose ideal was a harmonious community living
according to well - defined human relationships, this Catholic
intrusion represented disorder and dissension..
From the start the Church fathers in Vietnam had been willing to
defy Vietnamese authority and resorted to bribery and fraud to gain
their ends.
[3]. What was the nature and extent of the assistance that the
Catholics brought to the French expedition?
The correspondence and reports of Balny and Harmand, who were
dispatched by Garnier to obtain the submission of many of the
provincial citadels and strongpoints of the delta, reveal pattern of
significant Catholic assistance that included - but not limited to -
formal administrative and military duty. These sources further reveal a
pattern of mutual manipulation by French officers and Catholic
missionaries in which the "volunteers" often had as much or more to
gain from the relationship as did the French officers.
...It is useful to consider Balny's actions at Phu Ly and Hai-duong
and Harmand's at Nam-dinh with an emphasis on the relationship between
Catholic Missions and the French forces. The analysis reveals that the
French were far from alone in their attacks on the loci of Vietnamese
authority because the invaders received a significant level of support
from the missionaries and the Vietnamese Catholics. Moreover, the
methods of the French officers and their Catholic collaborators could
hardly be considered as evidence of a superior morality even by their
own contemporary standards, for the Catholic Missions exchanged labor,
resources, and information in return for French assistance in
perpetuating summary executions, desecreations of Buddhist religious
edifices, burning of non-Catholic villages, and pillaging of imperial
citadels. This Catholic collaboration with French imperialism has not
been adequately recognized by historians, but it was a significant
contributing factor to the French success in Tonkin.