Thiên
Thứ VI: Tu Đạo Luận
CHƯƠNG I 
 ĐỘNG CƠ TU ĐẠO 
VỚI TU ĐẠO PHÁP NHẤT BAN
 
1-
ĐỘNG CƠ TU HÀNH VỚI KHỔ QUAN. 
 
Trở lên là tiếp theo tâm lý luận để trình bày một cách  đại
yếu về luận lý quan của A-tỳ-đạt-ma. Song, những điểm được trình bày 
trong  chương cuối cùng thứ tư, cứ theo A-tỳ-đạt-ma, thì luân lý chủ yếu
là thuộc phạm  vi luân hồi, tuy có phân biệt thiện nghiệp sinh thiện 
thú, ác nghiệp sinh ác  thú, nhưng tất cả chỉ là biến dị hữu lậu. Cho dù
thiện nghiệp được luôn luôn kế  tục nhưng phần kết quả thu lượm được 
vẫn dao động chứ không thể là cứu kính an  định. Vả lại, hữu tình thường
lấy ngã dục làm trung tâm, cho nên, có khi vì  không biết, có khi vì 
tham dục, sân huệ mà ác nghiệp; và trường hợp đó xảy ra  rất thường, bởi
vậy mà kết quả thụ hưởng ra sao cũng có thể thấy rõ rồi. Như  vậy, nhận
thấy tầm mắt thấy xa thì tất cả mọi sự trong thế gian này đều không an 
định, nói một cách tóm tắt, tất cả đều là khổ. Cái chứng cứ lớn nhất 
của Khổ  quan là: vì cũng là một hiện tượng thiên nhiên nên, con người, 
mật mặt tuy phải  phục tòng định luật tất nhiên của vận mệnh, nhưng, mặt
khác, vì cũng là một sự  tồn tại tinh thần nên lại có yêu cầu tự do vô 
hạn. Đó là sự mâu thuẩn bất tương  dung và vì phải sống trong thế giằng 
co ấy mà con người cảm thấy đau khổ: điều  này tôi đã thường trình bày 
qua. Đức Phật cho tất cả đều là khổ, cái lý do chính  cũng ở đó. Song, 
cái cảm thống khổ đau ấy cũng lại là động cơ thúc đẩy con người  tìm đến
sự giải thoát trong tôn giáo. Đức Phật chủ trương đời là bể khổ chính 
là  vì cái thực tướng này của thế gian. Do đó, chủ trương này, về sau đã
trở thành  một đặc trưng về nhân sinh quan Phật giáo thông cả Tiểu thừa
và Đại thừa. Nhưng  làm thế nào để giải thoát khỏi khổ? Cũng như các 
vấn đề khác trong Phật giáo,  vấn đề này một khi được đặt ra thì cũng 
lại có nhiều nghị luận bất đồng. đạo Đại  thừa Bồ tát chẳng hạn, xác lập
lý tưởng vĩnh viễn, lấy tất cả hoạt động tự phát  mà định giá trị của 
lý tưởng đó, do vậy khổ cũng được coi như thứ hồi hướng tới  đại lý 
tưởng ấy. Trong Tiểu thừa Phật giáo con đường giải thoát khổ có tính 
cách  tiêu cực, trên thực tế, làm cách nào để có thể đạt đến thế giới 
hết khổ đau? Đây  chính là vấn đề chủ yếu. Như ai nấy đều biết, 
A-tỳ-đạt-ma y theo giải thích bình  diện, ở nhiều trường hợp, nói rõ 
nguyên nhân của thế giới khổ đau chính là đã  phê phán giá trị của thế 
giới vậy. Đời là khổ, và chính đó là động cơ tu đạo.  A-tỳ-đạt-ma đã 
thuyết minh khổ như thế nào? Trong các kinh có nhiều cách thuyết  minh 
về khổ, và để thích ứng, A-tỳ-đạt-ma đối với khổ, cũng có nhiều thuyết  
minh. Nhưng nếu nói một cách tóm tắt thì cái phương pháp xử lý phổ thông
là đem  định nghĩa khổ chia ra làm nhiều loại. Chiếu theo Khế kinh thì 
định bình của khổ  có tám, đó là sống khổ, già khổ, chết khổ, cầu thương
khổ, lo buồn khổ, oán ghét  mà gặp gỡ là khổ, yêu thương mà chia lìa là
khổ, tất cả sự cầu mong không thỏa  mãn là khổ (Vism, p. 498). Lại nói 
một cách đơn giản là: tất cả vô thường là  khổ, tất cả khổ là vô ngã, 
“biết các hành vô thường, đều là pháp biến dị, bởi  thế nói thụ tất cả 
khổ, đó là điều người chính giác đã biết rõ” (Tạp-a-hàm quyển  17, Đại 
chính, 2, trang 121, cột trên). Vì vô thường nên khổ, khổ vì vô ngã.  
A-tỳ-đạt-ma tuy thuyết minh nhiều về những nỗi khổ đó, nhưng dần dần đã 
đem  thống nhất và, cuối cùng, còn muốn tập hợp lại nữa. Về định nghĩa 
của khổ, Phật  Âm nói: 
 
