I
Bối Cảnh Lịch Sử Khánh Hòa.
Khánh
Hòa ngày xưa thuộc xứ Kauthara vương quốc Chăm Pa. Năm
1631, chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên gã công chúa Ngọc Khoa cho vua Po
Romê. Vương phi Ngọc Khoa xin vua nước Chăm Pa cho người
Việt lập nghiệp ở vùng đất mới này. Đến năm 1653, quân Chăm
Pa quấy nhiễu người Việt và xâm chiếm Phú Yên,
chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần sai quan cai cơ Hùng Lộc đem đánh
dẹp, đẩy lùi quân Chăm Pa đến tận sông Phan Rang. Tại đây, vua Chăm Pa là Bà
Tấm xin hàng và dâng đất từ sông Phan Rang trở ra đến Phú Yên. Chúa Hiền đã đưa
người Việt đến định cư tại vùng đất mới và thành lập dinh Thái Khang
gồm hai phủ Thái Khang và Diên Ninh. Phủ Thái Khang gồm các huyện ở phía bắc:
Tân Định, Quảng Phước (nay là Ninh Hòa và Vạn
Ninh) và phủ Diên Ninh gồm các huyện ở phía nam: Phước Diên, Hoa Châu,
Vĩnh Xương (Diên Khánh, Cam Lâm, Khánh Sơn, Cam
Ranh, Nha Trang và một phần phía Bắc của tỉnh Ninh Thuận).
Sau đó đổi thành dinh Bình Khang rồi Trấn Bình Hòa và năm 1831
mới chính thức đổi tên thành tỉnh Khánh Hòa.
Trong
đoàn người di cư ấy có các nhà sư lên đường để hoằng
pháp và hướng đạo tinh thần cho cộng đồng người Việt
mới định cư. Vì vậy Phật giáo đã có mặt ở Khánh Hòa rất sớm như
các chùa: Minh Thiện, Hội Phước, Vạn Thiện, chùa Núi Phụng Thùy
Sơn, Thiên Bửu, Bảo Long, Bảo Phong, Linh Sơn, Thiên Lộc và Kim
Sơn v.v.. Theo sử liệu còn lưu giữ tại các chùa giúp chúng
ta biết được các nhà sư đến đây có nguồn gốc từ nhiều dòng phái
khác nhau : Thiền phái Đạo Mân Mộc Trần, thiền phái Liễu
Quán và thiền phái Chúc Thánh v.v..
Những danh
Tăng mở đạo thuở ban sơ thường được sử sách nhắc đến như các
ngài: hòa thượng Tịnh Đức Phổ Chiếu khai
sơn chùa Minh Thiện năm 1673, thiền sư Phật
Ấn Quảng Hiển và Tịch Viễn Hồng Quy khai sơn chùa Hội
Phước năm 1680, thiền sư Thiệt Vinh Bửu Hạnh, Thiệt
Điạ Pháp Ấn, Tế Điền Như Bổn, Tế Cảm Linh Phù, Tế Dưỡng Châu Cấp, Tế
Xuân Lưu Quang và Tế Hiển Bửu Dương v.v
"Dong buồn vượt biển vào đây
Thuyền Sư ghé lại những ngày hoang
sơ
Ba trăm năm lẻ đến giờ
Đạo phong vẫn tỏa xóa mờ thương
đau".
II
Sự Truyền Thừa Thiền Phái Liễu Quán.
Căn
cứ vào các bảng Chánh Pháp Nhãn Tạng, các Long Vị và một số
tư liệu hiện có tại tổ đình Hội Phước, chùa Thiên Bửu,
chùa Phổ Hóa, chùa Thanh Lương, chùa Linh Sơn, chùa Thiên
Thai Sơn Thạch Phú Yên, chùa Tân Long, chùa Thiên Lộc, chùa Từ
Ân Sài Gòn Gia Định và chùa Kim Cang Long An chúng
ta rõ được hành trạng và công hạnh truyền
thừa của thiền sư Tế Hiển Bửu
Dương.
