Phần Một
  
  
 
 
 
 
|  
Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Bao  
Sư  
Hiền Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Bộc  
Đại  
Phàm Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Cừu  
Bội  
Khanh  
(1-2) Cư  
Sĩ  
Cao  
Thiệu  
Lân  
(1-2)  
Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Châu  
Trí  
Mậu  
(1-3)  
 | 
Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Bao  
Sư  
Hiền 
  
  
  
Hỏa  
hoạn  
ở  
Ôn  
Châu  
nghe  
qua  
thê  
thảm!  
Tai  
trời  
nạn  
nước  
thật  
không  
biết  
đâu  
là  
cùng!  
Cảnh  
khổ  
ấy  
đủ  
làm  
bằng  
chứng  
cho  
lời  
kệ:  
'Ba  
cõi  
không  
an,  
dường  
như  
nhà  
lửa'  
trong  
Kinh  
Pháp  
Hoa,  
và  
cũng  
là  
một  
duyên  
nhắc  
nhở  
rất  
thiết  
cho  
sự  
tín,  
nguyện,  
niệm  
Phật  
cầu  
sanh  
về  
Cực  
Lạc.
  
Niệm  
Phật  
chẳng  
quy  
nhất,  
do  
bởi  
không  
tha  
thiết  
đối  
với  
việc  
sống  
chết  
luân  
hồi.  
Nếu  
tưởng  
mình  
bị  
nước  
cuốn  
lửa  
thiêu  
không  
ai  
cứu  
vớt,  
hoặc  
đang  
ở  
vào  
giờ  
phút  
lâm  
chung  
sắp  
đọa  
địa  
ngục,  
thì  
tâm  
tự  
quy  
nhất,  
chẳng  
cần  
phải  
tìm  
phương  
pháp  
chi  
nhiệm  
mầu.  
Vì  
thế,  
trong  
kinh  
thường  
nói:  
'Nên  
nghĩ  
sự  
khổ  
nơi  
địa  
ngục,  
phát  
lòng  
Bồ  
Đề.'  
Đây  
là  
lời  
chỉ  
dạy  
rất  
thiết  
yếu  
của  
đấng  
đại  
giác  
Thế  
Tôn,  
tiếc  
vì  
người  
đời  
không  
chịu  
thật  
tâm  
tưởng  
nghĩ  
đến.  
Sự  
khổ  
nơi  
địa  
ngục  
sánh  
với  
thảm  
họa  
nước  
lửa,  
còn  
gấp  
không  
lường,  
không  
ngằn  
lần  
đau  
đớn  
hơn!  
Tưởng  
đến  
lửa  
thiêu  
nước  
cuốn  
thì  
sợ  
hãi,  
nghĩ  
đến  
địa  
ngục  
lại  
thờ  
ơ  
đó  
là  
người  
trí  
lực  
kém  
tối  
không  
thể  
quan  
sát  
rõ  
ràng  
sự  
khổ.  
Giả  
sử  
được  
một  
phen  
tận  
mắt  
trông  
thấy  
cảnh  
ấy,  
chắc  
bất  
giác  
lông  
tóc  
dựng  
đứng,  
xương  
lóng  
đều  
rung,  
không  
tự  
kiềm  
chế  
được.
 
 
 
Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Bộc  
Đại  
Phàm  
 
Từ  
xa  
đón  
bức  
văn  
chương,  
riêng  
lòng  
không  
khỏi  
hổ  
thẹn!  
Ấn  
Quang  
từ  
nhỏ  
thiếu  
học,  
nên  
kiến  
thức  
mù  
mờ,  
bấy  
lâu  
nổi  
trôi  
đất  
khách,  
chỉ  
ăn  
gởi  
ở  
Phổ  
Đà.  
Hôm  
nay  
không  
ngờ  
được  
các  
hạ,  
một  
bậc  
hiểu  
sâu  
tâm  
tông  
Nho,  
Phật,  
từng  
tham  
vấn  
các  
phương  
tri  
thức,  
học  
hạnh  
siêu  
quần  
chẳng  
xem  
là  
quê  
mùa  
để  
lời  
hỏi  
đến,  
lại  
quá  
vì  
khen  
ngợi,  
khiến  
cho  
người  
bối  
rối  
không  
an.  
Thầm  
nghĩ  
các  
hạ  
học  
vấn  
rộng  
rãi,  
thấy  
hiểu  
cao  
xa,  
đâu  
có  
lẽ  
còn  
hoài  
nghi  
với  
mấy  
điều  
tầm  
thường  
như  
thế,  
chắc  
là  
không  
ngoài  
bản  
ý  
muốn  
làm  
gương  
mẫu  
để  
dẫn  
phát  
cho  
kẻ  
đồng  
tu  
đó  
thôi.  
Tuy  
nhiên  
các  
hạ  
đã  
lấy  
biết  
làm  
không  
biết,  
tôi  
cũng  
chẳng  
ngại  
gì  
lấy  
không  
biết  
làm  
biết,  
xin  
tùy  
lời  
giải  
đáp,  
đâu  
dám  
bắt  
chước  
ông  
quan  
già  
phê  
án,  
mà  
chính  
là  
học  
trò  
dâng  
nạp  
vở  
thi.  
Vậy  
những  
lời  
bày  
tỏ  
sau  
đây,  
nếu  
có  
sai  
lầm,  
xin  
nhờ  
phủ  
chính.
  
1.  
Niệm  
Phật  
tuy  
quí  
tâm  
niệm,  
nhưng  
cũng  
không  
nên  
bỏ  
sự  
đọc  
tụng  
ra  
tiếng,  
vì  
thân,  
miệng,  
ý  
giúp  
đỡ  
lẫn  
nhau.  
Dù  
rằng  
tâm  
có  
thể  
nhớ  
nghĩ,  
song  
nếu  
thân  
không  
lễ  
kính,  
miệng  
chẳng  
trì  
tụng,  
thì  
cũng  
khó  
được  
lợi  
ích.  
Như  
người  
đời  
khi  
khiêng  
đồ  
vật  
nặng  
còn  
phải  
dùng  
tiếng  
giúp  
sức,  
huống  
là  
việc  
muốn  
nhiếp  
tâm  
để  
chứng  
Tam  
Muội  
hay  
sao?  
Cho  
nên  
Kinh  
Đại  
Tập  
nói:  
'Niệm  
lớn  
thấy  
Phật  
lớn,  
niệm  
nhỏ  
thấy  
Phật  
nhỏ.'  
Cổ  
đức  
cũng  
bảo:  
'Niệm  
lớn  
tiếng  
thì  
thấy  
thân  
Phật  
cao  
lớn,  
niệm  
nhỏ  
tiếng  
thì  
thấy  
thân  
Phật  
bé  
nhỏ.'  
Với  
hạng  
phàm  
phu,  
tâm  
thường  
hôn  
trầm,  
tán  
loạn,  
nếu  
không  
nhờ  
sức  
thân  
lễ  
miệng  
tụng,  
tất  
khó  
được  
nhứt  
tâm.
  
2.  
Chỗ  
chân  
lý  
thực  
tế  
mới  
không  
còn  
sanh  
diệt,  
ngoài  
ra,  
trong  
Phật  
sự  
có  
pháp  
nào  
chẳng  
phải  
là  
sanh  
diệt?  
Bậc  
Đẳng  
Giác  
Bồ  
Tát  
phá  
bốn  
mươi  
mốt  
phẩm  
vô  
minh,  
chứng  
bốn  
mươi  
mốt  
phần  
bí  
tạng  
cũng  
không  
ngoài  
sự  
lấy,  
bỏ,  
sanh,  
diệt,  
huống  
nữa  
là  
việc  
niệm  
Phật  
đối  
với  
phàm  
phu  
ư?  
Nhưng  
sanh  
diệt  
tuy  
là  
cội  
sanh  
tử,  
mà  
cũng  
là  
gốc  
Bồ  
Đề,  
có  
sanh  
diệt  
hay  
không,  
chỉ  
do  
nơi  
người  
mà  
thôi.  
Nhiếp  
cả  
sáu  
căn,  
nối  
liền  
tịnh  
niệm,  
chính  
là  
đem  
sự  
sanh  
diệt  
bỏ  
giác  
hiệp  
trần,  
đổi  
thành  
sự  
sanh  
diệt  
bỏ  
trần  
hiệp  
giác,  
để  
kỳ  
chứng  
được  
Phật  
tánh  
chơn  
như  
không  
sanh  
diệt  
vậy.
  
3.  
'Niệm  
niệm  
*  
Tịnh  
Độ  
mới  
được  
vãng  
sanh'  
là  
thuộc  
về  
thân  
phận  
của  
bậc  
vãng  
sanh  
thượng  
phẩm.  
Nếu  
chấp  
định  
nghĩa  
này  
tự  
cầu  
thượng  
phẩm  
thì  
còn  
chi  
hay  
hơn,  
bằng  
chấp  
định  
để  
dạy  
hạng  
căn  
cơ  
trung,  
hạ,  
tất  
cả  
sẽ  
làm  
trở  
ngại  
sự  
thăng  
tấn  
của  
người  
chẳng  
ít.  
Tại  
sao  
thế?  
Vì  
lẽ  
họ  
cho  
pháp  
này  
quá  
cao,  
rồi  
cam  
phận  
thấp  
kém,  
không  
chịu  
tu  
trì.  
Lại,  
phép  
niệm  
Phật  
tuy  
thuộc  
ý  
thức,  
nhưng  
cũng  
đủ  
cả  
các  
thức,  
trong  
kinh  
văn  
há  
chẳng  
nói:  
'nhiếp  
cả  
sáu  
căn'  
đó  
ư?  
Sáu  
căn  
đã  
nhiếp  
thì  
sáu  
thức  
để  
làm  
gì?  
Tức  
như  
chuyển  
câu  
niệm  
Phật  
vào  
hàm  
tàng  
thức  
cũng  
không  
ngoài  
công  
dụng  
của  
sáu  
thức.
  
