| Thơ khuyên dạy một vị Tỳ Kheo Ni   
Thơ gởi Đế Nhàn    
Pháp Sư Một bức thơ phúc đáp khắp nơi   
   
Thơ đáp Pháp Hải Đại Sư   
 | 
   
   
Thơ khuyên dạy một vị Tỳ Kheo Ni 
  
  
Đêm ngày thấm thoắt,    
mùa tiết đổi dời, thời gian chuyển biến âm thầm, không    
giây phút nào dừng nghỉ! Có phải tạo vật hiện ra tướng    
lưỡi rộng dài, diễn nói pháp mầu, cho chúng sanh nhận thấy    
kiếp người vô thường, vinh hoa giả tạm, mau tìm đường    
giải thoát để khỏi bị trầm luân đó ư? Ngươi đã    
chán mùi phú quí, tìm học đạo mầu, phải gắng sức chuyên    
tu, chớ nên lần lựa qua ngày, vì mạng người chỉ mong manh    
trong hơi thở. Nên xét tự thân tuy là ngũ chướng, song tâm    
tánh vẫn đủ ba đức    
niết bàn, mà cố rửa sạch tập    
tánh người nữ và chuyên trì thánh hiệu đức    
A Di Đà. Thường tưởng nghĩ cõi Ta    
Bà rất nên nhơ ác, miền Cực Lạc chính là chốn gia hương,    
chớ mong phước báo hiện tại hoặc đời    
sau, chỉ nguyện khi mạng chung được về Cực Lạc. Nếu sớm    
chiều tha thiết, mỗi niệm không rời, niệm đến công sức    
thuần thục, tự nhiên đạo cảm ứng thông nhau, khi lâm chung    
chắc sẽ được toại nguyện. Lúc đã về Tịnh Độ, tỏ ngộ    
lý vô sanh rồi, nhìn lại cõi Ta Bà,    
thấy sự vinh hiển giàu sang chẳng khác nào ánh nắng, hoa    
không và ngục tù, biển độc!    
Nhưng muốn đạt chí nguyện, điều cần yếu là    
trước phải dứt trừ tập nhiễm mới dễ thành tựu sự    
vãng sanh. Kinh Phật thường nói: 'Người giàu sang khó học đạo,    
người nữ cũng khó học đạo.' Bởi người giàu    
sang phần nhiều hay quen tánh kiêu mạn, xa xí, ít chịu nhún    
nhường để xét sửa mình và tiếp đãi người. Như thế, đâu    
dễ dứt mối âu lo, xóa tan trần niệm, để cõi    
lòng vắng mà cầu đạo ư? Người nữ thì ưa sửa soạn dung    
nghi, thường đem lòng đố    
kỵ, đâu biết rằng dù cho hương trời    
sắc nước, vẫn là túi phẩn đẫy    
nhơ; đã luyến huyễn hình, làm sao ngộ    
đạo? Đức Như    
Lai vì trị những chứng bệnh ấy, chỉ    
dạy phép quán Tứ Niệm Xứ, quán thân không sạch, thọ là    
khổ, tâm vô thường và pháp vô ngã. Nếu thành tựu phép    
quán nầy, thì lòng tập nhiễm luyến sắc thân, cậy quyền    
thế, sẽ tiêu diệt như điểm tuyết giữa lò hồng.
   
Ngươi dẫu là người nữ dòng trâm anh đi xuất    
gia, cần phải trừ sạch tập tánh kiêu xa, trang điểm, khiến    
cho không còn mảy may nào, về sau mới có phần thoát khổ. Hiện    
nay chánh pháp suy yếu, ma ngoại tung hoành, khó gặp được thầy    
hay bạn tốt, phải tìm thầy bạn trong gương mẫu của người    
xưa. Nên đọc kỹ    
những quyển: Tỳ Kheo Ni Truyện, Thiện Nữ Nhơn Truyện, Tịnh    
Độ Thập Yếu, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, mới tìm được    
những tấm gương sáng, không còn sợ    
lạc vào đường tà. Gần đây    
tăng ni ít bậc thanh tu, phần nhiều là kẻ không đúng phép,    
chẳng nên lạm thâu đồ chúng, để tránh sự hư rối trong    
đạo Phật. Lại giữ mình theo thanh    
quy, gắng sức tu tịnh nghiệp, làm sao cho khi sống thành người    
khuôn mẫu, lúc thác dự hội Liên Trì. Như thế mới không phụ    
chí vượt ra hầm lửa muôn tầm, mới chẳng uổng làm con của    
Phật. Phải cương quyết cố gắng, chớ quên lời ta!   
   
