Chương
II: Nguyên Tắc Tu Đạo Với Giới Định Tuệ
1-
QUAN HỆ GIỮA TU ĐẠO VÀ TAM HỌC. 
 
Về đức mục tu đạo, tuy có nhiều, nhưng chủ yếu thì không  
ngoài Tam học giới, định, tuệ. Từ đây, tôi tưởng nên trình bày qua về 
Tam học  (nhưng, về giới, đặc biệt về luật, đã nói trong thiên trước 
rồi, nên ở đây không  đề cập đến nữa). Trước hết hãy nhận xét về tổng 
thể của Tam học. Sự quan hệ giữa  nguyên tắc căn bản của Tu đạo luận như
thế nào? Tôi tưởng phải thuyết minh cái  quan hệ tất nhiên bất ly giữa 
Tu đạo và Tam học. Tam học của Phật giáo không  phải chỉ là chia làm ba 
để tiện cho phương pháp tu dưỡng, nhưng trong đó giáo lý  căn bản và tổ 
chức nhân sinh có sự quan liên mật thiết. 
 
Theo Phật giáo, sự sinh hoạt của chúng ta lấy dục làm cơ  
sở để thành lập, ngã chấp, ngã dục là nền tảng của sự sinh tồn. Như đã 
nói nhiều  lần, trong cái căn bản của ngã chấp, ngã dục ấy có yêu cầu 
sinh mệnh vô hạn mà,  như đã trình bày qua, tuy được gọi là tâm tính bản
tịnh, nhưng về phương diện  một hiện tượng thì sự sinh hoạt của chúng 
ta do vô minh và ái dục chi phối; đó  là quan điểm nhất ban của Phật 
giáo. Như trước đã nói, người ta có nghiệp tập từ  vô thủy, tự nhiên 
phải theo hạn định dự trước, người ta tuy sống nhưng được quy  định bởi 
tính tích hay cảnh ngộ mà trong đó đặc trưng của sinh mệnh không thể  
không phát hiện hoạt động tự phát được. Cái lý do tại sao Phật giáo cho 
thế giới  này là khổ là do sự sợ hãi tự nhiên về khổ khổ, hoại khổ và 
hành khổ như trên  kia đã nói, tuy ở lực chi phối nhưng trong đó đã mang
đầy đủ nghiệp tập tự nhiên  ràng buộc mất tự do (đại khái được gọi là 
hành khổ), phương pháp để giải thoát  khỏi sự ràng buộc tự nhiên từ cả 
bên trong lẫn cả bên ngoài ấy mà đạt đến tự do  chân chính, ta không thể
tìm kiếm ở bên ngoài mà phải tâm cầu bên trong, nếu nói  một cách đơn 
giản thì đó là sự cải tạo tinh thần của ta, đây không những là con  
đường giải thoát duy nhất; mà là con đường tắt tất nhiên: có thể nói, đó
là chú  ý nhất quán của Phật giáo. Theo Phật giáo thì sức ép thiên 
nhiên có thể được cải  tạo, nhưng phải rất từ từ chứ không gấp rút được.
Trái lại, tâm người ta, trên  thực tế, thật vô cùng khó khăn nếu không 
có một ý chí kiên quyết và cố gắng  không ngừng thì không thể nào cải 
tạo được nó một cách triệt để. Đây chính là lý  do tại sao Phật giáo, 
nhận xét về phương diện giá trị, chủ trương thế giới là  sản phẩm của 
tâm, bất luận mê hay ngộ, tất cả đều do nơi tâm. Về điểm này, xin  trích
mấy câu kinh văn để chứng minh: 
 
Xe do các nghiệp mà khởi, tâm thức quay với xe, theo  nhân 
mà chuyển đến, hễ nhân hoại thì sẽ diệt – Tạp-a-hàm, Kinh 49 (Đại chính,
2,  trang 356, cột dưới). 
 