4.  
Đoạn  
luận  
vấn  
về  
mục  
'Niệm  
Phật  
tương  
tục,  
dao  
chém  
chẳng  
đứt'  
vẫn  
không  
còn  
ngờ;  
nhưng  
vì  
các  
hạ  
chưa  
phân  
biệt  
giới  
hạn  
của  
Thiền  
Tông,  
Tịnh  
Độ,  
và  
tự  
lực,  
tha  
lực,  
nên  
thành  
một  
khối  
hoài  
nghi.  
Pháp  
môn  
Niệm  
Phật  
là  
nương  
nhờ  
sức  
Phật  
ra  
ba  
cõi,  
sanh  
về  
Tịnh  
Độ,  
nay  
đã  
chẳng  
phát  
nguyện  
tất  
cũng  
không  
có  
lòng  
tin.  
Nếu  
không  
tín  
nguyện,  
chỉ  
niệm  
danh  
hiệu  
Phật,  
vẫn  
thuộc  
về  
tự  
lực,  
và  
b*i  
thiếu  
tín  
nguyện  
nên  
không  
thể  
thông  
cảm  
với  
sức  
hoằng  
thệ  
của  
đức  
A  
Di  
Đà.  
Thảng  
như  
trừ  
được  
phiền  
não  
kiến,  
tư,  
còn  
có  
thể  
vãng  
sanh,  
nếu  
chưa  
trừ,  
hoặc  
trừ  
chưa  
hết,  
thì  
gốc  
nghiệp  
vẫn  
còn  
và  
phải  
bị  
luân  
hồi.  
Về  
điều  
này  
ông  
Ngũ  
Tổ  
Giới,  
Thảo  
Đường  
Thanh  
là  
những  
bằng  
chứng  
xác  
thật.  
Phải  
biết,  
nếu  
bỏ  
tín  
nguyện  
mà  
niệm  
Phật,  
thì  
có  
khác  
nào  
sự  
tham  
cứu  
của  
nhà  
tu  
thiền.  
Và  
nếu  
được  
vãng  
sanh,  
chẳng  
hóa  
ra  
nhân  
quả  
không  
phù  
hợp  
hay  
sao?  
Ngài  
Ngẫu  
Ích  
bảo:  
'Được  
sanh  
cùng  
chăng,  
toàn  
do  
nơi  
lòng  
tín  
nguyện  
có,  
không;  
phẩm  
vị  
cao  
thấp,  
đều  
b*i  
công  
trì  
danh  
sâu,  
cạn'  
là  
một  
luận  
án  
chắc  
chắn  
không  
thay  
đổi.  
Trong  
Kinh  
A  
Di  
Đà,  
câu:  
'Một  
lòng  
không  
loạn'  
là  
nương  
theo  
đoạn  
công  
đức  
y,  
chánh,  
*  
văn  
trước  
khuyên  
sanh  
lòng  
tin,  
và  
nối  
theo  
đoạn:  
'Nếu  
có  
chúng  
sanh  
nào  
nghe  
kinh  
này,  
phải  
nên  
phát  
nguyện  
cầu  
sanh  
về  
nước  
kia'  
chính  
là  
bảo  
phải  
phát  
nguyện.  
Hơn  
nữa,  
về  
điểm  
tín  
nguyện,  
trong  
mấy  
đoạn  
văn  
sau  
cũng  
lập  
lại  
nhiều  
lần.  
Các  
hạ  
cắt  
đứt  
mấy  
đoạn  
văn  
ấy,  
chỉ  
nhìn  
vào  
câu  
'một  
lòng  
không  
loạn'  
xem  
sự  
nhất  
tâm  
có  
tín  
nguyện  
cùng  
không  
tín  
nguyện  
đồng  
như  
nhau,  
nên  
mới  
thắc  
mắc  
về  
chỗ:  
'Niệm  
Phật  
đến  
trình  
độ  
dao  
chém  
chẳng  
đứt  
tức  
là  
thuần  
nhứt  
rồi,  
tại  
sao  
lại  
không  
được  
vãng  
sanh?'
  
5.  
Ngoài  
câu  
niệm  
Phật,  
nếu  
có  
niệm  
khác  
tức  
là  
xen  
tạp.  
Những  
niệm  
ấy  
rất  
nhiều  
khó  
kể  
hết  
được,  
chỉ  
nêu  
phần  
chánh  
như:  
niệm  
cầu  
đại  
triệt,  
đại  
ngộ,  
niệm  
mong  
được  
đại  
tổng  
trì,  
v.v...  
chớ  
không  
phải  
chỉ  
cho  
sự  
phát  
nguyện  
là  
xen  
tạp.  
Nên  
biết  
pháp  
môn  
Tịnh  
Độ  
lấy  
Tín  
Nguyện,  
Hạnh  
làm  
tông  
chỉ.  
Hạnh  
như  
cỗ  
xe,  
Nguyện  
như  
người  
phu  
xe,  
Tín  
như  
kẻ  
dẫn  
đường,  
đủ  
cả  
ba  
mới  
thành  
tựu  
sự  
tấn  
thú  
của  
xe.  
Vì  
thế  
người  
tu  
Tịnh  
Độ  
hôm  
sớm  
phải  
phát  
nguyện.  
Lại  
chớ  
nên  
chấp  
nê  
rằng  
những  
lúc  
không  
niệm  
Phật,  
hoặc  
khi  
phát  
nguyện  
là  
cắt  
đứt,  
xen  
tạp,  
tịnh  
niệm  
không  
thành.  
Thử  
hỏi:  
tâm  
niệm  
ấy  
có  
từng  
trải  
qua  
những  
cảnh  
thấy,  
nghe,  
mặc  
áo,  
ăn  
cơm,  
cùng  
các  
sự  
cử  
động  
khác  
hay  
không?  
Nếu  
có,  
với  
mấy  
điều  
này  
đã  
không  
thấy  
cắt  
đứt,  
xen  
tạp,  
sao  
lại  
cho  
những  
việc  
kia  
là  
tạp  
loạn?  
Cho  
nên,  
dù  
niệm  
Phật  
đến  
cảnh  
cảnh  
giới  
'một  
niệm  
muôn  
năm'  
cũng  
không  
ngại  
gì  
tới  
sự  
kh*i  
cư  
hằng  
ngày.  
Bằng  
tuyệt  
nhiên  
không  
cả,  
hoặc  
ra  
chỉ  
có  
pháp  
thân  
Bồ  
Tát  
mới  
đảm  
đương  
nổi.  
Nhưng  
các  
bậc  
Đại  
Sĩ  
tuy  
*  
yên  
một  
chỗ  
mà  
hiện  
vô  
số  
thân  
trong  
cõi  
vi  
trần,  
làm  
vô  
lượng  
Phật  
sự,  
nếu  
quả  
có  
xen  
h*  
tạp  
loạn,  
thì  
chắc  
không  
biết  
là  
bao  
nhiêu?  
chư  
Phật,  
Bồ  
Tát  
có  
thể  
đồng  
thời  
khắp  
đến  
mười  
phương,  
song  
đây  
chỉ  
là  
một  
việc,  
thật  
ra  
tâm  
ta  
vẫn  
đủ  
các  
lý,  
ứng  
muôn  
sự,  
không  
phải  
như  
thế  
mà  
thôi  
đâu!
  
6.  
Ước  
theo  
nghi  
thức  
xưa  
nay,  
sự  
phát  
nguyện  
thường  
*  
vào  
khoảng  
sớm  
mai  
và  
tối.  
Nhưng  
cũng  
có  
người  
khi  
niệm  
Phật  
xong  
thời  
nào,  
liền  
hồi  
hướng  
phát  
nguyện  
ngay  
lúc  
ấy.  
Các  
hạ  
đã  
hiểu  
sâu  
tánh,  
tướng  
mà  
còn  
cho  
rằng:  
'niệm  
Phật  
và  
niệm  
cầu  
sanh  
không  
thể  
đi  
đôi',  
thì  
dường  
như  
đối  
với  
viên  
lý  
sự  
vô  
ngại,  
chưa  
được  
tin  
chắc.  
Lại  
bảo:  
'Nếu  
có  
thể  
đi  
đôi  
tất  
tâm  
niệm  
sẽ  
chia  
làm  
hai:  
một  
nửa  
về  
Phật,  
nửa  
về  
nguyện,  
thế  
thì  
một  
người  
ưng  
thành  
hai  
vị  
Phật.'  
Xin  
hỏi,  
cơn  
bình  
thường,  
có  
lúc  
nào  
các  
hạ  
đương  
lúc  
mắt  
thấy  
sắc  
mà  
tai  
vẫn  
nghe  
tiếng  
cho  
đến  
ý  
vẫn  
suy  
nghĩ  
hay  
không?  
Nếu  
quả  
có  
thế,  
tại  
sao  
riêng  
với  
việc  
này  
các  
hạ  
hãy  
còn  
ngờ?  
Vậy  
nên  
biết,  
tâm  
niệm  
công  
dụng  
không  
lường;  
tám  
thức  
há  
chẳng  
phải  
là  
thể  
dụng  
của  
một  
tâm  
ư?  
Kia  
đã  
không  
thành  
tám  
vị  
Phật,  
tại  
sao  
đây  
lại  
thành  
hai  
vị  
Phật?
  
7.  
Bình  
sanh  
tuyệt  
không  
tín  
nguyện,  
khi  
lâm  
chung  
khó  
được  
nhờ  
sức  
Phật.  
Đã  
nói:  
'Lúc  
nghiệp  
lành  
dữ  
đồng  
thời  
đều  
hiện',  
thì  
chẳng  
những  
câu  
niệm  
Phật  
không  
hiện  
không  
được  
vãng  
sanh,  
dù  
có  
hiện  
cũng  
không  
được  
vãng  
sanh.  
Tại  
sao  
thế?  
Vì  
không  
phát  
nguyện  
vãng  
sanh,  
vì  
không  
cần  
Phật  
tiếp  
dẫn.  
Kinh  
Hoa  
Nghiêm  
nói:  
'Giả  
sử  
nghiệp  
ác  
có  
hình  
tướng,  
mười  
phương  
hư  
không  
chẳng  
thể  
dung  
chứa.'  
Cổ  
đức  
bảo:  
'Tâm  
nghiệp  
rất  
nhiều,  
ngã  
về  
mối  
nặng  
như  
người  
mắc  
nợ,  
chủ  
mạnh  
kéo  
đi.'  
Nay  
nghiệp  
lành  
dữ  
đều  
hiện,  
b*i  
không  
tín  
nguyện,  
tất  
phải  
bị  
nghiệp  
lực  
lôi  
cuốn  
mất  
sự  
chủ  
trương.  
Thế  
thì  
biết,  
nương  
cậy  
sức  
mình,  
dù  
hoặc  
nghiệp  
còn  
một  
mảy  
tơ  
cũng  
không  
thoát  
khỏi  
sanh  
tử,  
lựa  
là  
nhiều  
ư?  
Niệm  
Phật  
đến  
nhứt  
tâm  
mà  
không  
tín  
nguyện,  
trong  
vô  
số  
người,  
hoặc  
may  
có  
được  
một  
vài  
kẻ  
vãng  
sanh.  
Rất  
không  
nên  
đem  
điều  
ấy  
giáo  
hóa  
làm  
mất  
căn  
lành  
Tịnh  
Độ  
của  
tất  
cả  
chúng  
sanh  
đời  
sau.  
Vì  
nếu  
chỉ  
nương  
tự  
lực  
niệm  
cho  
đến  
nghiệp  
dứt  
tình  
không,  
chứng  
Vô  
Sanh  
Nhẫn  
thì  
khắp  
thế  
gian  
khó  
được  
một  
đôi  
người.  
Thảng  
như  
ai  
nấy  
đều  
y  
theo  
thuyết  
này  
mà  
tu  
trì,  
không  
chú  
trọng  
đến  
tín  
nguyện,  
tất  
vô  
lượng  
chúng  
sanh  
sẽ  
nổi  
chìm  
trong  
biển  
khổ,  
bặt  
nẻo  
thoát  
ly,  
ấy  
cũng  
vì  
một  
lời  
nói  
gây  
nên  
tổn  
hại.  
Mà  
người  
chủ  
trương  
thuyết  
trên  
kia  
lại  
còn  
nghênh  
ngang  
tự  
đắc  
cho  
rằng  
lời  
mình  
rất  
cao;  
đâu  
biết  
đó  
là  
cuồng  
ngôn  
làm  
dứt  
mất  
huệ  
mạng  
Phật,  
khiến  
chúng  
sanh  
lầm  
lạc  
nghi  
ngờ!  
Thương  
thay!
  