   
 
   
 
   
  
Thơ gởi Đế Nhàn    
Pháp Sư  
  
  
Ấn Quang từ lúc mới xuất gia liền tin pháp    
môn Tịnh Độ, nhưng vì nghiệp chướng    
che lấp, trong hai    
mươi năm nay, ngày luống qua ngày. Nghĩ    
những thẹn khi tự thấy miệng tuy niệm Phật, song lòng    
không nhiễm đạo!    
Gần đây, nhờ ơn Pháp Sư khuyên nhắc, xin thề không dám để    
phụ tấm lòng chiếu cố, xót thương.    
Chỉ khổ nỗi hôn trầm, tán loạn thay nhau    
đánh đổ, đạo lực không thêm được chút nào,    
lối cũ vẫn còn nguyên dấu cũ. Cho nên mỗi ngày tôi xem hơn    
mười tờ tịnh điển,    
mong nương theo ngôn hạnh sáng suốt của người xưa để phát    
lòng thẳng tấn.
   
Pháp môn Bảo Vương Tùy Tức, tôi thử dùng    
thì thấy vọng niệm không còn sôi nổi như lúc trước, tưởng    
rằng lâu ngày chắc cũng có lúc được nhìn cảnh mây tạnh    
trời trong. Tôi tra trong Lạc Bang Văn Loại và Thánh hiền Lục    
đều thấy có    
chép đoạn này, bỗng chợt hiểu    
phép Thập Niệm mượn hơi nhiếp tâm của ngài Từ Vân là căn    
cứ ở nơi đây. Và, trong bộ Liên    
Tông Bảo Giám cũng có nói đến    
nữa. Như thế đủ thấy người xưa liệu biết cơ nghi đời    
mạt pháp, nếu phi phương pháp nầy chắc khó nỗi gia công,    
nên đã dự lập ra trước. Nhưng cổ nhơn ít ai đem môn Bảo    
Vương Tùy Tức để giáo hóa, vì thuở    
trước căn tánh người còn sáng lẹ, một khi phát lòng quả    
quyết, tự được    
nhất tâm. Đời nay, người chướng nặng căn độn như tôi,    
e đến chết cũng không được cảnh giới không loạn. Vì    
thế, tôi không dám giấu sự dở riêng của mình, mong thỉnh    
ý nơi bậc cao minh; vậy có nên thực hành cùng chăng, xin nhờ    
chỉ rõ? Tôi lại nghĩ: phép này nhiếp cả Ngũ Đình Tâm    
Quán, nếu có thể theo hơi thở mà niệm, tức là gồm đủ    
hai môn: Sổ Tức và Niệm Phật. Nếu nhiếp tâm niệm Phật    
thì lòng tham nhiễm lần lần dứt tuyệt, sân hận không còn    
lẫy lừng, khi hôn trầm tán loạn đã lui, trí huệ liền hiện    
mà phá luôn cả si mê nữa. Pháp môn nhiếp sáu căn    
của đức Thế Chí, theo ngu ý thì những    
người niệm Phật lơ là hiện thời, dường như chẳng nên    
dùng, vì nếu không lần chuỗi ghi số, họ sẽ trở thành biếng    
trễ. Khác hơn thế, những ai quyết tâm niệm Phật, nếu bỏ    
phép này, nhất định khó thành Tam Muội.
   
Pháp Sư nương bản nguyện lợi sanh, tự mình    
tuy không dùng, nhưng cũng nên vì người thí nghiệm, để    
dạy kẻ hậu lai. Phép nhiếp sáu căn với bậc lợi cơ, trong    
một hai thất, quyết sẽ được không loạn. Dù cho hạng ngu    
kém như tôi, nếu cố gia công hoặc tám năm hay mười năm,    
tưởng may ra có thể được nhất tâm.   
   
 
   
   
  
Một bức thơ phúc đáp khắp   
nơi   
  
  
  
Lời văn tuy quê thật,   
  
  
nhưng nghĩa lý vẫn căn    
cứ trong kinh.   
   
Nếu có ai y theo    
đây mà làm,
   
 sự lợi ích sẽ    
rộng lớn vô cùng!
   
   
   
Ấn Quang Pháp Sư
   
   
-1-
  
  
Pháp môn Tịnh Độ trùm khắp cả ba căn, gồm    
thâu hàng lợi độn, là đại pháp của đức Như Lai, để mở    
phương tiện cho tất cả thánh phàm đều được giải thoát    
sanh tử, lên ngôi Bất Thối ngay trong    
hiện đời. Với pháp mầu nhiệm đặc biệt nầy mà    
không tin không tu, thật là đáng    
thương, đáng tiếc!!
   
Pháp môn Tịnh Độ lấy tín, nguyện, hạnh    
làm tông chỉ.
   
Tín là ta phải tin cõi Ta Bà có vô lượng sự    
khổ; tin cõi Cực Lạc có vô lượng điều vui; tin ta là phàm    
phu đầy nghiệp lực,    
quyết không thể nương cậy vào sức    
mình để dứt hoặc    
chứng chơn, thoát sanh tử ngay trong hiện đời; tin Phật A Di    
Đà có lời thề nguyền rộng lớn, nếu    
chúng sanh nào niệm danh hiệu Ngài, cầu về nước Ngài, khi mạng    
chung sẽ được Ngài tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc.
   