Ngược
dòng thời gian cách đây trên 300 năm, trong số dân cư đặt chân lên bờ
biển Khánh Hòa hoang vắng có hòa thượng Tế Hiển Bửu Dương
là một trong những đệ tử đắc pháp với tổ sư Liễu
Quán đã rời kinh đô Huế, lên đường vượt biển về phương
nam. Thiền sư Bửu Dương đã dựng am tranh bên cạnh
dòng sông Lốt Ninh Hòa để công phu thiền tập. Sự tu
hành và tài đức của ngài tỏa sáng, cảm hóa được dân
chúng quanh vùng, danh tiếng đồn xa thiện tín và các quan
chức khắp nơi tìm đến tham học rất đông. Sau đó không lâu, thiền
sư đã nới rộng am tranh thành chùa Thiên Bửu thượng rồi
chùa Thiên Bửu hạ bên cạnh dòng sông Dinh. Công hạnh giáo hóa của
ngài đã lan rộng đến Nha Trang, Diên Khánh và đến Đồng Nai, Sài Gòn
Gia Định, Long An v.v...
Tổ Thiệt
Diệu Liễu Quán, một thiền sư lỗi lạc đời thứ 35 của
rừng thiền Lâm Tế. Ngài linh động chuyển thiền
phái Lâm Tế trở thành một tông phái đặc thù đậm
nét đạo pháp dân tộc Việt với dòng kệ truyền thừa có 48
chữ, 12 câu theo thể tứ cú dùng để đặt pháp danh:
“ Thiệt tế đại
đạo,
Tánh hải
thanh trừng,
Tâm nguyên quảng
nhuận,
Đức bổn từ phong,
Giới định phước
tuệ,
Thể dụng viên
thông,
Vĩnh siêu
trí quả,
Mật khế thành
công,
Truyền trì diệu
lý,
Diễn xướng chánh tông,
Hành giải tương
ưng,
Đạt ngộ chơn không.”
Hòa
thượng Thích Nhất Hạnh dịch nghĩa:
Đường lớn thực
tại
Biển thể tính trong.
Nguồn tâm thấm khắp
Gốc đức vun trồng.
Giới định phước huệ
Thể dụng viên thông.
Quả trí siêu việt
Hiểu thấu nên công.
Truyền giữ lý mầu
Tuyên dương chính tông.
Hành giải song song
Đạt ngộ chân
không.
Hòa thượng Viên
Giác đã phân tích bài pháp kệ trên thành lộ trình tu hành gồm
sáu bước:
1- Thể tính vắng lặng
2- Tâm thức thánh thiện
3- Công phu hoàn chỉnh
4- Trí tuệ vẹn toàn
5- Hóa độ nhân gian
6- Thành tựu thánh quả
Với lộ trình sáu bước, pháp kệ truyền thừa của tổ Liễu
Quán có tính cách định hướng đường lối tu tập
và hành đạo, qua đó thể hiện ý chí của Tổ một cách rõ
ràng rằng, nội dung mà một dòng thiền chuyên chở phải là sự vận
hành công đức giải thoát và giác ngộ trong
đời sống của xã hội nhân sinh. Đó là một định hướng mở
rất phóng khoáng phù hợp với bối cảnh phát triển xã
hội của dân tộc Việt vào thế kỷ XVIII.
Tổ Liễu
Quán sinh ngày 18 tháng 11 năm 1667 tại làng Bạc Má, huyện Đồng Xuân, nay
là xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên . Ngài mồ côi mẹ lúc lên 6
tuổi. Năm 12 tuổi theo cha lên chùa Hội Tôn lễ Phật. Vì cảm mến cảnh
chùa nên xin cha ở lại tu học. Duyên lành đến, hòa thượng Tế
Viên xuống tóc và ban cho ngài pháp danh Thiệt Diệu. Năm
ngài 19 tuổi, bổn sư viên tịch. Ngài tìm đến núi Hàm Long chùa Thiên
Thọ (Báo Quốc) cầu học với tổ Giác Phong. Năm 1695
thọ Sa Di giới với hòa thượng Trường Thọ Thạch
Liêm. Năm 1697, thọ Cụ Túc giới với hòa thượng Từ Lâm và
năm 1699 ngài bắt đầu cuộc hành trình tham vấn cầu đạo khắp
các thiền lâm, tâm thường suy nghĩ: Pháp nào là tối vi đệ nhất ta
quyết xả thân mạng y theo pháp tu hành. Nghe chư thiền
đức cho biết hòa thượng Minh Hoằng Tử Dung khéo dạy
pháp tham thiền. Ngài đến núi Long Sơn chùa Ấn Tôn (Từ Đàm) bái
yết Hòa thượng Tử Dung cầu pháp. Tổ Tử Dung dạy pháp tham
cứu công án " Muôn pháp quy về một, một quy về đâu?" . Một hôm
nhân xem Truyền Đăng Lục khi đọc đến câu " Chỉ
vật truyền tâm, người không hiểu rõ'' ngài liền tỏ ngộ đem trình sở ngộ
lên tổ Tử Dung.