Tâm mang thế gian đi, tân dẫn thế gian đến, chỉ có tâm  là 
thể chế ngự được thế gian – Tạp-a-hàm, Kinh 36 (Đại chính, 2, trang 264,
thượng). 
 
Tâm là căn bản, tâm sai tâm khiến, trong tâm nghĩ ác thì  
tức làm ác, tội khổ đuổi theo cũng như bánh xe quay theo trục xe. Tâm là
căn  bản, tâm sai tâm khiến, trong tâm nghĩ thiện thì tức tâm thiện, 
hạnh phúc đi  theo cũng như bóng theo hình – Xá-lợi-phất-a-tỳ-đàm luận, 
quyển 15 (Đại chính,  28, trang 628, trung). 
 
2-
TUỆ HỌC. 
 
Đến đây, vấn đề được nêu lên là: làm thế nào để cải tạo  
tâm một cách triệt để? Ở đây, phát sinh tác dụng là tam học Giới, Định, 
Tuệ. 
 
Để cải tạo tâm, trước hết không thể không biết rõ sự thự  
hiện tại. Nói một cách khác, đồng thời với cảm giác thống khổ mất tự do,
phải  thức tỉnh tinh thần mong cầu lý tưởng vĩnh viễn bất động. Phật 
giáo nói đến như  thực tri kiến và bát nhã rốt ráo không ngoài ý nghĩa 
đó. Phật giáo sở dĩ được  coi là một tôn giáo trọng trí tuệ nhất trong 
các tôn giáo là vì Phật giáo lấy sự  tự giác chân chính làm trọng yếu. 
Bởi thế, mà trí tuệ kể là một trong Tam học.  Song, có điều quan trọng 
là chúng ta đừng lầm lẫn trí tuệ ở đây với trí thức do  học vấn. Phật 
giáo, đặc biệt đến A-tỳ-đạt-ma, như đã trình bày ở trên, tuy rất  giàu 
thuyết minh tri thức học vấn, nhưng đó thật ra chỉ là phương tiện để đạt
đến trí chứ không có một nhiệm vụ tất nhiên nào cả. Trí tuệ của Phật 
giáo có  nghĩa là trí phán đoán cuộc đời là vô giá trị, đầu đau khổ, và 
tin chắc chắn vào  giá trị của giải thoát Niết bàn: đó là điều chúng ta 
cần ghi nhận (về sau, kinh  Bát nhã lấy không làm đối tượng của trí tuệ 
chính cũng từ đây mà ra). Theo ý  nghĩa ấy, Phật giáo trên đại thể, có 
thể nói bao hàm khuynh hướng chủ trí chủ  nghĩa và hợp lý chủ nghĩa. 
Nhưng, nếu cho Phật giáo là chủ nghĩa hợp lý, và chủ  nghĩa chủ trí thì 
lại là một sai lầm lớn, bởi lẽ, trong trí tuệ của Phật giáo  còn bao hàm
cả phán đoán tình ý, cho nên, trọng trí tuệ mà không bỏ qua tình  tình 
ý. 
 
3-
BA TUỆ VĂN, TƯ, TU. 
 
Song, làm thế nào để nuôi thành trí tuệ đó? Theo Phật  
giáo, trí tuệ có nhiều giai đoạn, phải dần dần và theo thứ tự mà tiến 
sâu vào.  đầu tiên phát tâm cũng do trí tuệ mà cuối cùng được giải thoát
cũng lại do trí  tuệ. Về điểm này tôi xin nói sau, ở đây, hiện đang bàn
về vấn đề tu dưỡng, và  trên đại cương, có thể chia tuệ làm ba giai 
đoạn, tức là ba tuệ văn, tư, tu.  Trong luận Thành Thật, quyển 16, phẩm 
Tam tuệ 194, lấy nó làm một đề mục độc lập  để luân cứu; trong Câu xá, 
quyển 22, thì nó làm phương tiện để vào kiến đạo.  Đương nhiên, đây chưa
hẳn đã là cách phân loại đặc hữu của Phật giáo. Trong kinh  Du Già 
(Yogasutra I, 48), cũng nói “Do thánh giáo lượng, tỷ lượng và nhiệt liệt
tu tập thiền định, do ba thứ đó mà hành giả được trí tuệ, được vô 
thượng Du  già”. Cứ theo chú giải của Vi Da Xá thì câu đó vì là truyền 
thuyết được dẫn dụng  cho nên được thừa nhận là phương pháp đạt đến trí 
tuệ cần thiết cho tất cả hạng  người tu hành, nhưng trong Phật giáo, sự 
phân loại này, ít ra cũng có một ý  nghĩa rất trọng yếu. 
 