Nguyện là ta nên nguyện mau ra khỏi thế giới    
nầy, nguyện sớm sanh về cõi vui kia.
   
Hạnh là ta phải chí thành khẩn thiết niệm    
câu Nam Mô A Di Đà Phật, mỗi thời mỗi khắc đừng    
để tạm quên, tùy theo hoàn cảnh gấp    
hoãn lập một khóa trình, sớm tối lễ bái trì tụng trước    
bàn Phật. Ngoài thời khóa tụng, những khi đi    
đứng nằm ngồi và làm những công    
việc không dụng tâm, đều nên niệm Phật. Lúc ngủ nghỉ phải    
niệm thầm, không nên ra tiếng và chỉ niệm bốn chữ A Di Đà    
Phật để dễ nhiếp tâm. Lại, những khi    
y phục không chỉnh tề, hoặc giặt rửa, tắm gội, đại tiểu    
tiện, cho đến lúc đi ngang qua chỗ không sạch sẽ, cũng đều    
phải niệm thầm. Chí tâm niệm thầm, công đức cũng đồng    
như niệm ra tiếng. Trong những lúc ấy nếu niệm ra tiếng    
thì chẳng hợp nghi thức và có    
lỗi không cung kính. Không luận niệm lớn tiếng, nhỏ tiếng,    
niệm Kim Cang hoặc niệm thầm, đều phải trong tâm ghi nhớ    
rành rẽ rõ ràng, miệng niệm rành rẽ    
rõ ràng và hai tai nghe rành rẽ rõ ràng. Niệm như thế thì    
tâm không còn dong ruổi theo cảnh ngoài, vọng    
tưởng lần dứt, câu niệm Phật lần thuần, công đức rất    
lớn.
   
- 2 -
   
Người niệm Phật phải hiếu dưỡng cha mẹ,    
phụng thờ sư trưởng, tâm từ bi không giết hại, tu mười    
nghiệp lành (Thân không sát sanh, trộm cướp, tà dâm; miệng    
không nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói hung ác; ý    
không tham dục, giận hờn, ngu si, tà kiến). Lại cần phải:    
cha lành, con thảo, anh em thương kính, chồng vợ thuận hòa,    
chủ nhân, tớ trung, mỗi người đều giữ tròn bổn phận.    
Ta chỉ nên làm hết nhiệm vụ mình, đừng    
so đo phiền trách người khác đối với mình    
có trọn cùng không. Nếu người nào đối    
với gia đình xã hội làm tròn thiên    
chức, đó là người lành. Người lành mà niệm Phật thì dễ    
có cơ cảm, quyết định    
khi lâm chung được Phật tiếp dẫn sanh về Tây Phương vì    
tâm hạnh hợp với Phật. Trái lại, những ai miệng tuy niệm    
Phật, song lòng không nhiễm đạo,    
đối với cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, bạn bè    
làng xóm không tròn bổn phận, thì tâm hạnh trái với Phật,    
khó được vãng sanh. Tại sao thế? Bởi người ấy tâm không    
điềm tịnh thuần hòa, tự sanh ra mối não phiền chướng ngại,    
nên khó được cảm    
thông với Phật, đó cũng là lẽ tất    
nhiên.
   
- 3 -
   
Người niệm Phật nên khuyên thân bằng quyến    
thuộc và tất cả đồng    
nhân đều niệm Nam Mô A Di Đà Phật    
và Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. (Mỗi ngày như niệm Phật    
1.000 câu thì niệm Quán Âm 500 câu, niệm Phật 10.000 câu thì    
niệm Quán Âm 5.000 câu. Niệm nhiều ít so theo đây mà gia giảm).    
Ta đã tìm được    
con đường giải thoát yên ổn, lại    
nỡ nào để cho đấng    
sanh thành, người quyến thuộc cùng tất    
cả đồng nhân mất sự lợi ích lớn, chìm trong biển khổ    
ư? Huống chi giữa cõi đời nhiều hoạn nạn, khó tránh sự    
hiểm nguy như hiện nay, nếu có thể thường niệm Phật và    
Quán Âm, tất sẽ được lượng từ bi ủng hộ, gặp dữ hóa    
lành. Giả sử không tai nạn mà chí tâm trì niệm, cũng sẽ    
được nghiệp tiêu trí sáng, chướng hết phước nhiều. Hơn    
nữa, khuyên người niệm Phật cầu sanh Tây Phương, tức là    
thành tựu kẻ phàm phu làm Phật, công đức    
rất lớn, đem công đức ấy hồi hướng vãng    
sanh tất sẽ mãn nguyện.
   