Mùa hạ năm 1712, trong đại lễ " Toàn Viện được tổ
chức tại Quảng Nam, trong lúc ngài Liễu Quán trình bày kệ " Tắm
Phật" Tổ Minh Hoằng Tử Dung hỏi : " Tổ Tổ truyền nhau, Phật
Phật trao nhau; chẳng hay truyền nhau cái gì?. Ngài Liễu
Quán nói : " Búp măng trên đá dài một trượng, Phất tử lông
rùa nặng ba cân". Tổ lại hỏi: " Cao cao đỉnh núi đi thuyền, sâu sâu
đáy biển ngựa phi là sao?. Ngài đáp: " Suốt đêm gãy sừng trâu đất rống,
trọn ngày đàn gãy có dây đâu!" . Tổ Minh Hoằng Tử Dung vui
mừng ấn chứng ngài Thiệt Diệu Liễu Quán là tổ thứ 35
của dòng truyền thừa tông Lâm Tế.
Sau đó, ngài Liễu Quán vào núi Thiên Thai lập am tu
thiền và thường xuyên ra vào Huế, Phú Yên để hóa đạo. Từ
năm 1712 đến năm 1721, tổ đã lên đường hóa đạo, tiếp Tăng độ chúng
và khai sơn chùa Bảo Tịnh Phú Yên. Trong thời
gian này, thiền sư Liễu Quán đã giáo hóa được
nhiều đệ tử, một số đã được truyền tâm ấn tiếp nối đèn Pháp
của tổ trở thành bậc long tượng trong chốn thiền
môn, mở rộng phạm vi hoằng pháp vào miền Nam đến tận vùng
Đồng Nai, Gia Định, Mỹ Tho v.v..
Năm 1722, tổ Liễu Quán về Huế trụ trì chùa Thiền Tôn. Từ
năm 1733 đến năm 1735, ngài lần lược mở Đại giới đàn truyền giới. Mùa
xuân năm 1742 ngài mở đại giới đàn tại chùa Viên
Thông, cuối thu nhuốm bệnh, ngài gọi các các đệ tử đến bảo:
" Nhân duyên cuộc đời đã hết, ta sắp đi thôi! Mọi
người đều khóc. Ngài bảo các ngươi khóc điều chi? Chư Phật xuất
thế còn phải nhập Niết Bàn. Ta nay đường đi đã rõ , nẽo về đã có nơi.
Các ngươi không nên buồn khóc". Vài ngày trước lúc viên
tịch ngài ngồi ngay ngắn viết bài kệ từ biệt rằng:
" Tuổi đời đã quá
bảy mươi niên
Không không sắc
sắc chẳng ưu phiền
Hôm nay mãn
nguyện về quê cũ
Nào phải lăng xăng hỏi tổ tông'"
Sáng ngày 22 tháng11năm Nhâm Tuất 1742 ngài an nhiên thị tịch, hưởng
thọ 76 tuổi. Ngài độ được 49 đệ tử xuất gia và hàng
ngàn phật tử tại gia. Chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát ban lệnh lập
văn bia tuyên dương công hạnh của ngài và ban cho thụy
hiệu:
" Chánh Giác Viên Ngộ Hòa
Thượng".