Tựu trung, cái gọi là văn tuệ, như Thành-thật-luận nói,  
chỉ là cho trí tuệ phát sinh các Tu Đa La. Nếu nói một cách đơn giản thì
đó là  trí tuệ do nghe mà hiểu được nghĩa lý của điều mình nghe mà có. 
Trong tất cả trí  tuệ, đây tuy là nông cạn nhất, nhưng, về phương diện 
tu dưỡng nhập môn trong  Phật giáo, sự xuất hiện của nó được coi là rất 
trọng yếu. Vì văn tuệ ở đây không  phải hàm ý tất cả học vấn thuộc về 
tai, nhưng tất phải là văn tuệ của Phật giáo.  Theo ý nghĩa ấy, 
Thành-thật-luận trích lời trong kinh nói: “nghe các kinh điển  của Vi Đà
của thế tục vì không thể sinh trí tuệ vô lậu nên không thể gọi là văn  
tuệ” (Tam tuệ phẩm 194). Đệ tử của Phật được xưng là Thanh văn rốt cục 
cũng  không ngoài ý nghĩa đó. Bởi vậy, ta có thể giải thích văn tuệ 
trong Phật giáo đã  bao hàm ý thức tín ngưỡng Tam bảo, tức niềm tin vững
chắc cho rằng duy chỉ có  Phật, Pháp, Tăng là điểm tựa chân chính cho 
việc cầu giải thoát. Do đó, nếu đứng  về phương diện tiêu cực mà nói, 
ngoài Phật giáo ra, tất cả kinh điển, chế đa và  giáo pháp khác, trên 
căn bản, không có sức cải tạo con người. Trên thực tế, so  với các nơi 
Đại thừa Phật giáo thịnh hành, tại những xứ mà Thanh văn thừa (Tiểu  
thừa) được truyền bá, người ta thấy rất ít yếu tố khác xâm nhập Phật 
giáo, và  nền Phật giáo tại các nơi đó được bảo trì một cách thuần tịnh,
có thể nói, cũng  nhờ ở ý thức tín ngưỡng trên. Đối với ý nghĩa và giá 
trị của văn tuệ, chúng ta  cần phải đặc biệt chú ý. Tóm lại, nếu muốn từ
Phật giáo để rút ra một sự phán  đoán chính xác về đời người, thì điều 
kiện tiên quyết là phải hiểu rõ nghĩa lý  trong các giáo phái được ghi 
chép trong kinh điển hay trực tiếp nghe Phật dạy. 
 