Pháp  
môn  
Tịnh  
Độ  
phải  
xem  
là  
đặc  
biệt,  
không  
nên  
đem  
sánh  
với  
giáo  
nghĩa  
thông  
thường.  
Ví  
như  
đức  
Phật  
chẳng  
mở  
môn  
này,  
chắc  
trong  
đời  
mạt  
pháp  
không  
có  
ai  
thoát  
khỏi  
đường  
sanh  
tử!  
Bộ  
Di  
Đà  
Yếu  
Giải  
của  
ngài  
Ngẫu  
Ích,  
lý  
sự  
đều  
đến  
chỗ  
cực  
điểm,  
nếu  
các  
hạ  
y  
theo  
đó  
hành  
trì,  
thì  
ngày  
kia  
trên  
phẩm  
vị  
vãng  
sanh  
không  
ai  
sánh  
kịp.  
Người  
xưa  
tu  
hành  
đều  
có  
thể  
chứng  
đạo,  
trái  
lại  
người  
đời  
nay  
ít  
kẻ  
minh  
tâm.  
„y  
b*i  
căn  
cơ  
có  
thấp  
kém  
ư?  
Hay  
là  
do  
lòng  
cung  
kính,  
khinh  
mạn  
khiến  
nên  
như  
thế?  
Tôi  
xem  
nhiều  
truyện  
ký,  
thấy  
những  
bậc  
cao  
nhân  
đều  
trọng  
kinh  
tượng  
như  
Phật  
sống,  
sự  
kính  
sợ  
của  
các  
Ngài  
dù  
cho  
tôi  
trung,  
con  
thảo,  
cũng  
không  
thể  
phư*ng  
phất  
được  
một  
đôi  
phần.  
Vì  
lòng  
thành  
kính  
cùng  
cực,  
nên  
các  
vị  
ấy  
có  
thể  
dứt  
hoặc  
chứng  
chơn,  
vượt  
thẳng  
lên  
cõi  
thánh.  
Thử  
xem  
một  
việc  
Nhị  
Tổ  
Thần  
Quang  
đứng  
hầu  
dưới  
tuyết,  
chặt  
cánh  
tay  
cầu  
pháp  
*  
Thiếu  
Lâm,  
cũng  
đủ  
thấy  
lòng  
thành  
kính  
của  
Ngài  
dường  
nào!  
Người  
đời  
nay  
xem  
tượng  
Phật  
như  
gỗ  
đất,  
kinh  
Phật  
như  
giấy  
cũ,  
dù  
có  
lòng  
tin  
thọ  
trì,  
chẳng  
qua  
là  
đọc  
tụng  
làu  
thông  
nơi  
đầu  
mồm  
mà  
thôi,  
có  
điều  
thật  
ích  
gì  
đáng  
bàn  
luận!  
Tuy  
rằng  
như  
thế  
cũng  
gieo  
được  
viễn  
nhân,  
nhưng  
tội  
khinh  
lờn  
thật  
không  
thể  
tư*ng  
nghĩ!  
Các  
hạ  
là  
bậc  
luận  
giỏi  
học  
nhiều,  
khi  
đề  
xướng  
Phật  
Pháp,  
xin  
nhắc  
nhở  
điều  
này,  
để  
mọi  
người  
cùng  
được  
lợi  
ích.  
Như  
thế,  
pháp  
môn  
và  
chúng  
sanh  
sẽ  
hân  
hạnh  
biết  
bao!
  
  
 
  
Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Cừu  
Bội  
Khanh   
 (1 - 2)   
  
  
- 1 -
   
Sự  
nóng  
giận  
như  
thế  
là  
do  
tập  
tánh  
từ  
kiếp  
trước.  
Nay  
các  
hạ  
đã  
biết  
nó  
chỉ  
vô  
ích,  
lại  
thêm  
có  
hại,  
thì  
đối  
với  
tất  
cả  
việc  
trái  
ý  
đều  
nên  
dùng  
độ  
lượng  
rộng  
rãi  
như  
trời  
biển  
mà  
bao  
dung.  
Đó  
là  
phương  
pháp  
dùng  
lòng  
quảng  
đại  
để  
chuyển  
biến  
tánh  
hẹp  
hòi.  
Nếu  
không  
đối  
trị  
thì  
tập  
tánh  
giận  
hờn  
càng  
ngày  
càng  
tăng  
thêm,  
sự  
tai  
hại  
không  
phải  
ít.
  
Đến  
như  
niệm  
Phật,  
phải  
tùy  
nơi  
tinh  
thần  
sức  
khỏe  
của  
mình  
mà  
niệm  
ra  
tiếng  
lớn,  
nhỏ,  
niệm  
thầm,  
hoặc  
niệm  
theo  
lối  
Kim  
Cang  
(chỉ  
sẽ  
động  
môi,  
niệm  
có  
tiếng  
nhưng  
người  
ngoài  
không  
nghe  
được),  
sao  
lại  
quá  
dùng  
sức  
để  
cho  
mang  
bệnh  
ư?  
Tâm  
quá  
mãnh  
liệt  
ấy  
cũng  
còn  
lỗi  
dục  
tốc  
đó!  
Nay  
đã  
không  
niệm  
ra  
tiếng  
được,  
cũng  
có  
thể  
niệm  
thầm  
trong  
tâm,  
sao  
lại  
chỉ  
hạn  
có  
mười  
niệm?  
Vả  
lại,  
khi  
bệnh  
nằm  
nơi  
giường,  
tấm  
lòng  
đâu  
thể  
vắng  
lặng  
như  
hư  
không,  
nếu  
tưởng  
nghĩ  
việc  
khác,  
thôi  
thà  
tốt  
hơn  
là  
chí  
tâm  
niệm  
Phật!  
Nên  
đem  
việc  
cần  
yếu  
giao  
phó  
cho  
người  
nhà,  
thường  
tưởng  
rằng  
mình  
sắp  
chết,  
sắp  
đọa  
địa  
ngục,  
trong  
lòng  
tuyệt  
không  
vướng  
vít  
một  
điều  
gì.  
Rồi  
dùng  
tâm  
thanh  
tịnh  
ấy  
tưởng  
nhớ  
tượng  
Phật,  
thầm  
niệm  
danh  
hiệu,  
và  
kiêm  
tưởng  
niệm  
thánh  
tượng  
cùng  
danh  
hiệu  
đức  
Quán  
Âm.  
Quả  
được  
như  
thế,  
quyết  
định  
nghiệp  
chướng  
sẽ  
tiêu  
trừ,  
căn  
lành  
thêm  
lớn,  
tật  
bệnh  
mau  
thuyên  
và  
thân  
tâm  
yên  
ổn.  
Căn  
bệnh  
của  
các  
hạ  
vẫn  
thuộc  
về  
túc  
nghiệp,  
bởi  
duyên  
niệm  
Phật  
mãnh  
liệt  
nên  
phát  
hiện,  
không  
phải  
hoàn  
toàn  
do  
quá  
dùng  
sức  
mà  
có  
ra.  
Giả  
sử  
không  
gặp  
nhân  
duyên  
niệm  
Phật  
quá  
sức  
ấy,  
nó  
cũng  
sẽ  
phát  
hiện  
bằng  
một  
nhân  
duyên  
khác.  
Giữa  
đời,  
người  
không  
niệm  
Phật  
rất  
nhiều,  
đâu  
phải  
tất  
cả  
đều  
không  
đau  
yếu,  
suốt  
đời  
mạnh  
khỏe  
đó  
ư?  
Hiểu  
rõ  
điều  
nầy,  
sẽ  
chẳng  
còn  
nhận  
lầm  
cho  
rằng  
niệm  
Phật  
thành  
bệnh,  
kết  
cuộc  
chỉ  
có  
tổn  
hại  
không  
được  
lợi  
ích.
  
„n  
Quang  
cùng  
các  
hạ  
chưa  
gặp  
mặt  
nhau  
lần  
nào  
mà  
có  
những  
lời  
thành  
thật  
chí  
thiết  
hôm  
nay  
vì  
xem  
các  
hạ  
như  
người  
thân  
thuộc.  
Bởi  
kẻ  
tu  
hành  
vẫn  
thể  
theo  
lòng  
từ  
bi  
của  
Phật,  
muốn  
cho  
người  
hữu  
duyên  
đều  
được  
vãng  
sanh  
ngay  
trong  
hiện  
đời.  
Pháp  
môn  
niệm  
Phật,  
nếu  
các  
hạ  
chưa  
tường  
tất,  
mỗi  
ngày  
nên  
xem  
qua  
vài  
thiên  
Văn  
sao  
để  
làm  
sự  
dẫn  
đạo  
cho  
đường  
tu.  
Thế  
mới  
không  
uổng  
một  
phen  
tri  
ngộ  
nhau  
trong  
thơ  
từ  
qua  
lại.
  
- 2 -
  
Các  
hạ  
đã  
tin  
nơi  
tôi,  
nên  
làm  
y  
theo  
lời  
tôi  
mới  
có  
thật  
ích.  
Chẳng  
thế  
thì  
tuy  
có  
tín  
tâm,  
chỉ  
gieo  
nhân  
lành  
về  
sau  
mà  
thôi.  
Chúng  
ta  
ở  
trong  
vòng  
sống  
chết  
luân  
hồi  
trải  
qua  
nhiều  
kiếp,  
gây  
nên  
nghiệp  
ác  
vô  
lượng  
vô  
biên.  
Nếu  
chỉ  
nương  
sức  
tu  
trì  
của  
mình,  
mong  
dứt  
hết  
phiền  
não,  
hoặc  
nghiệp  
để  
thoát  
nẻo  
luân  
hồi,  
việc  
ấy  
còn  
khó  
hơn  
lên  
trời.  
Như  
có  
thể  
tin  
pháp  
môn  
Tịnh  
Độ  
của  
đức  
Phật  
chỉ  
dạy,  
dùng  
lòng  
tín  
nguyện  
chơn  
thiết  
niệm  
danh  
hiệu  
Phật  
A  
Di  
Đà  
cầu  
sanh  
Tây  
Phương,  
thì  
không  
luận  
nghiệp  
lực  
lớn,  
nhỏ,  
đều  
được  
nương  
nhờ  
từ  
lực  
vãng  
sanh  
Cực  
Lạc.  
Ví  
như  
một  
hột  
cát  
nhỏ  
để  
vào  
nước  
liền  
chìm,  
trái  
lại,  
tảng  
đá  
dù  
nặng  
ngàn  
muôn  
cân,  
được  
chở  
trên  
chiếc  
thuyền  
to,  
cũng  
có  
thể  
đem  
đi  
nơi  
khác.  
Tảng  
đá  
là  
dụ  
cho  
nghiệp  
lực  
sâu  
nặng  
của  
chúng  
sanh,  
thuyền  
to  
là  
dụ  
cho  
từ  
lực  
rộng  
lớn  
của  
đức  
A  
Di  
Đà.  
Nếu  
không  
niệm  
Phật,  
chỉ  
nương  
sức  
tu  
trì  
của  
mình  
để  
thoát  
sanh  
tử,  
phải  
đợi  
đến  
địa  
vị  
nghiệp  
dứt  
tình  
không  
mới  
được.  
Chẳng  
thế  
thì  
dù  
có  
dứt  
được  
phiền  
hoặc  
chỉ  
còn  
như  
một  
sợi  
tơ,  
cũng  
không  
thể  
giải  
thoát.  
Đó  
là  
dụ  
cho  
hột  
cát  
tuy  
rất  
nhỏ,  
nếu  
không  
có  
vật  
gì  
chở,  
khi  
để  
vào  
nước  
tất  
phải  
bị  
chìm.  
Các  
hạ  
nên  
sanh  
lòng  
tin,  
niệm  
Phật  
cầu  
sanh  
về  
Tây  
Phương  
đừng  
khởi  
những  
tư  
tưởng  
gì  
khác.  
Quả  
được  
như  
thế,  
thì  
tuổi  
thọ  
chưa  
hết  
bệnh  
sẽ  
mau  
lành,  
vì  
công  
đức  
chí  
thành  
niệm  
Phật,  
có  
thể  
dứt  
trừ  
ác  
nghiệp  
đời  
trước,  
như  
vầng  
hồng  
đã  
hiện,  
sương  
tuyết  
liền  
tan.  
Nếu  
số  
phần  
đã  
mãn,  
tất  
được  
vãng  
sanh,  
vì  
do  
tâm  
niệm  
chuyên  
nhất  
nên  
đạo  
cảm  
ứng  
giao  
thông,  
nhờ  
Phật  
xót  
thương  
tiếp  
dẫn.  
Như  
các  
hạ  
tin  
hiểu  
thấu  
đáo  
những  
lời  
trên  
đây,  
thì  
sống  
cũng  
được  
nhiều  
an  
vui,  
chết  
cũng  
được  
lợi  
ích  
hơn.
  