Khổ tướng là sự buồn bực liên miên và là hình của sự  buồn 
bực liên miên đó (Vism, p. 640). 
 
Lại có bốn trạng thái: 1- Trạng thái buồn bực, 2- Trạng  
thái vô thường (hành), 3- Trạng thái thiêu đốt, 4- Trạng thái biến hoại 
(ibid p.  494). Trạng thái một và trạng thái ba là bản thân của khổ đau,
còn trạng thái  hai và trạng thái bốn, đại khái trong nhất thời không 
là khổ đau nhưng cuối cùng  lại quy về khổ. Về pía Bắc truyền thông lệ 
chia khổ thành ba loại[1],  tức là khổ lhổ, hành 
khổ và hoại khổ (Câu xá, quyển 22). Khổ khổ là tự thân của  khổ; hành 
khổ là sự vô thường, bất an nên khổ; hoại khổ là vì những khoái lạc  
hiện tại cuối cùng cũng có lúc tiêu tan nên khổ (có thể so sánh với ba 
khổ của  Số luận là y nội khổ, y ngoại khổ, y hành khổ - Sáu Phái Triết 
Học Ấn Độ trang  7). Tựu trung, hai loại sau này là đặc trưng của nhân 
sinh Phật giáo, tức cuộc  sống của con người, dù là hữu lậu, về mặt cảm 
giác, cho dù không thấy khổ, nhưng  vì vô thường biến hoại, thiếu mất 
tính bất biến thường hằng, cho nên, về điểm  này, có thể nói tất cả ở 
thế gian đều là khổ. 
 
Từ nhân sinh quan đó, vấn đề tất nhiên phải được đặt ra  
là: làm thế nào để có thể đạt đến cảnh giới triệt để giải thoát và rốt 
ráo yên  ổn? Đây là đề mục tối cao của Phật giáo. Tập hợp và hiển bày 
một cách đơn giản  khóa để này là Bốn Đế: khổ, tập, diệt, đạo. Cội nguồn
thống khổ của kiếp người  lấy bất tuyệt dục làm cơ sở, vì y vào phiền 
não, bởi thế, muốn hết khổ phải diệt  phiền não thì phải tu đạo: đó là 
căn cứ của Tu đạo luận. 
 
2-
NHỮNG ĐỨC MỤC TU ĐẠO. 
 