Nghe chính pháp mà hiểu một cách chính xác và nếu chỉ  ghi 
nhớ trong đầu óc không thôi thì rốt cục nó cũng chỉ là tri thức, không 
giúp  ích cho tâm linh con người. Muốn cải tâm tất phải sinh hoạt hóa 
chính pháp, tức  là phải sống theo chính pháp. Mà cái phương pháp sinh 
hoạt hóa chính pháp được  đưa ra là hai loại tu tuệ và tư tuệ tiếp sau 
văn tuệ. Tư tuệ có nghĩa là nghiền  ngẫm những điều mình đã được nghe để
xác định nghĩa lý của nó. Bà sa, quyển 42  (Đại chính, 27, trang 217, 
trung), nói: văn tuệ chủ yếu là nơi câu văn, tư tuệ  tuy cũng do văn 
nhưng lại đặt nặng ở nghĩa (tham chiếu Câu xá, quyển 22). Lại  tiến lên 
bước nữa, bỏ văn theo nghĩa mà sự quy định sinh hoạt nội tâm của người  
ta là tu tuệ, mà trên phương diện pháp tướng của A-tỳ-đạt-ma, chủ yếu là
do  thiền định mới có thể đạt được. Đến tu tuệ thì trí tuệ mới triệt để
đến tâm  linh, bởi thế, cái cực trí của tu tuệ là tâm giải thoát[1]  (nghĩa là thoát dục), 
tuệ giải thoát (nghĩa là thoát vô minh), cuối cùng trở  thành đại tự 
giác tận trí và vô sinh trí. 
 
4-
ĐỊNH HỌC. 
 
Muốn đưa tu tuệ tiếp tục tiến lên, thì không phải chỉ  dựa 
vào sự hoạt động cân não hay tác dụng quan niệm là đủ, mà thật ra, phải 
đợi  đến năng lực thiền định và thực hành mới có thể tiến lên được. 
Trong việc sinh  hoạt hóa tư tưởng, mà tư tưởng lại phải do hành vi để 
tiến tới cụ thể hóa. Như  vậy là ở đây, cuối cùng phải có công phu dung 
hóa tư tưởng và công phu làm cho  hành vi đi đến cụ thể hóa. Cái phương 
pháp dung hòa tư tưởng là thiền định, còn  quy định hành quy để đi đến 
cụ thể hóa là giới luật. Tựu trung, thiền định như  sẽ trình bày sau, về
phương diện tiêu cực thâm cảm sự tồn tại là vô giá trị, ức  chế ngã 
chấp, ngã dục; còn về phương diện tích cực thì lấy sự tự do giải phóng  
sinh hoạt tinh thần làm tổ chức. Theo đồ thức ấy, một mặt ức chế cảm 
giác, mặt  khác nhờ sức tập trung tinh thần để cải tạo sự sinh hoạt của 
người ta. Có thể  nói, phương pháp này là căn bản trong tất cả phương 
pháphành đạo của Phật giáo  và thông cả Đại, Tiểu thừa, không miột giáo 
lý nào trong Phật giáo được thành  lập ngoài thiền. Nhất là Tiểu thừa 
giáo, vì xấy dựng trên cái gọi là tự lực chủ  nghĩa, nên, nếu rời xa 
thiền thì tất cả chỉ còn một lý luân suông. Theo ý nghĩa  ấy, tôi cho 
rằng, nếu rời xa thiền thì không có tuệ là tất nhiên, nhưng đồng  thời 
cũng không có giới nữa. 
 
5-
GIỚI HỌC. 
 
Như vậy thì giới hạnh chẳng qua chỉ là sản phẩm phụ  thuộc 
của thiền thôi sao? Không phải thế. Vì đứng ở một phương diện mà nói, 
nếu  xa lìa tuệ và thiền thì giới hạnh chỉ là hình thức, nhưng đứng ở 
phương diện  khác mà nói, nếu không thực hành giới hạnh thì tuệ và thiền
không thể được hoàn  thành; đồng thời nhờ thực hành giới hạnh mà tuệ và
thiền mới trở nên thuần chân,  bởi thế, giới hạnh quyết không thể được 
coi nhẹ hơn tuệ và thiền. Không những  thế, nếu khảo sát xa hơn chút 
nữa, thì tuệ và thiền không khỏi có tính cách cá  nhân, còn giới hạnh, 
bất luận theo ý nghĩa nào đều có tính xã hội, vì mỗi cử  động của người 
giữ giới có ảnh hưởng rất lớn đối với xã hội, về quan hệ, ít ra  là về 
mặt thực tế, nói theo một ý nghĩa nào đó, giới hạnh, so với thiền, tuệ, 
có  ý nghĩa rất trọng yếu, đây là điểm chúng ta cần ghi nhận. Cái lý do 
tại sao Phật  giáo đồ nguyên thủy tuy coi coi trọng thiền, tuệ, nhưng 
cũng nhiệt liệt thảo  luận về giới luật chính là ở đó. Theo ý nghĩa ấy 
thì tuệ và thiền cần phải có  giới mới được hoàn thành, nếu xa rời giới 
hạnh thì thiền và tuệ không thể coi là  hoàn toàn. 
 