Lòng  
nóng  
giận  
là  
tập  
tánh  
từ  
kiếp  
trước,  
muốn  
đối  
trị,  
nên  
tưởng  
như  
mình  
đã  
chết.  
Thế  
thì  
mặc  
ai  
bôi  
hương  
thoa  
lọ,  
nơi  
ta  
nào  
có  
can  
gì?  
Dù  
gặp  
những  
cảnh  
trái  
lòng  
đến  
đâu  
nữa,  
cũng  
cứ  
tưởng  
rằng  
mình  
đã  
chết,  
tự  
nhiên  
tánh  
giận  
hờn  
không  
thể  
nổi  
lên.  
Đây  
là  
món  
'cam  
lồ  
pháp  
thủy'  
của  
đức  
Như  
Lai  
truyền  
dạy,  
để  
rửa  
hết  
kết  
nghiệp  
của  
tất  
cả  
chúng  
sanh.  
Nay  
tôi  
vì  
các  
hạ  
thuật  
lại,  
không  
phải  
tự  
tôi  
đặt  
điều  
ức  
thuyết.  
Nếu  
không  
niệm  
Phật  
cầu  
về  
Tây  
Phương,  
tuy  
sanh  
lên  
chỗ  
cực  
tôn  
quí  
như  
trời  
Phi  
Phi  
Tưởng,  
khi  
phước  
báo  
đã  
hết,  
vẫn  
bị  
luân  
chuyển  
trong  
sáu  
đường.  
Như  
dùng  
hết  
lòng  
thành  
khẩn  
niệm  
Phật,  
dù  
sắp  
đọa  
vào  
địa  
ngục  
A  
Tỳ,  
cũng  
có  
thể  
nhờ  
Phật  
tiếp  
dẫn.  
Vậy  
muôn  
lần  
xin  
chớ  
tự  
coi  
là  
thấp  
kém,  
cho  
rằng  
mình  
nghiệp  
nặng  
e  
không  
được  
vãng  
sanh.  
Nếu  
cố  
giữ  
quan  
niệm  
ấy  
thì  
quyết  
định  
chẳng  
được  
sanh  
Tây  
Phương,  
vì  
bởi  
thiếu  
sự  
tín  
nguyện  
chơn  
thiết  
nên  
không  
do  
đâu  
để  
cảm  
đến  
Phật.
  
Quán  
Thế  
Âm  
Bồ  
Tát  
thành  
Phật  
đã  
từ  
lâu,  
chỉ  
vì  
lòng  
từ  
bi  
sâu  
thiết  
nên  
hiện  
thân  
trong  
chín  
pháp  
giới,  
dùng  
đủ  
phương  
tiện  
để  
độ  
thoát  
chúng  
sanh.  
(Chín  
pháp  
giới:  
Bồ  
Tát,  
Duyên  
Giác,  
Thanh  
Văn,  
trời,  
người,  
A  
Tu  
La,  
súc  
sanh,  
ngạ  
quỉ,  
địa  
ngục).  
Riêng  
về  
pháp  
giới  
cõi  
người,  
Bồ  
Tát  
lại  
hiện  
nhiều  
thân  
sai  
khác,  
hoặc  
làm  
vua,  
quan,  
hoặc  
làm  
thường  
dân  
ẩn  
dật,  
hoặc  
làm  
phụ  
nữ,  
hoặc  
làm  
kẻ  
ăn  
xin...  
không  
nhất  
định.  
Vị  
chân  
tượng  
của  
Bồ  
Tát  
tốt  
đẹp  
nhiệm  
mầu,  
người  
đời  
không  
thể  
hình  
dung  
được,  
nên  
khi  
vẽ  
ra  
phần  
nhiều  
giống  
với  
người  
nữ,  
chớ  
chẳng  
phải  
Bồ  
Tát  
nguyên  
là  
nữ  
thân.  
Nếu  
muốn  
cúng  
dường,  
nên  
đến  
đường  
Bắc  
Kinh,  
xóm  
Trường  
Khang,  
chỗ  
lưu  
thông  
Kinh  
Phật,  
thỉnh  
bức  
tượng  
Tây  
Phương  
Tam  
Thánh  
thứ  
bản  
đá,  
mua  
khung  
kính  
đem  
lồng  
vào.  
Như  
thế  
là  
vẹn  
toàn,  
vì  
có  
đủ  
đức  
Phật  
A  
Di  
Đà,  
Quán  
Âm  
và  
Thế  
Chí.  
Nơi  
phòng  
ngủ  
nếu  
không  
được  
tinh  
khiết,  
nên  
đem  
tượng  
Phật  
thờ  
ở  
tịnh  
thất,  
mỗi  
ngày  
qua  
lạy  
và  
chiêm  
ngưỡng  
một  
đôi  
lần,  
thì  
trong  
tâm  
có  
thể  
ghi  
nhớ!
  
Niệm  
Phật  
tuy  
quí  
ở  
sự  
thanh  
khiết,  
nhưng  
với  
người  
bệnh  
có  
nhiều  
điều  
không  
thuận  
tiện,  
chỉ  
đem  
hết  
lòng  
thành  
niệm  
thầm  
hoặc  
ra  
tiếng,  
công  
đức  
cũng  
đồng  
nhau.  
Vì  
đức  
Phật  
vẫn  
rộng  
lòng  
thương  
xót,  
như  
cha  
mẹ  
đối  
với  
con.  
Khi  
con  
có  
bệnh  
không  
đem  
những  
nghi  
thức  
bình  
thường  
quở  
trách,  
mà  
còn  
xoa  
rờ  
thân  
thể  
gội  
rửa  
chỗ  
hôi  
nhơ.  
Nếu  
khi  
con  
bệnh  
đã  
mạnh,  
mà  
còn  
bắt  
cha  
mẹ  
hầu  
hạ  
như  
khi  
đau  
yếu,  
đó  
là  
trái  
phép,  
trời  
đất  
sẽ  
không  
dung.  
Vậy  
các  
hạ  
không  
nên  
cho  
rằng  
nằm  
nơi  
giường  
bệnh  
niệm  
Phật  
thầm  
là  
có  
tội  
lỗi.  
Người  
mạnh  
khỏe  
khi  
nằm  
nghỉ  
còn  
nên  
niệm  
thầm,  
huống  
chi  
là  
người  
bệnh  
ư?
  
  
 
  
Cư  
Sĩ  
Cao  
Thiệu  
Lân (1 - 2) 
 
 
- 1 -
  
Trong  
bức  
thơ  
gửi  
đến,  
thấy  
nói  
cư  
sĩ  
đang  
nhiếp  
tâm  
niệm  
Phật,  
lạy  
Kinh  
Pháp  
Hoa,  
và  
gắng  
trừ  
lỗi  
mà  
chưa  
được  
như  
ý,  
nghĩ  
muốn  
y  
theo  
phép  
công  
quá  
cách  
để  
tự  
kiểm  
điểm  
mỗi  
ngày.  
Bao  
nhiêu  
điều  
ấy,  
đủ  
chứng  
sự  
tu  
hành  
của  
cư  
sĩ  
gần  
đây  
là  
thiết  
thật  
vì  
mình,  
không  
như  
những  
kẻ  
tự  
khi  
dối  
người,  
phô  
trương  
bề  
ngoài  
để  
cầu  
danh  
dự.  
Như  
thế  
còn  
gì  
hay  
hơn,  
tôi  
xin  
tùy  
hỷ.
  
Phép  
lễ  
tụng  
trì  
niệm,  
phải  
lấy  
lòng  
thành  
kính  
làm  
chủ.  
Nếu  
thành  
kính  
cùng  
cực,  
dù  
ở  
địa  
vị  
phàm  
phu  
công  
đức  
chưa  
được  
viên  
mãn,  
nhưng  
kết  
quả  
cũng  
khó  
nghĩ  
bàn!  
Trái  
lại  
thì,  
tuy  
lễ  
tụng,  
xét  
ra  
khác  
gì  
múa  
hát,  
dù  
có  
bày  
nét  
khổ,  
vui,  
thương  
cảm,  
đều  
là  
giả  
trang  
vì  
chẳng  
phải  
tự  
nơi  
đáy  
lòng  
phát  
lộ.  
Nếu  
có  
công  
đức,  
chẳng  
qua  
là  
si  
phước  
ở  
cõi  
trời,  
người,  
mà  
chính  
đó  
là  
chỗ  
y  
cứ  
để  
gây  
nghiệp  
ác,  
gieo  
nên  
quả  
khổ  
vô  
lượng  
về  
sau.  
Nên  
đem  
điều  
nầy  
tỏ  
khắp  
với  
đồng  
bạn,  
khuyên  
nhau  
chơn  
thật  
tu  
hành  
để  
sự  
lợi  
ích  
được  
lan  
rộng.  
Cách  
thức  
lạy  
kinh  
của  
cư  
sĩ  
lập  
ra,  
về  
lý  
vẫn  
không  
ngại,  
nhưng  
về  
sự,  
nếu  
lạy  
suông,  
phải  
niệm:  
'Nam  
Mô  
Đại  
Thừa  
Diệu  
Pháp  
Liên  
Hoa  
Kinh,  
Pháp  
Hoa  
Hội  
Thượng  
Phật,  
Bồ  
Tát.'  
Niệm  
xong  
cúi  
xuống  
lạy,  
vừa  
tưởng  
bài  
kệ  
lễ  
kinh:
  
Pháp  
tánh  
chơn  
không  
tợ  
hư  
không,
  
Pháp  
Bảo  
thường  
trụ  
khó  
nghĩ  
bàn!
  
Nơi  
Như  
pháp  
một  
lòng  
nương  
kính  
lạy.
  