Nhưng cái đạo diệt phiền não ấy là gì? Nói theo Tứ đế  luận
thì phổ thông là Bát chính đạo, tuy đưa ra tám đức mục, nhưng dần tiến 
đến  A-tỳ-đạt-ma thì một mặt nói Bát chính đạo, mặt khác, trên Bát chính
đạo, như Tứ  niệm xứ, Bát chính đoạn, Tứ thần túc, Ngũ căn, Ngũ lực, 
Thất giác chi, lại đưa  ra cái gọi là bảy khoa ba mươi bảy đạo phẩm làm 
thông lệ. Ngoài Bát chính, sáu  khoa kia, về ý nghĩa, đứng ngang hang 
với Bát chính, nếu nói một cách thực tế,  thì bảy khoa là những đức mục 
chỉ khác nhau về lập trường chứ không phải bất  đồng về tính chất. Kỳ 
thực, những đức mục tu đạo trong Khế kinh không hạn định  trong bảy 
khoa, mà ngoài ra còn có mười niệm, mười tưởng, bốn thiền, bốn vô  
lượng, bốn vô sắc v.v… do đó không thể đưa ra con số nhất định được. Do 
những  đức mục đó không phải bất đồng trên tính chất, nên yêu cầu giải 
thoát không nhất  định phải tu theo tất cả pháp môn. Cứ theo Phật giáo 
nguyên thủy thì tuy chuyên  tu một pháp môn nào đó, nhưng vì thời cơ và 
tình thế có khác, nên, theo ý nghĩa  “tùy bệnh cho thuốc”, đức Phật đã 
chỉ bày nhiều phương thức. Như đã trình bày ở  trên, đặt chất của bộ 
phái Phật giáo là, thay vì lấy thế gian pháp làm chủ, lại  đặt ra trong 
tâm cái gọi là xuất thế gian pháp (giải thoát pháp) và, để thích  ứng 
đức mục tu đạo là đối tượng là các A-tỳ-đạt-ma luận sư đã tận lực luận 
cứu,  chỉnh lý và phân loại. Nhất là A-tỳ-đạt-ma ở thời kỳ, như tôi đã 
trình bày  trước, chuyên lấy việc giải thích các đức mục tu hành làm đề 
mục chủ yếu. Thế  rồi, đến A-tỳ-đạt-ma tiến bộ, ngoài Tu đạo luận ra, 
đối với việc thuyết minh thế  giới sự thực, tuy có tăng gia nhiều, nhưng
cái phương pháp của Tu đạo luận dần  dần đã trở nên tinh tế, và nhiếp 
thủ toàn bộ các đức mục phối hợp chúng với quá  trình tiến triển trong 
việc tu đạo, để muốn chỉnh lý chúng theo thuận tự: đó là  một đặc trưng 
lớn của thời kỳ tiến bộ này. Bởi thế, trong các kinh, luận cổ,  những 
đức mục được coi là trọng yếu cũng chỉ được thuyết minh một cách giản 
dị,  đơn thuần; trái lại, trong các kinh, luận mới,tuy được chỉnh lý 
nhiều, nhưng  thuyết minh về tu đạo, so với thời đại Phật giáo nguyên 
thủy, phức tạp hơn  nhiều, và, nói theo một ý nghĩa nào đó, đã xa rời 
thực tế: đây là một sự thật  hiển nhiên. Để thích ứng với  tín ngưỡng, ở
thời đại Phật giáo nguyên thủy, quả  A-la-hán không phải khó khăn để 
đạt được, nhưng một khi đã được A-tỳ-đạt-ma  chỉnh lý thì nó biến thành 
quả vị tối cao, người thường khó mà đạt được. Do sự  tiến bộ về học vấn 
mà Tiểu thừa Phật giáo thật đã mất hẳn cái hương vị tôn giáo.  Nếu nhận 
xét điều này về phương diện thần học, thì các phiền não, đạo diệt phiền 
não, và những cảnh giới nhờ đó mà đạt được, tất cả Tiểu thừa đều muốn 
chỉnh lý  cho có trật tự hẳn hoi: đây là điểm rất lý thú mà ta không thể
bỏ qua. 
 
3-
TƯ CÁCH TU ĐẠO. 
 