- 4 -
   
Người niệm Phật khi tụng kinh, trì chú, lễ    
bái, sám hối, cứu tai nạn, giúp kẻ nghèo, tất cả công đức    
lành đều phải hồi hướng vãng sanh Tây Phương, không nên cầu    
hưởng phước báo ở cõi trời, cõi người, trong hiện tại    
hoặc đời sau. Nếu có tâm niệm ấy thì mất phần vãng sanh    
và phải bị chìm đắm trong biển luân hồi khổ não. Nên biết,    
hưởng phước càng nhiều tất gây nghiệp càng lớn, qua một    
đời sau nữa quyết    
khó khỏi đọa vào đường địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh.    
Chừng ấy muốn trở lại làm thân người, được nghe pháp    
hiện đời giải thoát của môn Tịnh Độ, còn    
khó hơn lên trời. Phật dạy chúng sanh niệm Phật cầu về    
Tây Phương, là vì chúng sanh mà giải quyết vấn đề    
sanh tử ngay trong hiện kiếp. Nếu chỉ cầu đời sau hưởng    
phước báo ở cõi nhân thiên tức là    
trái với lời Phật dạy, như đem    
hạt bảo châu vô giá đổi lấy một thẻ đường để ăn, há    
chẳng đáng tiếc lắm ư? Kẻ tối tăm niệm Phật không cầu    
vãng sanh mà cầu hưởng phước báo,    
cũng như đây không khác.
   
- 5 -
   
Người niệm Phật không nên tập theo lối    
tham cứu của nhà tu thiền. Vì kẻ tu thiền hầu hết đều    
không chú trọng về việc tín nguyện vãng sanh. Dù có niệm    
Phật, họ chỉ chú trọng vào câu 'Niệm Phật đó là ai?' để    
cầu khai ngộ mà thôi. Ta chỉ nên niệm Phật cầu sanh Tây Phương,    
khi được thấy đức    
A Di Đà lo gì không khai ngộ? Nếu ở    
cõi này tu thiền, như hoặc nghiệp dứt hết thì có thể    
thoát sanh tử; thảng như hoặc nghiệp chưa dứt thì đã    
không thể cậy vào sức mình để giải thoát, lại vì không    
tín nguyện nên không được nương nhờ sức Phật ra khỏi luân    
hồi. Hai bên tự lực và Phật lực đều    
không nhờ cậy được, người ấy đâu thể nào    
thoát khỏi trần lao? Nên biết bậc pháp thân Bồ Tát khi chưa    
thành Phật đều phải nhờ oai lực của Phật, huống chi ta là    
phàm phu đầy nghiệp chướng mà ưa luận về sức mình,    
không cầu sức Phật ư? Lời ấy tuy cao, song xét lại hành vi    
thật là thấp kém! Sự hơn kém của Phật lực và tự lực   
khác    
xa nhau như trời vực, nguyện đồng nhân nên    
thể tất nghĩa nầy!
   
- 6 -
   
Người niệm Phật không nên bắt chước kẻ    
ngu tối, làm những việc hoàn thọ sanh, gởi kho. Bởi sự    
hoàn thọ sanh, trong Kinh Phật không có nói, do người sau bày    
đặt ra. Còn gởi kho là muốn cho mình khi chết rồi thành quỉ,    
nên mới sắm trước tiền của đồ vật cho thân quỉ dùng.    
Đã có tâm niệm muốn làm quỉ thì khó được vãng sanh. Như    
người nào chưa làm thì thôi, nếu đã làm, phải bạch rõ trước    
bàn Phật như vầy: 'Đệ tử là... chỉ cầu vãng sanh, những    
đồ minh khố đã gởi khi trước, xin đem chẩn tế cho cô hồn.'    
Như thế mới không chướng ngại cho sự sanh về cõi    
Phật.
   
Lại những thứ kinh: Thọ Sanh, Huyết Bồn,    
Thái Dương, Thái Âm, Nhãn Quang, Táo Vương, Thai Cốt, Phân    
Châu, Diệu Sa... đều là kinh ngụy tạo, không phải kinh của    
Phật nói, không nên trì tụng. Những kẻ quê tối, không chịu    
tụng Kinh Đại Thừa    
(như các kinh: A Di Đà, Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ,    
Tâm Kinh, Kim Cang, Pháp Hoa, Dược Sư, Lăng Nghiêm,    
Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm v.v...) mà chỉ tin    
các thứ kinh ngụy tạo ấy, muốn làm những việc hoàn thọ    
sanh, phá địa ngục, phá huyết hồ, mới yên tâm. Nếu có người    
hiểu Phật Pháp khuyên bảo nói đó là những kinh ngụy tạo,    
họ cũng không nghe lời. Nên biết, làm các Phật sự, chỉ    
có niệm Phật là công    
đức rộng lớn, nên đem số tiền hoàn thọ sanh, phá địa    
ngục, phá huyết hồ ấy, thỉnh những vị tăng chơn chánh niệm    
Phật cho, thì được lợi ích rất nhiều.
   