trước  
Pháp  
Bảo  
hiện  
bóng  
con,
  
Lại  
tưởng  
toàn  
bộ  
kinh  
và  
chư  
Phật,  
Bồ  
Tát  
ở  
trong  
kinh  
đều  
phóng  
ánh  
sáng  
soi  
đến  
thân  
mình  
cùng  
các  
loài  
hữu  
tình  
trong  
pháp  
giới.  
Nếu  
lạy  
từng  
chữ,  
phải  
niệm:  
'Nam  
Mô  
Đại  
Thừa  
Diệu  
Pháp  
Liên  
Hoa  
Kinh  
(...)  
tự  
Pháp  
Bảo.'  
Cứ  
lạy  
chữ  
nào  
thì  
niệm  
chữ  
ấy,  
từ  
chữ:  
'Như,  
thị,  
ngã,  
văn...'  
cho  
đến  
hết  
bộ  
kinh  
đều  
niệm  
như  
thế.  
Nhưng  
phép  
quán  
tưởng  
chẳng  
phải  
dễ,  
nếu  
hiểu  
lý  
không  
rành  
hoặc  
tâm  
thức  
rối  
loạn,  
sợ  
e  
bị  
những  
việc  
ma.  
Điều  
cần  
yếu  
phải  
lấy  
sự  
chí  
thành  
cung  
kính  
làm  
chủ,  
nếu  
quán  
tưởng  
được  
thì  
quán,  
bằng  
không,  
nên  
đem  
hết  
lòng  
thành  
mà  
lạy,  
công  
đức  
cũng  
vô  
lượng.  
Theo  
chương  
trình  
của  
cư  
sĩ  
đã  
lập:  
đối  
trước  
kinh  
mà  
lạy,  
khi  
lạy  
xuống  
tưởng  
kệ,  
lúc  
đứng  
lên  
niệm  
Phật,  
quán  
Phật...,  
tốt  
hơn  
là  
nên  
để  
kinh  
trước  
bàn  
Phật  
cúng  
dường  
rồi  
chuyên  
nhất  
lễ  
Phật  
A  
Di  
Đà.  
Chớ  
cho  
rằng  
công  
đức  
duyên  
tưởng  
một  
vị  
Phật  
không  
rộng  
lớn  
bằng  
duyên  
tưởng  
nhiều  
vị  
Phật.  
Nên  
biết  
Phật  
A  
Di  
Đà  
là  
pháp  
giới  
tạng  
thân,  
bao  
nhiêu  
công  
đức  
của  
chư  
Phật  
trong  
mười  
phương  
pháp  
giới,  
nơi  
một  
đức  
Phật  
A  
Di  
Đà  
đều  
đầy  
đủ  
cả.  
Ví  
như  
lưới  
châu  
của  
trời  
Đế  
Thích,  
ngàn  
châu  
hiện  
đủ  
trong  
một  
hột  
châu,  
một  
hột  
châu  
in  
bóng  
khắp  
ngàn  
châu,  
mỗi  
châu  
đều  
dung  
nhiếp  
lẫn  
nhau,  
không  
dư  
không  
thiếu.  
Nếu  
bậc  
Đại  
Sĩ  
tu  
hành  
đã  
lâu,  
không  
ngại  
gì  
duyên  
cảnh  
rộng  
nhiều,  
cảnh  
càng  
nhiều  
tâm  
càng  
chuyên  
nhất.  
Trái  
lại  
kẻ  
mới  
học  
đạo,  
nếu  
duyên  
cảnh  
nhiều  
tâm  
thức  
sẽ  
rối  
loạn,  
và  
người  
chướng  
sâu  
huệ  
cạn  
có  
khi  
còn  
bị  
những  
việc  
ma.  
Vì  
lẽ  
ấy,  
Thế  
Tôn  
ta  
và  
chư  
Tổ  
đều  
bảo  
phải  
một  
lòng  
chuyên  
niệm  
Phật  
A  
Di  
Đà,  
đợi  
khi  
nào  
chứng  
được  
Tam  
Muội  
thì  
trăm  
ngàn  
pháp  
môn,  
không  
lường  
diệu  
nghĩa  
thảy  
đều  
đầy  
đủ.  
Người  
xưa  
nói:  
'Tắm  
được  
biển  
cả,  
tức  
là  
dùng  
nước  
trăm  
sông;  
đến  
điện  
Hàm  
Ngươn  
còn  
hỏi  
Trường  
An  
chi  
nữa?'  
Lời  
này  
có  
thể  
gọi  
là  
một  
tượng  
trưng  
rất  
đúng  
cho  
lẽ  
trên  
đây  
vậy.
  
Đến  
như  
sự  
dứt  
dữ  
làm  
lành,  
thành  
thật  
kiểm  
điểm  
lấy  
mình,  
tuy  
không  
chi  
hay  
hơn  
phép  
công  
quá  
cách;  
nhưng  
nếu  
tâm  
không  
chuyên  
chú  
nơi  
sự  
thành  
kính,  
dù  
mỗi  
ngày  
có  
ghi  
công  
chép  
lỗi  
cũng  
là  
việc  
suông.  
Sổ  
công  
quá  
cách  
ở  
vùng  
này  
chưa  
thấy  
có.  
Cứ  
theo  
chỗ  
hiểu  
của  
tôi,  
chỉ  
nên  
giữ  
lòng  
thành  
kính  
trong  
tất  
cả  
thời,  
đừng  
để  
một  
niệm  
không  
tốt  
nổi  
lên,  
khi  
đối  
đãi  
với  
người  
phải  
luôn  
luôn  
gìn  
lòng  
trung  
thứ.  
Được  
như  
thế,  
dù  
vọng  
niệm  
có  
thoạt  
khởi  
cũng  
liền  
tự  
biết,  
biết  
rồi  
liền  
trừ,  
tất  
ba  
nghiệp  
không  
bị  
lôi  
cuốn  
vào  
đường  
lầm  
lạc.  
Những  
kẻ  
tiểu  
nhơn  
bề  
ngoài  
hiền  
lành,  
trong  
lòng  
ác  
độc,  
cho  
rằng  
không  
ai  
biết  
mình;  
đâu  
ngờ  
người  
phàm  
dù  
không  
biết,  
song  
bậc  
tu  
hành  
đắc  
đạo,  
thấy  
hiểu  
rõ  
ràng.  
Lại,  
chư  
thiên,  
quỉ  
thần  
tuy  
chưa  
đắc  
đạo,  
nhưng  
nhờ  
quả  
báo  
có  
tha  
tâm  
thông,  
nên  
cũng  
hiểu  
biết  
được.  
Nói  
gì  
là  
các  
bậc  
Thanh  
Văn,  
Duyên  
Giác,  
Bồ  
Tát  
và  
chư  
Phật,  
tha  
tâm  
đạo  
nhãn  
thấy  
suốt  
ba  
đời  
như  
xem  
nơi  
lòng  
bàn  
tay  
đó  
ư?  
Muốn  
không  
biết,  
chỉ  
có  
mình  
không  
biết  
thì  
được,  
nếu  
mình  
biết  
thì  
trời  
đất,  
quỉ  
thần,  
Phật,  
Bồ  
Tát  
tất  
rõ  
biết.  
Hiểu  
nghĩa  
này,  
tuy  
ở  
nơi  
nhà  
tối,  
chỗ  
vắng  
cũng  
không  
dám  
móng  
niệm  
ác.  
Kẻ  
ngoan  
cố  
nếu  
được  
biết  
lý  
trên  
đây  
cũng  
tự  
hổ  
thẹn,  
lựa  
người  
chơn  
tu  
hay  
sao?  
Như  
muốn  
bớt  
lỗi  
phải  
ghi  
nhớ  
điểm  
này,  
hằng  
đem  
lòng  
kính  
sợ.  
Nhưng  
đây  
là  
ước  
theo  
chỗ  
hiểu  
biết  
cạn  
cợt  
của  
tình  
đời  
mà  
nói,  
thật  
ra  
tâm  
ta  
cùng  
mười  
phương  
pháp  
giới  
đồng  
thể  
dung  
hợp,  
vì  
ta  
mê  
nên  
sự  
thấy  
biết  
chỉ  
cuộc  
ở  
riêng  
mình.  
Mười  
phương  
chư  
Phật  
chứng  
suốt  
tạng  
tâm,  
tất  
cả  
chúng  
sanh  
trong  
pháp  
giới  
khởi  
lòng  
động  
niệm,  
các  
Ngài  
đều  
thấy  
biết  
rõ  
rệt  
như  
hình  
tượng  
in  
bóng  
trong  
gương.  
Đó  
là  
vì  
chư  
Phật  
đã  
vào  
bản  
thể  
bình  
đẳng  
chân  
như,  
mình  
và  
người  
không  
khác.
  
Nếu  
cư  
sĩ  
rõ  
suốt  
nghĩa  
này,  
có  
thể  
tự  
dè  
dặt  
sợ  
hãi,  
giữ  
lòng  
kính  
thành,  
trước  
tiên  
còn  
gắng  
sức  
trừ  
vọng,  
lâu  
ngày  
vọng  
niệm  
sẽ  
tiêu  
mòn  
không  
khởi  
nữa.
  
- 2 -
  
Được  
thơ,  
biết  
gần  
đây  
cư  
sĩ  
tu  
trì  
thân  
thiết,  
xét  
mình  
sửa  
lỗi  
noi  
dấu  
thánh  
hiền,  
chẳng  
phải  
cầu  
lấy  
hư  
danh,  
tôi  
lấy  
làm  
vui  
đẹp!  
Muốn  
học  
Phật,  
Tổ,  
thoát  
sanh  
tử,  
những  
điểm  
đầu  
tiên  
là:  
hổ  
thẹn,  
sám  
hối,  
dứt  
dữ,  
làm  
lành,  
giữ  
trai  
giới  
và  
thường  
tự  
răn  
nhắc.  
Lại  
cần  
phải  
đạt  
đến  
chỗ  
thật,  
hết  
sức  
mà  
làm,  
bằng  
không  
thì  
thành  
sự  
dối  
ở  
trong  
giả  
dối.  
Cho  
nên,  
biết  
không  
khó,  
làm  
mới  
chính  
là  
khó!  
Nhiều  
bậc  
thông  
minh  
giữa  
đời,  
vì  
nói  
có  
làm  
không,  
thành  
thử  
luống  
qua  
một  
kiếp,  
uổng  
chơi  
non  
báu  
đi  
về  
tay  
không,  
thật  
rất  
đáng  
đau  
tiếc!  
Vọng  
niệm  
lẫy  
lừng  
là  
do  
bởi  
chưa  
chơn  
thiết  
giữ  
gìn  
chánh  
niệm,  
nếu  
cứ  
chuyên  
chú  
một  
cảnh  
thì  
vọng  
tưởng  
sẽ  
đổi  
thành  
chánh  
trí.  
Cho  
nên,  
trị  
đắc  
sách  
thì  
giặc  
cướp  
đều  
là  
con  
đỏ,  
trị  
thất  
sách  
tuy  
kẻ  
tâm  
phúc  
cũng  
hóa  
oan  
gia.  
—  
địa  
vị  
phàm  
phu,  
ai  
lại  
không  
có  
nghiệp  
hoặc?  
Nhưng  
khi  
bình  
thường  
nếu  
đề  
phòng  
trước,  
lúc  
gặp  
cảnh  
duyên,  
phiền  
não  
mới  
không  
bạo  
phát;  
dù  
phát  
khởi  
cũng  
có  
thể  
liền  
tự  
biết  
mà  
dứt  
trừ.  
Những  
cảnh  
làm  
duyên  
để  
khởi  
phiền  
não  
rất  
nhiều.  
Nhưng  
mạnh  
nhứt  
là  
tiền  
của,  
sắc  
đẹp  
và  
chuyện  
ngang  
trái  
bất  
thường.  
Nên  
biết  
của  
tiền  
phi  
nghĩa  
hại  
hơn  
rắn  
độc,  
thì  
không  
còn  
lòng  
tham  
muốn  
khi  
thấy  
của.  
Giúp  
đỡ  
người  
chính  
là  
xây  
đắp  
nền  
phước  
đức  
cho  
mình  
về  
sau,  
biết  
như  
thế,  
khi  
có  
ai  
hoạn  
nạn  
cầu  
cứu,  
không  
vì  
tiếc  
của  
không  
cho,  
mà  
khởi  
lòng  
phiền  
não.  
Về  
sắc  
đẹp,  
lúc  
đối  
trước  
người  
xinh  
tốt  
như  
hoa,  
tợ  
ngọc,  
cho  
đến  
kẻ  
kỹ  
nữ,  
nên  
tưởng  
đó  
là  
chị,  
hoặc  
em  
ruột,  
sanh  
lòng  
cứu  
độ  
xót  
thương,  
tất  
không  
bị  
sắc  
làm  
động  
niềm  
ái  
dục.  
—  
gia  
đình,  
chồng  
vợ  
phải  
kính  
nhau  
như  
khách,  
nên  
xem  
thê  
thiếp  
là  
người  
ơn  
giúp  
đỡ  
lẫn  
nhau  
và  
vì  
sự  
nối  
dõi  
dòng  
họ,  
mới  
không  
bị  
sắc  
dục  
hại  
mình.  
Đến  
như  
gặp  
việc  
ngang  
trái  
nên  
sanh  
lòng  
xót  
thương  
dung  
thứ  
cho  
kẻ  
không  
biết  
lỗi  
lầm,  
chớ  
tranh  
chấp  
hơn  
thua.  
Lại  
tưởng  
rằng:  
kiếp  
trước  
mình  
đã  
từng  
làm  
khổ  
hại  
người,  
hôm  
nay  
bị  
việc  
này  
là  
trả  
nợ  
tiền  
khiên;  
nghĩ  
như  
thế  
tự  
nhiên  
vui  
vẻ,  
không  
sanh  
lòng  
nóng  
giận  
muốn  
báo  
cừu.  
Song,  
những  
phương  
pháp  
trên  
đây  
là  
để  
áp  
dụng  
với  
kẻ  
sơ  
cơ,  
nếu  
bậc  
Đại  
Sĩ  
tu  
hành  
đã  
lâu,  
bao  
nhiêu  
phiền  
não  
đổi  
thành  
tạng  
tâm  
sáng  
suốt,  
muôn  
cảnh  
vẫn  
không  
thật  
tánh,  
những  
việc  
tổn  
hại  
lợi  
ích  
đều  
tự  
nơi  
người  
mà  
thôi.
  