Về Tu đạo luận vẫn còn đề mục nữa không thể không bàn  đến,
đó là người ta phải có tư cách như thế nào để thích ứng với việc tu 
đạo? Về  luân lý đạo đức được trình bày trong thiên trước thì người ta, 
bất luận ai cũng  đều nên theo, nhưng về tu đạo, nếu nói theo nghĩa hẹp,
thì so với luân lý, phạm  vi của nó còn hẹp hơn, và tính chất của nó 
không thích dụng. Điều này, chiếu  theo các giáo phái Bà-la-môn thì 
người tua đạo thích hợp đại khái chỉ hạn cục  trong ba giai cấp trên mà 
thôi (tham chiếu kinh Phệ Đàn Đa, mục nói về tư cách;  trong phái Số 
luận, tuy lấy ba giai cấp trên làm chủ, nhưng cũng có khi chấp  nhận cả 
giai cấp thứ tư). Nhưng Phật giáo chủ trương bốn giai cấp đều thanh  
tịnh, vì đặc chất ấy cho nên đến Phật giáo Bộ phái, đối với bốn giai 
cấp, tự  nhiên đã không đặt ra mật hạn chế nào cả. Về nam nữ tính thì 
Phật giáo nguyên  thủy đã thừa nhận có sự tu đạo thích hợp cho cả nam 
nữ, và cũng có khả năng tính  đạt được giải thoát, mà trên thực tế, nữ 
tính đắc quả cũng không phải ít. Bởi  thế, đến Phật giáo Bộ phái đối với
vấn đề này cũng không có dấu hiệu đã đặt ra  hạn chế hay sự khu biệt 
đặt biệt nào. Duy có vấn đề là sự khu biệt giữa tại gia  và xuất gia; 
tức muốn tu đạo phải xuất gia hay ở tại gia cũng có thể? Vấn đề  này, 
chiếu theo Phật giáo nguyên thủy, đức Phật bảo là tuy ở tại gia nhưng 
nếu  tâm nay thẳng, dốc lòng tu đạo thì tại gia cũng có thể tới giải 
thoát, nhất là  Ưu bà tắc, Ưu bà di, trong bốn quả, đức Phật nhận là có 
thể đạt được quả thứ ba,  điều này tôi đã trình bày qua rồi (Nguyên Thủy
Phật Giáo Tư tưởng Luận). Song,  sự tu dưỡng triệt để, muốn được giải 
thoát thật sự ngay trong hiện tại, thì công  năng xuất gia lớn hơn công 
năng tại gia, đây cũng là một sự thật rõ rệt (như  trong Trung a hàm 
quyển 31, Lại-tra-hòa-la-kinh, và Trung a hàm quyển 8,  
sa-kê-đế-tam-tộc-tính kinh v.v…). Nhưng thuyết này, đến Phật giáo Bộ 
phái thừa  kế như thế nào? Nói một cách đại thể thì đến Phật giáo Bộ 
phái, thuyết này tuy  cũng giống nhau, nhưng về phương diện tinh thần 
thì có điểm rất bất đồng. Phật  giáo nguyên thủy tuy tưởng lệ xuất gia, 
nhưng cũng rất chú trọng đến sinh hoạt  luân lý tại gia, đến Phật giáo 
Bộ phái thì, cứ theo A-tỳ-đạt-ma lại coi thường  phương diện luân lý tại
gia mà chuyên đề cao pháp tu dưỡng xuất gia và kết quả,  đó là sự thật 
không thể chối cãi (Thành-thật-luận 17, Ác giác phẩm 182, bảo hành  giả 
ngoài việc không được khởi dục niệm, tâm sân khuể và tâm não hại, còn 
đưa ra  thân lý giác (tâm lo cho nước), quốc độ giác (tâm muốn đi du 
lịch các nơi), bất  tử giác, lợi tha tâm và khinh tha tâm v.v… Tựu 
trung, bất tử giác, là trước hết  đọc tụng năm tạng là tam tạng, tạp 
tạng và Bồ tát tạng rồi mớinghiên cứu  ngoại  điển, nuôi dưỡng đệ tử và 
giáo hóa chúng nhân, tu đạo dần dần như thế. Đây là sự  ngộ nhận về 
trước, sau). Nền thần học của A-tỳ-đạt-ma thật vô cùng phiền tỏa,  nhận 
xuất gia là do nhà chuyên môn mà phát đạt. Tóm lại, theo ý nghĩa ấy, 
người  chính đầy đủ tư cách tu dưỡng là người xuất gia, tại gia nhờ tôn 
kính cúng dàng  xuất gia mà được tham dự phần phúc đức, đó là tư cách 
phổ thông, còn người tại  gia nào dốc lòng tu dưỡng theo đạo xuất gia 
thì điều đó không ai cấm. Do đó,  song song với sự hưng thịnh của Phật 
giáo Tiểu thừa, sự xuất gia cũng phát đạt  rất nhiều, đến đây người ta 
không lấy làm lạ tại sao có nhiều người xuất gia. Ở  thời đại đức Phật, 
vì Phật giáo hưng thịnh nên có đủ loại động cơ xuất gia, bởi  thế đức 
Phật đã phải phân biệt thành nhiều thứ. Như trong Trường-a-hàm quyển 3, 
Du hành kinh, trong phần Phật dạy Chân Na, có nói đến bốn loại xuất 
gia: 1- Hành  đạo thù thắng, 2- Thiện quyết đạo nghĩa, 3- Y đạo sinh 
hoạt, 4- Vị đạo tác uế  (Đại chính, 1, trang 18, trung)[2].  Tựu trung, hành đạo thù
thắng nghĩa là đạo hạnh hơn người; thiện quyết đạo  nghĩa, là đối với 
giáo nghĩa của Phật giáo có tài tuyên thuyết khéo léo, y đạo  sinh hoạt 
là đạo hạnh tuy không thù thắng, thuyết pháp tuy không khéo léo, nhưng  
dù sao vẫn giữ được nếp sống người xuất gia; còn vị đạo tác uế là những 
Tỷ khưu  phá giới[3].  Lại Thập tụng luật 
quyển 1 (Đại chính, 23, trang 2, thượng), cũng đưa ra bốn  loại Tỷ khưu:
1- Danh tự Tỷ khưu, 2- Tự ngôn Tỷ khưu, 3- Vị khất Tỷ khưu, 4- Phá  
phiền não Tỷ khưu (Câu xá, quyển 15 trích dụng). Tựu trung, Danh tự Tỷ 
khưu  nghĩa là tuy xưng danh là Tỷ khưu nhưng thật ra là thế tục; Tự 
ngộn Tỷ khưu  nghĩa là người tự xưng là Tỷ khưu; Vị khất Tỷ khưu, chiếu 
theo nghĩa đen là  người ăn xin, tức những người hành khất; Phá phiền 
não Tỷ khưu là những người Tỷ  khưu chân chính. Tỷ khưu của Phật giáo 
phải là hạng thứ tư này: chính sự phân  loại trên đã bao hàm ý nghĩa ấy.
Ở thời đại Phật giáo nguyên thủy, về mặt đạo  hạnh, đã cần phải có sự 
khu biệt như thế rồi, bởi thế, đến thời đại Phật giáo Bộ  phái vốn chủ 
nghĩa hóa và hình thức hóa đạo xuất gia, thì dĩ nhiên,trên thự tế  đã 
chia ra nhiều loại Tỷ khưu. Do đó, A-tỳ-đạt-ma luận thư lấy đó làm một 
trong  nhiều vấn đề cũng là lẽ tự nhiên vậy. Như các nhân phẩm được nói 
đến trong các  A-tỳ-đạt-ma luận thư (chẳng hạn, Nhân phẩm trong 
Xá-lợi-phất-a-tỳ-đàm luận,  quyển 7), tuy chưa hẳn chỉ là những người 
xuất gia, nhưng dù sao cũng lấy trình  độ tu hành của những người xuất 
gia làm trung tâm mà phân loại căn cơ hay tính  chất của họ để hiển bày 
tiến trình đưa đến địa vị cao tột. 
 