- 7 -
   
Người niệm Phật nên ăn    
chay trường, như chưa được thế, thì giữ lục trai hoặc thập    
trai, để lần lần bỏ hẳn các thứ    
thịt của chúng sanh, mới là hợp lý. Lục trai là các ngày:    
mùng 8, 14, 15, 23, 29, 30; nếu thêm vào đó mấy ngày: mùng 1,    
18, 24, 28 thì thành ngày thập trai. Những tháng thiếu, nên ăn    
trước một ngày. Lại, tháng giêng, tháng năm, tháng chín là    
ba trai nguyệt, nên ăn chay trường và làm các việc công đức.    
Dù chưa ăn chay    
được, cũng nên mua thịt cá đã làm    
sẵn, chớ sát sanh trong nhà. Nếu mỗi ngày sát sanh thì cái    
nhà ấy đã thành lò sát sanh, là chỗ oan quỉ tụ hội,    
không được an lành. Cho nên sát sanh trong nhà là điều rất    
cấm kỵ.
   
- 8 -
   
Người niệm Phật nên khuyên cha mẹ niệm Phật    
cầu sanh Tây Phương. Muốn cho cha mẹ khi lâm chung quyết định    
được vãng sanh, thì phải dặn trước    
người quyến thuộc về cách trợ niệm và chớ nên khóc lóc    
cùng bày vẽ những    
điều vô ích. Lại, lúc bình thời phải    
vì cha mẹ giảng rõ sự lợi ích của môn niệm Phật khiến    
cho song thân thường niệm không quên. Thế thì chẳng những    
cha mẹ được lợi ích, mà quyến thuộc hiện tại hoặc con    
cháu đời sau cũng    
được ảnh hưởng giải thoát an lành.    
Về phương pháp trợ niệm khi lâm chung, không luận già trẻ,    
đều phải làm đúng như thế.
   
- 9 -
   
Người nữ khi sắp sanh thường bị đau khổ    
không kham, có khi vài ngày sanh không    
được, hoặc chết vì sản nạn. Có người tuy sanh được    
nhưng lại bị huyết băng và nhiều    
bệnh nguy hiểm. Đứa con sanh ra thì bị    
các chứng cấp nạn, kinh phong v.v... Cho nên, người nữ lúc    
sanh sản, nên chí thành khẩn thiết niệm Nam Mô Quán Thế Âm    
Bồ Tát. Khi niệm cần phải to tiếng, không nên niệm thầm,    
vì niệm thầm do tâm lực kém nên sức cảm ứng    
cũng kém. Lại trong lúc ấy sản phụ đang dùng sức sanh đứa    
bé ra, nếu niệm thầm thì nín ép hơi    
phải mang bệnh. Nếu chí thành khẩn thiết mà niệm, quyết    
không có sự đau    
đớn, khó sanh, huyết băng, đứa con sẽ khỏi bệnh kinh    
phong, và các chứng nguy hiểm khác.    
Dù gặp trường hợp khó sanh, có nguy hiểm đến tánh mạng,    
sản phụ cùng những kẻ hộ sanh cũng phải đồng    
to tiếng niệm Quán Âm. Người quyến thuộc tuy ở nơi khác,    
đều phải vì sản phụ niệm giúp. Như thế, không đầy giây    
phút, sản phụ liền được yên ổn    
mà sanh. Kẻ ngoại    
đạo không rõ lý nầy, chấp chặt một việc cung kính, chẳng    
biết căn cứ theo sự mà luận lý,    
khiến cho mấy bà lão niệm Phật xem sanh sản là việc đáng    
sợ, cho đến dâu con của mình sanh cũng không dám qua săn sóc,    
huống chi là niệm Quán Âm? Nên biết    
Bồ Tát lấy sự cứu khổ làm lòng, lúc sanh sản, tuy lõa lồ    
không sạch, nhưng đó là việc dĩ nhiên, không phải mình tự    
ý buông lung, nên niệm đã không có tội lỗi, mà lại khiến    
cho mẹ con sản phụ gieo trồng căn lành. Nghĩa nầy trong Kinh    
Dược Sư đã có nói, không phải    
tự tôi đưa ra điều ức kiến. „n Quang nầy chỉ là người    
đề xướng mà thôi.
   