Đến  
như  
luận  
về  
pháp  
môn  
Niệm  
Phật  
thì  
Tín,  
Nguyện,  
Hạnh  
là  
tông  
yếu.  
Ba  
món  
nầy  
đầy  
đủ,  
quyết  
định  
được  
vãng  
sanh.  
Về  
phần  
Tín,  
Nguyện,  
nên  
để  
tâm  
chú  
trọng,  
phải  
một  
lòng  
cầu  
về  
Tây  
Phương,  
chớ  
mong  
kiếp  
sau  
trở  
lại  
làm  
người  
hưởng  
sự  
giàu  
sang.  
Chẳng  
những  
không  
muốn  
thọ  
thân  
vua  
ở  
cõi  
trời,  
người,  
dù  
cho  
thân  
một  
vị  
cao  
tăng  
nghe  
một  
hiểu  
ngàn,  
được  
đại  
tổng  
trì,  
mở  
rộng  
pháp  
hóa  
làm  
lợi  
ích  
chúng  
sanh,  
cũng  
xem  
như  
gốc  
tội  
không  
khởi  
niệm  
ưa  
thích  
(vì  
đó  
là  
ngộ  
chớ  
chưa  
phải  
chứng,  
vẫn  
còn  
bị  
luân  
hồi  
và  
có  
thể  
đọa  
lạc).  
Được  
như  
thế  
thì  
tín  
nguyện  
của  
ta  
mới  
cảm  
đến  
Phật,  
và  
thệ  
nguyện  
của  
Phật  
mới  
có  
thể  
nhiếp  
thọ  
ta.  
Nên  
biết  
cõi  
Cực  
Lạc  
chẳng  
những  
sức  
phàm  
phu  
không  
thể  
đến,  
mà  
chính  
bậc  
thánh  
Tiểu  
Thừa  
cũng  
không  
đến  
được,  
vì  
nơi  
ấy  
là  
cảnh  
bất  
tư  
nghì  
của  
Đại  
Thừa.  
Bậc  
tiểu  
thánh  
hồi  
tâm  
về  
Đại  
Thừa  
mới  
có  
thể  
đến,  
còn  
phàm  
phu  
nếu  
không  
tín  
nguyện  
cảm  
Phật,  
dù  
cho  
có  
tu  
tất  
cả  
thắng  
hạnh  
và  
hạnh  
mầu  
trì  
danh  
cũng  
không  
thể  
vãng  
sanh.  
Cho  
nên,  
tín  
nguyện  
rất  
là  
cần  
yếu.  
Ngài  
Ngẫu  
Ích  
nói:  
'Được  
sanh  
cùng  
chăng,  
toàn  
do  
tín  
nguyện  
có  
hay  
không;  
phẩm  
sen  
cao  
thấp,  
đều  
bởi  
trì  
danh  
sâu  
hoặc  
cạn.'  
Đây  
là  
một  
luận  
án  
sắt,  
dù  
ngàn  
Phật  
ra  
đời  
cũng  
không  
thay  
đổi.  
Với  
lẽ  
này,  
nếu  
cư  
sĩ  
nhận  
chắc,  
mới  
có  
phần  
nơi  
cõi  
Tây  
Phương.
  
Như  
niệm  
Phật  
khó  
quy  
nhất,  
phải  
nhiếp  
tâm  
niệm  
kỹ.  
Phép  
nhiếp  
tâm  
không  
gì  
hơn  
chí  
thành,  
tha  
thiết,  
nếu  
không  
chí  
thành  
mà  
muốn  
quy  
nhứt  
ấy  
là  
điều  
rất  
khó.  
Đã  
chí  
thành  
niệm  
còn  
chưa  
thuần,  
phải  
lắng  
tai  
nghe.  
Không  
luận  
niệm  
thầm  
hay  
ra  
tiếng,  
đều  
phải  
niệm  
khởi  
từ  
nơi  
tâm,  
tiếng  
ra  
từ  
nơi  
miệng  
rồi  
lại  
vào  
tai  
(dù  
niệm  
thầm  
nơi  
ý  
vẫn  
có  
tướng  
miệng  
niệm).  
Tâm  
và  
miệng  
rành  
rẽ,  
tai  
nghe  
rõ  
ràng  
nhiếp  
tâm  
như  
thế,  
vọng  
niệm  
tự  
dứt.  
Nếu  
làn  
sóng  
vọng  
tưởng  
nổi  
trào  
quá  
mạnh,  
nên  
dùng  
phép  
Thập  
Niệm  
Ký  
Số  
đem  
hết  
tâm  
lực  
chuyên  
vào  
câu  
niệm  
Phật,  
thì  
vọng  
tưởng  
bị  
đàn  
áp  
không  
có  
chỗ  
xen  
hở  
để  
nổi  
lên.  
Phép  
này  
nhiếp  
tâm  
rất  
tuyệt  
diệu,  
thuở  
xưa  
những  
vị  
hoằng  
dương  
tông  
Tịnh  
Độ  
chưa  
nói  
đến  
là  
vì  
căn  
cơ  
người  
thời  
ấy  
còn  
sáng  
lẹ,  
không  
cần  
dùng  
cách  
này  
vẫn  
có  
thể  
niệm  
Phật  
được  
quy  
nhứt.  
„n  
Quang  
tôi  
vì  
tâm  
khó  
điều  
phục,  
nhiều  
phen  
dùng  
thử  
mới  
biết  
là  
hay,  
nguyện  
cùng  
những  
người  
độn  
căn  
đời  
sau  
y  
theo  
tu  
tập  
để  
được  
đồng  
sanh  
về  
Cực  
Lạc.  
Thập  
Niệm  
Ký  
Số  
là  
khi  
niệm  
Phật  
phải  
ghi  
nhớ  
rành  
rẽ  
từ  
một  
đến  
mười  
câu,  
hết  
mười  
câu  
liền  
trở  
lại  
một,  
cứ  
như  
thế  
xoay  
vần  
mãi.  
Nhưng  
phải  
niệm  
trong  
vòng  
mười  
câu  
mà  
thôi,  
không  
được  
hai  
hoặc  
ba  
mươi  
câu,  
lại  
không  
nên  
lần  
chuỗi,  
chỉ  
dùng  
tâm  
ghi  
nhớ.  
Nếu  
nhớ  
niệm  
luôn  
một  
mạch  
mười  
câu  
thấy  
khó,  
thì  
phân  
làm  
hai  
đoạn,  
từ  
một  
đến  
năm,  
từ  
sáu  
đến  
mười.  
Nếu  
hoặc  
còn  
thấy  
kém  
sức  
lại  
chia  
làm  
ba  
hơi,  
từ  
một  
đến  
ba,  
bốn  
đến  
sáu,  
bảy  
đến  
mười.  
Cần  
để  
ý:  
Niệm,  
nhớ  
và  
nghe  
phải  
rõ  
ràng,  
vọng  
niệm  
mới  
không  
xen  
vào  
được.  
Dùng  
phép  
này  
lâu,  
sẽ  
được  
nhất  
tâm.  
Nên  
biết  
phép  
Thập  
Niệm  
Ký  
Số  
cùng  
phép  
Thập  
Niệm  
của  
ngài  
Từ  
Vân,  
về  
phần  
nhiếp  
vọng  
thì  
đồng,  
phần  
dụng  
công  
lại  
rất  
khác.  
Phép  
Thập  
Niệm  
tùy  
theo  
hơi  
người  
dài  
ngắn,  
không  
luận  
được  
bao  
nhiêu  
câu  
Phật,  
cứ  
một  
hơi  
kể  
là  
một  
niệm.  
Về  
phép  
này  
mỗi  
buổi  
sớm  
mai,  
chỉ  
dùng  
trong  
mười  
niệm  
mà  
thôi,  
nếu  
quá  
số  
ấy  
lâu  
ngày  
sẽ  
thành  
bị  
lao  
hơi.  
Phép  
Thập  
Niệm  
Ký  
Số  
thì  
niệm  
một  
câu  
biết  
một  
câu,  
mười  
câu  
biết  
mười  
câu,  
từ  
một  
đến  
mười  
rồi  
trở  
lại,  
dù  
cho  
mỗi  
ngày  
niệm  
cho  
đến  
mấy  
muôn  
câu  
cũng  
ghi  
nhớ  
như  
thế.  
Niệm  
như  
vậy  
không  
những  
trừ  
được  
vọng,  
lại  
có  
thể  
dưỡng  
thần,  
vì  
tùy  
sức  
tùy  
ý,  
hoặc  
chậm  
hoặc  
mau,  
không  
chi  
trở  
ngại.  
Lại,  
so  
với  
cách  
niệm  
lần  
chuỗi  
ghi  
số,  
phép  
Thập  
Niệm  
Ký  
Số  
lợi  
ích  
hơn  
nhiều  
vì  
lần  
chuỗi  
thân  
mõi  
nhọc,  
tinh  
thần  
xao  
động,  
còn  
cách  
này  
thì  
thân  
nhàn  
mà  
tâm  
an.  
Chỉ  
những  
khi  
nào  
làm  
việc,  
hoặc  
khó  
ký  
số,  
nên  
khẩn  
thiết  
niệm  
suông,  
đợi  
lúc  
xong  
việc  
lại  
nhiếp  
tâm  
ký  
số.  
Như  
thế  
thì  
vọng  
tưởng  
không  
còn  
tung  
hoành,  
tâm  
cảnh  
an  
trụ  
vào  
câu  
niệm  
Phật.
  
Đức  
Đại  
Thế  
Chí  
Bồ  
Tát  
nói:  
'Nhiếp  
cả  
sáu  
căn,  
tịnh  
niệm  
nối  
luôn,  
được  
Tam  
Ma  
Địa,  
đây  
là  
bậc  
nhứt.'  
Lời  
này  
với  
hạng  
lợi  
căn  
thì  
không  
cần  
luận,  
nếu  
kẻ  
độn  
căn  
như  
chúng  
ta,  
bỏ  
phép  
Thập  
Niệm  
Ký  
Số  
mà  
muốn  
nhiếp  
sáu  
căn,  
nối  
tịnh  
niệm,  
thật  
khó  
vô  
cùng!  
Cách  
niệm  
Phật  
lần  
chuỗi  
chỉ  
nên  
dùng  
trong  
những  
khi  
đi  
đứng,  
còn  
lúc  
tịnh  
dưỡng  
thần,  
nếu  
lần  
chuỗi  
thì  
do  
tay  
động,  
thần  
cũng  
không  
an,  
lâu  
ngày  
có  
thể  
sanh  
bịnh.  
Khác  
hơn  
thế,  
phép  
Thập  
Niệm  
Ký  
Số  
lúc  
đi,  
đứng,  
nằm,  
ngồi  
đều  
dùng  
được,  
nhưng  
khi  
nằm  
chỉ  
nên  
niệm  
thầm,  
nếu  
ra  
tiếng  
đã  
không  
cung  
kính  
lại  
bị  
lao  
hơi,  
nên  
nhớ  
kỹ.
  