6-
SỰ QUAN HỆ HỖ TƯƠNG GIỮA TAM HỌC. 
 
Tam học giới, định, tuệ, về mặt biểu diện, tuy thuộc  những
phạm trù khác nhau, nhưng về phương diện căn bản cải tạo sự sinh hoạt 
của  người ta, thì chúng có quan hệ rất mật thiết, hay có thể nói, là 
quan hệ nhân  duyên mà các bậc cổ đức thường ví như chiếc đỉnh ba chân, 
thiếu một chân không  đứng được. Tức là, muốn hoàn thành tuệ tất phải dự
tưởng thiền và giới hạnh;  cũng thế, muốn cho giới được hoàn thành tuệ 
tất phải dự tưởng thiền và tuệ, nếu  không, sẽ chẳng thể nào đạt đến 
giải thoát hoàn toàn. Đây không phải chỉ là chủ  trương của Phật giáo 
chính thống mà ngay đến Phật giáo bộ phái cũng không có gì  thay đổi. 
Đương nhiên, cứ theo văn tự mà nhận xét Tam học thì đó là phương châm  
lý tưởng để tu đạo, thể hiện tam vị nhất thể, nhưng, trên thực tế, từ 
thời đại  Phật giáo nguyên thủy đã do ý kiến nhiều người mà có ít nhiều 
điểm bất đồng.  Cũng vì thế mà đã sản sinh ra khuynh hướng các nhà 
chuyên môn (như Tu Bồ Đề[2]  chuyên ở trong núi. Ưu 
Ba Li là nhà chuyên về luật, và A Nan thì chuyên về thiền  định v.v…). 
Nhất là thời đại bộ phái[3]  thì khuynh hướng ấy lại 
càng rõ rệt, rồi đến Trung Quốc, Nhật Bản thì cuối cùng  đã chia thành 
Luật tôn, Thiền tôn, Học vấn tôn (Giáo tôn) v.v… tuy có lập ra  phái, 
nhưng đến Phật giáo bộ phái thì, tóm lại, lấy Tam học làm nhất thể mà  
hướng tời tu đạo, đó là nghĩa căn bản mà ta không thể bỏ qua. 
 
 	 
 		 		[1]
Về ý nghĩa tâm giải thoát và trí tuệ giải thoát, có thể tham chiếu  
Visuddhimagga, “Dùng định để ngăn phiền não nên gọi là tâm giảithoát” 
(Thành-thật-luận, quyển 44, thiện giác phẩm 182).
 		 		[2]
Tăng nhất a hàm,quyển 2 (Đại chính, 2, trang 557) – A. I,p. 24 – 26,
có  		đưa ra cả Tỷ khưu, Tỷ khưu ni, Tín nam, Tín nữ.
 		 		[3]
theo Bộ chấp dị luận thì như Khôi sơn trụ bộ (Kê dân bộ, Ngưu gia 
bộ)  		lấy luật làm phương tiện, nghiên hẳn về thiền, đó là một thí dụ. 
Lại  		nữa, về giá trị tu đạo của giới, định, tuệ thì trong 
visuddhimagga  		Chapt, I, p. nói: “Do giới mà vượt ác thú, do định mà 
siêu Dục giới, do  		tuệ mà vượt “Tam giới”.