- 10 -
   
Người nữ từ mười hai, mười ba tuổi đến    
bốn mươi tám, bốn mươi chín tuổi, đều có nguyệt kinh.    
Có kẻ bảo: trong lúc nguyệt kinh, chẳng nên    
lễ bái trì tụng. Lời này rất không hợp tình lý. Thời kỳ    
có kinh, mau thì hai ba ngày, lâu đến sáu bảy ngày mới dứt;    
người tu trì cần phải niệm Phật không xen hở, đâu nên    
vì một chút bệnh nhỏ thiên nhiên mà bỏ lãng thời tu niệm    
ư? Khi có nguyệt kinh chỉ nên lễ bái ít (lễ bái ít chớ chẳng    
phải tuyệt nhiên không lạy), còn sự tụng kinh niệm Phật    
đều chiếu theo lệ thường. Nên thường thay giặt vải dơ,    
phải rửa tay cho sạch sẽ, đừng dùng tay dơ mà lần chuỗi,    
lật kinh và đốt    
hương. Trong Phật Pháp, pháp pháp đều viên    
thông, hàng ngoại đạo chỉ chấp một bên lý, người đời    
phần nhiều lại ưa tin lời ngoại đạo, không rõ    
chánh lý Phật giáo, nên không được thấm nhuần pháp lợi.
   
- 11 -
   
Quán Thế Âm Bồ Tát thệ nguyện rộng sâu,    
tìm tiếng cứu khổ. Khi gặp những tai nạn: đao    
binh, nước lửa, đói kém, cào cào,    
ôn dịch, khô hạn,    
cướp bóc, oan gia, thú dữ, rắn độc, ác quỉ, yêu    
mị, nghiệp binh, kẻ tiểu nhơn hãm hại v.v... nếu phát tâm    
sửa lỗi làm lành, lợi mình lợi người, chí thành khẩn thiết    
niệm Quán Thế Âm không xen hở, thì quyết định    
sẽ được nhờ sức từ bi ủng hộ tránh    
khỏi tai nguy. Nếu vẫn còn giữ lòng bất thiện, dù có xưng    
niệm, chẳng qua là gieo chút căn lành về sau, không được sự    
cảm ứng hiện tại, vì chư Phật, Bồ Tát thành tựu niệm    
lành cho người, tuyệt không thành tựu niệm ác cho người.    
Như không phát tâm sửa lỗi làm lành, lầm lạc muốn đem    
công đức niệm Phật, Bồ Tát, để cầu cho việc ác của    
mình thành tựu thì quyết không được    
cảm ứng. Rất không nên phát tâm điên đảo ấy.
   
Đã niệm Phật, cần    
phải giữ trọn nhơn luân, gìn lòng thành kính, dứt các điều    
dữ, làm các việc lành, giữ lòng tốt, nói lời tốt, làm việc    
tốt. Việc nào mình làm được thì thiết thật mà làm, như    
không làm được cũng nên phát lòng lành ấy, hoặc khuyên người    
có thế lực làm, hoặc thấy người làm sanh tâm vui đẹp. Thốt    
lời khen ngợi việc lành cũng thuộc về công    
đức của tâm và miệng. Nếu việc    
mình không thể làm, khi thấy người khác làm được mà sanh    
lòng ganh ghét, đó là tâm hạnh của kẻ tiểu nhơn. Như thế,    
quyết định phải    
bị mất phước tổn thọ, không được kết quả tốt, cần    
để ý răn chừa. Rất không nên giả    
mặt hiền   
lương    
để mua danh chuốc lợi, tâm hạnh ấy quỉ thần đều ghét,    
có thì mau cải, không thì nên cố gắng    
làm lành.
   
- 12 -
   
Có nhiều người nữ vì không rõ chánh lý, hoặc    
bất hiếu với cha mẹ chồng, khi dể chồng, quá cưng yêu chiều    
chuộng con, ngược đãi tôi tớ, hoặc là mẹ ghẻ hiếp đáp    
hành hạ con riêng của chồng. Những người ấy đâu biết rằng:    
hiếu thảo với cha mẹ chồng, kính trọng chồng, dạy dỗ    
con cái, ra ân huệ cùng hàng tôi tớ, an ủi nuôi dạy con    
riêng của chồng, chính là đạo thánh hiền ở thế gian mà cũng    
là phép tắc đầu    
tiên của đạo Phật. Nếu có đủ công đức ấy mà tu Tịnh    
Độ, thì quyết định danh dự thêm nhiều, phước thọ bền    
vững, khi mạng chung được Phật tiếp dẫn về chín phẩm    
sen. Nên biết đã có nhân phải có quả,    
nếu ta gieo nhân hiếu kỉnh từ ái, tự nhiên sẽ được quả    
hiếu kỉnh từ ái. Vì người tức là vì mình, hại người còn    
quá hơn hại mình, cho nên mỗi người đều phải làm tròn bổn    
phận, Phật trời tất sẽ chứng tri.
   