Cư  
sĩ  
tuổi  
đã  
năm  
mươi,  
nếu  
muốn  
được  
giải  
thoát  
trong  
hiện  
đời,  
phải  
chuyên  
chú  
nơi  
môn  
Tịnh  
Độ.  
Kinh  
Kim  
Cang,  
Pháp  
Hoa  
nên  
tạm  
gác  
một  
bên,  
đợi  
khi  
nào  
lý  
Tịnh  
Độ  
thông  
suốt,  
niệm  
Phật  
được  
nhứt  
tâm  
rồi  
sẽ  
hay.  
Nếu  
bây  
giờ  
vừa  
nghiên  
cứu  
vừa  
tu  
hành,  
e  
cho  
thời  
gian  
có  
hạn,  
trí  
lực  
không  
kham,  
bên  
nào  
chẳng  
thành  
bên  
nào,  
hai  
sự  
lợi  
ích  
cùng  
bị  
mất  
cả.
  
  
 
  
Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Châu  
Trí  
Mậu (1 - 3)  
 
(^) 
 
 
- 1 -
  
Được  
thơ,  
biết  
ngươi  
sanh  
lòng  
tin,  
muốn  
quy  
y  
Phật  
Pháp.  
Song,  
quy  
y  
Tam  
Bảo  
phải  
dứt  
điều  
ác,  
làm  
việc  
lành,  
gắng  
giữ  
trọn  
luân  
thường,  
phát  
lòng  
tín  
nguyện  
cầu  
sanh  
về  
Tây  
Phương.  
Lại  
phải  
có  
lòng  
thương  
xót  
hộ  
sanh,  
đừng  
giết  
hại,  
và  
trì  
lục  
trai  
hoặc  
thập  
trai.  
Nếu  
chưa  
có  
thể  
dùng  
thanh  
đạm  
trọn  
đời,  
cũng  
chớ  
nên  
quá  
tham  
trong  
sự  
ăn  
uống.  
Như  
thế  
mới  
không  
trái  
với  
tâm  
từ  
bi  
của  
Phật.  
Ngươi  
tên  
Châu  
Mộc,  
vậy  
nay  
ta  
đặt  
cho  
pháp  
danh  
là  
Trí  
Mậu.  
Bởi  
tâm  
tánh  
ví  
như  
cây,  
do  
lửa  
phiền  
não  
thiêu  
đốt  
nên  
cây  
ấy  
héo  
khô.  
Nếu  
có  
trí  
huệ  
thì  
phiền  
não  
không  
sanh,  
và  
cây  
tâm  
tánh  
tự  
nhiên  
tốt  
tươi  
thạnh  
mậu.
  
Muốn  
thọ  
năm  
giới,  
trước  
nên  
xét  
lại  
tâm  
mình,  
như  
có  
thể  
giữ  
được  
mà  
không  
phạm,  
thì  
hỏi  
cư  
sĩ  
Hóa  
Tam  
về  
cách  
tự  
thọ  
giới  
trước  
bàn  
Phật,  
y  
sẽ  
chỉ  
lại  
cho.  
Đã  
quy  
hướng  
Phật  
Pháp,  
phải  
xem  
kỹ  
Văn  
Sao  
của  
ta,  
y  
theo  
thực  
hành,  
mới  
không  
bị  
kẻ  
dung  
thường  
làm  
mê  
hoặc,  
khiến  
cho  
sanh  
tâm  
cầu  
phước  
báo  
đời  
sau,  
hoặc  
mong  
thành  
Tiên  
rồi  
tu  
phép  
luyện  
đơn  
vận  
khí.  
Nếu  
có  
thể  
lãnh  
hội  
ý  
nghĩa  
trong  
bộ  
Văn  
Sao,  
thì  
dù  
có  
trăm  
ngàn  
ngoại  
đạo  
cũng  
không  
thể  
lay  
chuyển  
được  
tâm  
ngươi.  
Chớ  
cho  
rằng  
bộ  
ấy  
không  
đủ  
y  
cứ,  
phải  
biết  
những  
lời  
trong  
đó  
đều  
do  
theo  
ý  
nghĩa  
Kinh  
Phật,  
hoặc  
thành  
ngôn  
của  
các  
bậc  
Tổ  
Sư,  
thiện  
tri  
thức  
mà  
thuật  
lại,  
không  
phải  
tự  
ta  
bịa  
đặt  
viết  
ra.
  
Nên  
nhận  
xét  
kỹ,  
sự  
lợi  
ích  
sẽ  
được  
nhiều.
  
- 2 -
  
Ngươi  
ý  
chí  
rất  
kém,  
tâm  
lại  
quá  
cao,  
tuy  
nói  
vâng  
lời  
ta,  
thật  
ra  
toàn  
là  
y  
theo  
thiên  
kiến  
của  
mình.  
Trong  
môn  
Tịnh  
Độ,  
lòng  
tin  
là  
cội  
gốc.  
Tin  
được  
chắc,  
kẻ  
phạm  
tội  
ngũ  
nghịch  
thập  
ác  
đều  
có  
thể  
vãng  
sanh;  
tin  
chưa  
vững,  
bậc  
thông  
tông  
thông  
giáo  
còn  
hoặc  
nghiệp  
cũng  
không  
duyên  
phận.  
Ngươi  
đã  
chẳng  
phải  
là  
bậc  
thông  
tông  
giáo,  
có  
thể  
nương  
sức  
mình  
trừ  
hoặc  
nghiệp  
để  
khỏi  
sanh  
tử,  
lại  
không  
tin  
nơi  
sức  
Phật  
và  
công  
đức  
của  
tự  
tánh  
đều  
không  
thể  
nghĩ  
bàn,  
thì  
làm  
sao  
để  
giải  
thoát?  
Phải  
biết,  
nếu  
đủ  
tín  
nguyện  
sâu  
thiết  
cầu  
về  
Tây  
Phương,  
không  
người  
nào  
chẳng  
được  
vãng  
sanh.  
Niệm  
Phật  
là  
pháp  
tròn  
tắt  
mau  
lẹ  
để  
thoát  
nẻo  
luân  
hồi;  
với  
sự  
hướng  
thượng  
của  
môn  
nầy,  
người  
còn  
chưa  
biết,  
lại  
sanh  
lòng  
háo  
thắng  
đi  
nghiên  
cứu  
Khởi  
Tín  
Luận!  
Luận  
Khởi  
Tín  
tuy  
là  
cương  
yếu  
của  
Phật  
Pháp,  
nhưng  
khó  
đem  
sự  
lợi  
ích  
cho  
người  
căn  
tánh  
kém  
và  
kẻ  
sơ  
cơ.  
Dù  
cho  
nghiên  
cứu  
Luận  
Khởi  
Tín  
được  
thông  
suốt  
không  
còn  
nghi,  
đến  
khi  
dụng  
công  
lại  
phải  
y  
theo  
phép  
niệm  
Phật  
cầu  
sanh  
mới  
là  
ổn  
thỏa.  
Nếu  
nói  
về  
lý  
giải,  
lại  
còn  
có  
những  
nghĩa  
của  
pháp  
tướng,  
thiền,  
giáo  
rất  
nhiệm  
mầu,  
ngươi  
làm  
sao  
thông  
suốt  
cho  
hết  
được?  
Tâm  
ngươi  
cao  
như  
thế,  
mà  
không  
biết  
hạn  
lượng  
sự  
cao  
theo  
sức  
mình!  
Ngươi  
tự  
cho  
rằng  
'căn  
tánh  
hèn  
kém,  
khó  
mong  
sanh  
về  
Tây  
Phương,  
chỉ  
cầu  
không  
đọa  
tam  
đồ  
cũng  
vui  
lòng',  
đâu  
biết  
nếu  
chẳng  
được  
vãng  
sanh,  
tương  
lai  
sẽ  
bị  
đọa  
vào  
ác  
đạo?  
Quan  
niệm  
ấy  
đã  
không  
hợp  
với  
giáo  
huấn  
của  
Phật,  
lại  
trái  
lời  
khuyên  
bảo  
của  
ta,  
mà  
gọi:  
'vâng  
theo  
thực  
hành,  
một  
lòng  
niệm  
Phật',  
là  
thế  
nào?
  
Nay  
ngươi  
chức  
nghiệp  
tầm  
thường,  
tư  
cách  
chưa  
phải  
là  
bậc  
cao  
thượng,  
sự  
lập  
chí  
như  
thế,  
thật  
khiến  
cho  
người  
đáng  
than  
thở  
và  
buồn  
cười?  
Nên  
dứt  
hẳn  
mối  
cao  
vọng  
cầu  
làm  
bậc  
đại  
thông  
gia  
ấy  
đi,  
rồi  
chuyên  
tâm  
nghiên  
cứu  
các  
kinh  
sách  
Tịnh  
Độ  
và  
xem  
lại  
mấy  
bức  
thơ  
ta  
gửi  
cho  
Cao  
Thiệu  
Lân,  
Từ  
Nữ  
Sĩ  
trong  
Văn  
Sao,  
y  
theo  
đó  
thực  
hành.  
Chớ  
nên  
vì  
mình  
căn  
tánh  
hèn  
kém  
mà  
nâng  
cao  
sự  
vãng  
sanh,  
để  
việc  
ấy  
ra  
vòng  
ngoài.  
Phải  
dùng  
câu  
niệm  
Phật  
làm  
bổn  
mạng  
ngươn  
thần,  
tùy  
lúc  
động  
tịnh  
đều  
nắm  
chắc  
đừng  
buông  
bỏ.  
Lại,  
những  
tâm  
niệm,  
hành  
vi  
phải  
giữ  
sao  
cho  
hợp  
với  
tông  
chỉ:  
dứt  
các  
điều  
ác,  
làm  
những  
việc  
lành.  
Ngoài  
ra,  
nếu  
có  
sức  
dư,  
không  
ngại  
gì  
tụng  
trì  
kinh  
chú,  
nên  
lấy  
sự  
chí  
thành  
làm  
cội  
gốc,  
đừng  
gấp  
muốn  
suốt  
thông  
nghĩa  
lý.  
Nếu  
trước  
vội  
muốn  
thấu  
hiểu,  
chẳng  
chuyên  
nơi  
sự  
tụng  
niệm  
chí  
thành,  
dù  
có  
thấu  
hiểu  
cũng  
không  
thật  
ích,  
huống  
chi  
khó  
thấu  
hiểu  
ư?  
Đến  
như  
các  
môn  
pháp  
tướng,  
thiền,  
giáo,  
nghiên  
cứu  
trọn  
đời  
cũng  
khó  
nắm  
được  
chỗ  
quy  
thú,  
dù  
được,  
còn  
phải  
dứt  
sạch  
hết  
hoặc  
nghiệp  
mới  
thoát  
khỏi  
luân  
hồi.  
Nói  
đến  
việc  
nầy,  
e  
rằng  
mộng  
không  
thành  
mộng  
đó  
thôi!  
Bộ  
Văn  
Sao  
của  
ta,  
ngươi  
xem  
chưa  
kỹ,  
nên  
lời  
nói  
ra,  
cao  
thì  
tới  
mây  
xanh,  
thấp  
lại  
tận  
đáy  
biển  
thẳm.  
Trong  
ấy,  
luôn  
luôn  
nhắc  
đến  
những  
kinh  
sách  
nên  
xem,  
cách  
thức  
xem  
như  
thế  
nào,  
và  
sự  
khó  
được  
lợi  
ích  
của  
các  
môn  
pháp  
tướng,  
thiền,  
giáo.  
Sở  
dĩ  
có  
sự  
khó  
dễ  
vì  
pháp  
môn  
Tịnh  
Độ  
nương  
nhờ  
sức  
từ  
của  
Phật,  
các  
pháp  
môn  
khác  
chỉ  
dùng  
sức  
mình.  
Những  
môn  
kia  
đều  
là  
giáo  
lý  
thông  
thường,  
như  
sĩ  
phu  
trong  
đời  
do  
tài  
đức  
mà  
làm  
quan  
cao  
thấp.  
Môn  
Tịnh  
Độ  
là  
giáo  
lý  
đặc  
biệt,  
như  
thái  
tử  
mới  
sanh  
đã  
tôn  
quí  
hơn  
quần  
thần.  
Vì  
thế,  
hai  
bên  
không  
thể  
sánh  
nhau,  
mà  
phàm  
phu  
nghiệp  
chướng  
vẫn  
nhiều,  
há  
chẳng  
dè  
dặt  
trong  
sự  
lựa  
chọn  
pháp  
môn  
để  
tu  
hành  
ư?
  