Như vậy, đến thời đại Phật giáo Bộ phái, ít ra là trên  
hình thức, đã trở thành chủ nghĩa xuất gia, mà những người xuất gia đó, 
bất luận  trên sự thực hay trên lý luận đều phân loại thành nhiều căn 
cơ, và đối với cái  phương thức tu dưỡng, một mặt thừa nhận, không nhiều
thì ít, có sự bất đồng, mặt  khác lại muốn nhất ban hóa, thống chế hóa 
những đức mục tu dưỡng, cho nên Tu đạo  luận đã nghiễm nhiên trở thành 
cực phức tạp và chi ly. Tuy nhiên, nếu phân loại  một cách đơn giản thì 
những đức mục đó rốt cục không ngoài tam học giới, định,  tuệ, bởi thế, 
nói một cách giản dị thì sự tu dưỡng của Tỷ khưu không ngoài ý  nghĩa tu
tam học: đây là phương châm căn bản và nhất quán từ Phật giáo nguyên  
thủy và Phật giáo bộ phái. Do đó, trong thiên thứ sáu này, tuy đã lấy 
những đức  mục đã được biểu thị ở trên làm bối cảnh, nhưng ở đây chỉ lấy
đề mục tam học để  nói rõ phương pháp tu dưỡng một cách đại thể, rồi từ
đây, tiến lên bước nữa tôi  tưởng lại phải bàn qua về quá trình đắc 
quả.
 
 	 
 		 		[1]
Xuất xứ đầu tiên của 3 khổ thấy trong Trường Hàn, Chúng Tập 
Kinh,  		xem Đại Chánh, 1 trang 50, trung.
 		 		[2]
Ngoài ra, trong kinh Phật Ban Nê Hoàn còn nói có bốn loại Tỷ khưu: 
1-  		Nghèo cùng không tự nuôi thân được, 2- Mắc nợ mà không trả nổi, 3-
Vô  		dụng đối với xã hội, 4- Cao sĩ sống thanh khiết, khi nghe Phật 
pháp thì  		bổng nhiên tâm ngộ xuất gia (Đại chính, 1, trang 172, 
trung).
 		 		[3]
Bà sa, quyển 66, giải thích rằng: Thắng đạo là Phật và Độc giác; Thị
đạo  		là Xá Lợi Phất; Mệnh đạo là A Nan; Ô đạo tuy chỉ cho Mạt Hát Lạt
Ca có  		vết như ăn trộm, nhưng cũng còn chỉ cho những Tỷ khưu đặc thù 
hóa khác  		(Câu xá, quyển 15)