- 13 -
   
Trẻ con khi vừa khôn lớn, phải dạy cho    
chúng biết đạo lý hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm,    
sỉ và việc ba đời nhân quả, sáu nẻo luân hồi. Như thế    
là làm cho chúng hiểu tâm của mình cùng tâm chư Phật, Bồ Tát,    
trời đất, quỉ thần, mỗi hơi thở thông nhau. Nếu khởi một    
niệm bất chánh, làm một việc không phải, thì các vị ấy    
thảy đều biết,    
như đối trước gương sáng, hình ảnh    
tốt xấu hiện ra rõ ràng, không che giấu được.    
Đã hiểu như thế, tất nhiên chúng sẽ    
sợ hãi, gắng sức làm lành. Chẳng luận người nào, dù là    
con cái tôi tớ trong nhà cũng không nên đánh    
đập mắng chửi thô tháo. Phải tìm    
cách khuyến hóa, khiến cho chúng biết phụng thờ bậc trên,    
nhường thuận kẻ dưới, kính trọng giấy chữ, chẳng xài    
phá cơm gạo, quần áo, của tiền, yêu tiếc sanh mạng loài    
trùng kiến, không ăn    
vặt vạnh để khỏi mang bệnh. Nếu dạy được như thế, thì    
một ngày kia quyết định chúng sẽ thành người lương thiện.    
Trái lại lúc con cháu còn thơ ấu, cha mẹ chẳng chịu dạy dỗ,    
để mặc cho chúng buông lung, khi lớn lên nếu chúng nó không    
là kẻ dung ngu, cũng là hàng phỉ loại. Chừng ấy dù có ăn    
năn cũng vô ích. Lời xưa nói: 'Giáo phụ sơ lai, giáo tử   
anh    
hài' (Dạy con dạy thuở còn thơ, dạy vợ dạy lúc ban sơ mới    
về), tánh tình phần lớn là do ảnh hưởng của tập quán,    
cho nên phải cẩn thận từ bước đầu tiên. Cá nhân là phần    
tử của xã hội, trong thiên hạ bình yên hay loạn lạc, cội    
nguồn đều do sự hiền lương   
hoặc    
bạo ác của con người. Vậy những điều trên đây quan hệ,    
thiết yếu, không phải tôi bàn luận    
chuyện vô ích, xa vời...
   
- 14 -
   
Ấn Quang tôi năm nay đã    
quá già yếu, tinh thần mỗi ngày thêm suy kém, không còn đủ    
sức để phúc đáp những bức thơ gởi đến. Chỉ vì    
sự lưu thông thuận tiện, nên xa gần lầm nghe chút hư danh,    
gởi thơ hỏi đạo    
quá nhiều. Nếu tôi không đáp, vẫn tự hơi có phụ ý người    
gởi; như mỗi mỗi đều phúc đáp, thật ra cũng không đủ    
tinh thần. Vì thế, tôi cho in bức thơ    
dài nầy để phúc    
đáp cùng khắp. Trong    
đây, những điều quan hệ về sự tu trì, cách lập thân xử    
thế, đạo thờ cha mẹ, dạy con cái, tôi đều nói lược    
qua. Về sau, ai đưa tin đến hỏi đạo, tôi đều dùng thơ nầy    
phúc đáp, hoặc có vài điều đặc biệt, cũng chỉ nên    
thêm đôi hàng nơi bức thơ gởi đến mà thôi.    
Như thế, để cho đạo niệm đôi bên được thông nhau, mà    
tôi cũng đỡ bớt sự nhọc mệt. Nếu vị nào    
muốn hiểu suốt kinh nghĩa, xin thưa hỏi nơi các bậc Pháp Sư    
dựng cao tràng pháp, tông giáo kiêm thông. Nhưng nên biết, dù    
thông suốt kinh pháp, cũng chưa chắc    
được thoát sanh tử. Muốn thoát sanh tử luân hồi, phải    
chú trọng nơi sự tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương!
   
   
 
   
 
   
   
Thơ đáp Pháp Hải Đại Sư 
  
  
Hơn mười năm nay, tòa    
hạ tìm thầy học đạo    
để mưu sự lợi ích cho mình và người,    
đó là điều đáng    
khen ngợi. Nay lại buông bỏ muôn    
duyên, một lòng niệm Phật, lấy quả giác làm nhân địa tu    
hành, có thể sẽ thân chứng Tam Muội và chiếm được phẩm    
cao. Nếu tòa hạ phát lòng quả quyết thì sự mong cầu tất    
nhiên thành tựu. Nhưng người đời niệm Phật tuy nhiều,    
song chứng Tam Muội rất ít, vì chưa buông được muôn duyên    
giữ một niệm, nên tâm cùng Phật khó dung hợp nhau. Tòa hạ    
đã thiết thật giữ sạch thân tâm, lẽ nào lại không có chỗ    
sở đắc? Nhưng    
trong thơ về mấy điểm: 'tỏ lòng thấy    
tánh, thoát ly sự sống chết và bằng cứ chứng đạo    
đến tay', cần phải đôi chút phân biệt.
   