Ngươi  
đã  
tự  
nhận  
năng  
lực  
kém  
hèn,  
kiếp  
người  
có  
hạn,  
sao  
còn  
mãi  
theo  
cao  
vọng  
của  
mình?  
Việc  
ấy  
ta  
không  
ép,  
nếu  
ngươi  
làm  
được  
bậc  
đại  
thông  
gia  
thì  
cũng  
hân  
hạnh  
cho  
Phật  
giáo,  
sợ  
e  
khi  
làm  
chẳng  
xong,  
môn  
Tịnh  
Độ  
lại  
chưa  
tin  
chắc,  
rồi  
ra  
hỏng  
mất  
cả  
đôi.  
Giả  
sử  
đời  
nay  
có  
tu  
được  
chút  
ít  
công  
đức,  
kiếp  
sau  
nhất  
định  
sẽ  
lạc  
vào  
vòng  
phước  
báo  
của  
thế  
gian.  
Ngươi  
thử  
nghĩ:  
người  
giàu  
sang  
đã  
mấy  
ai  
không  
tạo  
nghiệp?  
Như  
ngày  
nay  
vận  
nước  
nguy  
biến,  
dân  
chúng  
lầm  
than,  
đều  
do  
bởi  
ảnh  
hưởng  
phước  
báo  
của  
những  
người  
đời  
trước  
tu  
hành  
không  
trí  
huệ.  
Khi  
đã  
lạc  
vào  
kiếp  
sau,  
ngươi  
làm  
thế  
nào  
bảo  
đảm  
được  
mình  
khỏi  
mê  
lầm,  
không  
đọa  
ác  
đạo?  
Nếu  
chẳng  
sanh  
về  
Tây  
Phương,  
một  
đời  
không  
đọa  
còn  
có  
thể,  
hai  
đời  
không  
đọa  
rất  
ít  
lắm  
đó!
  
- 3 -
  
Phật  
nói  
kinh  
chú  
rất  
nhiều,  
đâu  
có  
ai  
thọ  
trì  
cho  
hết  
được.  
Nên  
người  
xưa  
chỉ  
lựa  
những  
thứ  
cần  
yếu  
để  
làm  
nhật  
khóa.  
Sớm  
thì  
tụng  
Lăng  
Nghiêm,  
Đại  
Bi,  
Thập  
Chú,  
Tâm  
Kinh,  
xong  
lại  
niệm  
Phật  
hồi  
hướng  
Tây  
Phương.  
Tối  
đến  
tụng  
Kinh  
Di  
Đà,  
văn  
Đại  
Sám  
Hối,  
Mông  
Sơn,  
rồi  
niệm  
Phật  
hồi  
hướng.  
Hiện  
nay  
các  
chùa  
đều  
bớt  
công  
phu,  
thời  
mai  
chỉ  
tụng  
Lăng  
Nghiêm,  
Tâm  
Kinh;  
thời  
hôm  
tụng  
Kinh  
Di  
Đà,  
văn  
Mông  
Sơn,  
cách  
ngày  
lại  
tụng  
Kinh  
Đại  
Sám  
Hối,  
Mông  
Sơn.  
Ngươi  
nói  
nghi  
nhật  
tụng  
trong  
tòng  
lâm  
kinh  
chú  
rất  
nhiều,  
đó  
là  
những  
thứ  
phụ  
lục  
ngoài  
hai  
thời  
khóa.  
Người  
cư  
sĩ  
tại  
gia  
có  
thể  
y  
theo  
thời  
khóa  
của  
nhà  
thiền,  
hoặc  
tùy  
ý  
mình  
lập  
riêng.  
Như  
sớm  
tối  
đều  
tụng  
Kinh  
Di  
Đà,  
chú  
Vãng  
Sanh,  
niệm  
Phật;  
hoặc  
sớm  
tụng  
chú  
Đại  
Bi,  
niệm  
Phật,  
tối  
tụng  
Kinh  
Di  
Đà,  
chú  
Vãng  
Sanh,  
niệm  
Phật,  
hay  
trì  
Kinh  
Kim  
Cang  
cũng  
được.  
Nhưng  
không  
luận  
tụng  
niệm  
kinh  
chú  
chi,  
đều  
phải  
niệm  
Phật  
hồi  
hướng,  
mới  
hợp  
với  
tông  
chỉ  
tu  
Tịnh  
Nghiệp.
  
Những  
điều  
ngươi  
bày  
tỏ,  
tuy  
cũng  
là  
ý  
tốt,  
song  
thật  
ra  
không  
có  
chủ  
định,  
chỉ  
theo  
hoàn  
cảnh  
đổi  
dời.  
Kinh  
nào,  
chú  
nào,  
lại  
chẳng  
ngợi  
khen  
công  
đức  
thù  
thắng?  
Theo  
quan  
niệm  
của  
ngươi,  
tụng  
kinh  
nầy  
sẽ  
mất  
kinh  
kia,  
trì  
chú  
này  
tất  
buông  
chú  
nọ,  
bỏ  
hết  
nghĩ  
tiếc  
uổng,  
tụng  
trì  
cả  
sức  
lại  
không  
kham.  
Như  
thế  
có  
được  
gọi  
là  
người  
chơn  
tu  
hiểu  
lý  
hay  
chăng?  
Suy  
rộng  
ra,  
nếu  
ngươi  
gặp  
nhà  
tu  
Thiền  
khen  
pháp  
Thiền,  
bác  
Tịnh  
Độ,  
cũng  
bắt  
chước  
họ  
tham  
thiền;  
cho  
đến  
các  
môn  
khác  
như:  
Thiên  
Thai,  
Mật  
Tông,  
Pháp  
Tướng,  
Hiền  
Thủ,  
mỗi  
khi  
gặp  
bậc  
tri  
thức  
đề  
xướng,  
tất  
ngươi  
sẽ  
mất  
chủ  
định  
bỏ  
đây  
theo  
kia.  
Chẳng  
biết  
ngươi  
căn  
tánh  
bậc  
nào,  
mà  
muốn  
thông  
suốt  
hết  
các  
pháp  
như  
thế?  
Ta  
chỉ  
e  
cho  
ngươi  
nghiệp  
sâu  
trí  
cạn,  
khi  
làm  
nhà  
đại  
thông  
gia  
không  
được,  
lại  
bỏ  
luôn  
cả  
pháp  
nương  
sức  
Phật  
vãng  
sanh  
của  
môn  
Tịnh  
Độ,  
để  
lúc  
lâm  
chung  
nếu  
chẳng  
đi  
đến  
vạc  
dầu  
lò  
lửa,  
quyết  
lạc  
vào  
bụng  
ngựa  
thai  
lừa!  
Giả  
sử  
may  
mắn  
không  
mất  
thân  
người  
chăng  
nữa,  
lại  
do  
đời  
nay  
tuy  
có  
công  
tu  
song  
thiếu  
chánh  
trí,  
nên  
nhân  
đó  
hưởng  
được  
si  
phước,  
rồi  
tạo  
nghiệp  
ác,  
khi  
vô  
thường  
đến,  
cũng  
đi  
thẳng  
vào  
tam  
đồ.  
Chừng  
ấy  
muốn  
nghe  
tên  
trời,  
đất,  
cha,  
mẹ  
còn  
không  
được,  
huống  
nữa  
là  
biết  
pháp  
môn  
Tịnh  
Độ  
ư?  
Ngươi  
xem  
Văn  
sao  
của  
ta  
hiểu  
như  
thế  
nào?  
Phải  
biết,  
một  
câu  
A  
Di  
Đà  
Phật,  
nếu  
trì  
niệm  
đến  
chỗ  
cùng  
cực,  
thành  
Phật  
còn  
có  
dư.  
Ngươi  
cho  
rằng  
tụng  
Kinh  
Di  
Đà  
và  
niệm  
Phật,  
không  
thể  
diệt  
được  
định  
nghiệp  
hay  
sao?  
Phật  
Pháp  
cũng  
như  
tiền,  
tại  
người  
khéo  
dùng;  
ngươi  
có  
tiền,  
làm  
việc  
gì  
lại  
không  
được?  
Nếu  
ngươi  
có  
thể  
chuyên  
tu  
một  
pháp,  
cầu  
sự  
chi  
lại  
chẳng  
thành?  
Lựa  
là  
phải  
khăng  
khăng  
trì  
chú  
này  
tụng  
kinh  
kia  
mới  
được  
công  
đức  
như  
thế,  
ngoài  
ra  
không  
được  
những  
công  
đức  
khác  
hay  
sao?  
Nếu  
khéo  
thể  
theo  
lời  
ta,  
tự  
nhiên  
hiểu  
một  
việc  
rõ  
trăm  
việc;  
bằng  
chẳng  
thế,  
dù  
nói  
cho  
nhiều,  
tâm  
ngươi  
cũng  
không  
chủ  
định,  
nào  
có  
ích  
gì?
  
Phàm  
phu  
ở  
trong  
mê,  
lòng  
tin  
không  
vững,  
nên  
thường  
có  
những  
việc  
khi  
tu  
hành  
khi  
tạo  
nghiệp,  
thoạt  
tin  
tưởng  
thoạt  
nghi  
ngờ.  
Đó  
cũng  
bởi  
lúc  
ban  
sơ  
người  
dạy  
không  
biết  
cách,  
nếu  
trước  
tiên  
đem  
việc  
nhân  
quả  
thiển  
cận  
chỉ  
bảo  
lần  
lần,  
thì  
đâu  
đến  
đỗi  
có  
sự  
mê  
lầm  
trái  
ngược  
như  
thế!  
Nhưng  
tội  
đã  
qua  
tuy  
rất  
nặng,  
nếu  
hết  
lòng  
sám  
hối  
sửa  
đổi,  
y  
theo  
sự  
hiểu  
biết  
chơn  
chánh,  
chí  
quyết  
tu  
tịnh  
nghiệp,  
lợi  
mình  
lợi  
người,  
thì  
tội  
chướng  
tiêu  
mòn,  
tâm  
tánh  
sáng  
tỏ.  
Nên  
kinh  
nói:  
'Trong  
đời  
có  
hai  
bậc  
anh  
dũng,  
một  
là  
người  
không  
tạo  
tội,  
hai  
là  
kẻ  
đã  
tạo  
mà  
biết  
sám  
hối.'  
Một  
chữ  
hối  
phải  
tự  
đáy  
lòng  
phát  
lộ,  
nếu  
không  
thật  
tâm  
ăn  
năn  
chừa  
cải,  
dù  
nói  
lắm  
cũng  
là  
thừa.  
Ví  
như  
người  
đọc  
phương  
thuốc  
mà  
không  
chịu  
uống,  
làm  
sao  
bệnh  
được  
lành?  
Nếu  
có  
thể  
y  
theo  
cách  
trị  
dùng  
thuốc,  
chắc  
chắn  
bệnh  
sẽ  
tiêu  
trừ,  
thân  
tâm  
yên  
ổn.  
Chỉ  
lo  
cho  
kẻ  
lập  
chí  
chẳng  
bền,  
thành  
ra  
cảnh  
một  
ngày  
phơi  
nắng  
mười  
ngày  
để  
lạnh,  
rồi  
cũng  
luống  
có  
danh  
suông,  
không  
phần  
thật  
ích  
mà  
thôi!
  
  
---o0o---