Nếu tu theo giáo lý thông thường, dù được    
tỏ lòng thấy tánh, cũng còn cách xa với sự thoát ly sống    
chết luân hồi, vì cảnh giới ấy thuộc về ngộ chớ không    
phải chứng. Người đời    
nay ngộ đạo còn rất ít, huống nữa    
là chứng ư? Chứng    
đạo thì hoặc nghiệp mới hết sạch, gốc sanh tử đã    
dứt, không còn cảm quả luân hồi. Bậc Tu Đà Hoàn bảy lần    
sanh lên trời, bảy lần trở lại nhân gian, mới tiêu hết    
hai món hoặc kiến, tư, chứng quả A La Hán. Ngài Thiên Thai thị    
hiện ở ngũ phẩm, ngài Nam Nhạc    
ở ngôi Thập Tín; các bậc Đại Sĩ ấy còn ẩn thật đức    
của mình, tự bảo chỉ được địa vị nội, ngoại phàm,    
thì đâu phải dễ dàng khi muốn nói chứng đạo?    
Song đây là ước theo giáo lý thông thường để luận sự khó    
khăn về chứng đạo trong hiện đời. Nếu cứ theo môn Tịnh    
Độ là pháp đặc biệt của đức Như Lai lập ra, thì    
trên từ bậc Đẳng    
Giác dưới đến hạng tội nặng A Tỳ, như đủ tín nguyện,    
đều được nương sức từ của Phật sanh về Cực Lạc. Khi    
đã vãng sanh, tất sự tỏ ngộ cùng    
chứng đạo dễ dàng như lượm cỏ. Một điều hơi khác,    
tòa hạ chuyên tâm niệm Phật, không đề    
cập đến sự vãng sanh trong lúc lâm chung, lại nói có thể nắm    
chắc bằng cứ chứng đạo. Nói rằng chứng đạo cũng được,    
sao lại bảo: bằng cứ đến tay? Nếu bằng cứ đến tay thì    
không cần luận, thảng như không đến mới liệu làm    
sao? Xét qua ý tứ trong lời nói ấy, dường như tòa hạ chỉ    
niệm Phật suông, không phát lòng tín nguyện cầu sanh Cực Lạc.    
Đó là lối dùng sự niệm Phật làm câu thoại đầu của nhà    
tu Thiền, không đúng    
với tông chỉ Tín Nguyện Hạnh trong môn Tịnh Độ. Niệm Phật    
không tín nguyện so với phép tu Thiền tham câu thoại đầu    
tuy công đức lớn hơn, nhưng nếu hoặc nghiệp vẫn còn, tất    
không được giải thoát. Lại bởi không tín nguyện, nên    
không thể nương nhờ sức Phật tiếp độ, vẫn là pháp môn    
tự lực thông thường, rất khó chứng đạo.    
Chớ cho sự tín nguyện cầu sanh là thấp kém, vì trên hội    
Hoa Nghiêm, hải chúng trong cõi Hoa Tạng đều dùng mười đại    
nguyện vương để hồi hướng vãng sanh. Hơn nữa, các bậc Bồ    
Tát, Tổ Sư trong tông Tịnh Độ đều bảo phải phát lòng    
tín nguyện cầu sanh Cực Lạc. Sao Tòa hạ lại lập riêng    
môn đình không theo thánh quy của Phật, Tổ như thế? Và, người    
đã suốt tháng, suốt năm,    
suốt đời niệm Phật, đâu nên không tu hạnh Lễ Kỉnh?    
Trong mười đại nguyện vương, Lễ Kỉnh đứng đầu, tòa    
hạ bỏ việc gì còn có thể được, quyết không nên bỏ sự    
lễ Phật. Nếu chẳng lễ Phật chắc khó cảm thông, vì lẽ    
thân ưa an ổn, tất thiếu trợ duyên để    
triển đạt hết lòng thành. Theo phép    
chuyên tu của ngài Thiện Đạo thì thân chuyên lễ, miệng    
chuyên xưng, ý chuyên niệm, niệm cùng cực tự nhiên ngoài    
tâm không Phật, tâm Phật như nhau.
   
Sự chứng đạo ấy, các lối tu chứng về tự    
lực không thể sánh kịp. Về việc này, người xưa đã    
thí dụ như tên dân hèn kém nương bánh xe báu của Luân Vương,    
một ngày có thể dạo khắp bốn châu lớn. Vậy tòa hạ    
không nên đem pháp môn Niệm    
Phật rất đặc biệt, tu theo đường lối tự lực về quán    
hạnh thông thường. „n Quang tuy hèn    
ngu, thật chẳng dám hứa nhận việc ấy. Nếu tòa hạ có thể    
dùng lòng trong sạch không nhiễm mảy trần, phát ba tâm mà niệm    
Phật, thì hiện đời sẽ thân chứng Tam Muội, sau khi mạng    
chung liền sanh về thượng phẩm. Như thế, „n Quang xin vòng    
tay trước để chúc mừng.
   
Kẻ ngu ngàn việc, dùng được    
một điều, mong tòa hạ xét lại.