Bảo
tháp tổ Thiệt Diệu Liễu Quán an trí trên núi Thiên
Thai, làng An Cựu, huyện An Trà, trong khuôn viên chùa Thiên
Thai Thiền Tôn Huế.
III Công
Hạnh Thiền Sư Tế Hiển Bửu Dương (1703-1791)
Hòa
thượng Tế Hiển Bửu Dương thuộc họ tộc Nguyễn Phước sinh năm 1703 tại Huế.
Ngài là người đầu tiên truyền thừa thiền phái Liễu
Quán vào vùng đất mới Khánh Hòa, Sài Gòn Gia Định và Long An.
Năm 1745 niên hiệu thứ 6 Cảnh
Hưng nhằm thời chúa Võ Nguyễn Phước Khoát, ngài khai sơn Thiên
Bửu thượng. Và sau đó lập thêm chùa Thiên Bửu hạ, nay gọi là tổ đình sắc
tứ Thiên Bửu hay chùa Tổ toạ lạc tại thôn Bình Thành, xã Ninh Bình thị xã
Ninh Hòa, cạnh dòng sông Dinh. Cảnh trí thanh tịnh nên
người xưa đã mô tả :
" Thanh thủy đoạn phiền não, cô thôn hiện già lam"
tạm
dịch: " Nước
sông dứt phiền não, thôn vắng hiện già lam".
Phải
chăng Thiên Thai Thiền Tôn là nơi ngài được truyền pháp và
Bửu Dương là pháp hiệu tổ Liễu Quán ban cho. Chọn 2 chữ đầu
tên chùa "Thiên" và "Bửu", gộp hai chữ ấy lại thành
"Thiên Bửu" là tên gọi của chùa?
Chùa Thiên Bửu thượng tọa lạc tại thôn Điềm Tịnh, xã Ninh Phụng, thị
xã Ninh Hòa với kiến trúc theo kiểu chữ " Môn" gồm chánh điện,
Đông lang và Tây lang và trước cổng Tam Quan có hai câu đối:
Thiên
nhân cung kính Thế tôn, phước huệ viên dung khai
giác lộ
Bửu
địa trang nghiêm Phật độ, nhân duyên thành
tựu khải từ môn
Tạm dịch là:
Trời
người cung kính Thế tôn phước huệ, tròn đầy mở đường
giác
Đất
quí trang nghiêm cõi Phật, duyên lành thành tựu khải cửa
từ
Tiền
đường có chạm câu đối của Tổ Phước Tường:
Thiên
đạo hoằng khai, thiên cá tu hành thiên cá đắc
Bửu
vân quảng nhuận, thất trùng lan thuẩn thất trùng tu.
Tạm dịch là:
Chánh
pháp mở ra, ngàn kẻ tu hành, ngàn kẻ được
Mây lành toả khắp, bảy
hàng cây báu, bảy hàng tu.
Thiền
sư Tế Hiển Bửu Dương có khai sơn chùa Từ Bi. vì
trên long vị của ngài thờ ở chùa sắc tứ Tập Phước Gia Định
có ghi : " Từ Bi đường thượng, tam thập lục thế húy Tế
Hiển, thượng Bửu hạ Dương đại lão hòa thượng".
Năm 1747, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 8, ngài trùng hưng
chùa Phổ Hóa do tổ Tế Dưỡng Châu Cấp khai sơn ở xã Ninh
Bình.
Năm 1763, ngài đã chứng minh đúc Đại hồng chung ở
chùa Thanh Lương xã Ninh Thân:
上寶下楊和尚證明.大越國廣南處平康府新定縣中總平安社平安村.住持僧積仁大積仁大師.清涼寺奉佛今本道及十方善男信女眾等.景興二十四年四月吉日鑄鴻鐘…
"Thượng
Bửu hạ Dương, hòa thượng chứng minh, Đại Việt quốc, Quảng Nam xứ,
Bình Khang phủ, Tân Định huyện, Trung tổng, Bình An xã, Bình
An thôn. Trụ trì tăng Tích Nhơn Đại sư, Thanh Lương
tự phụng Phật, kim bổn đạo cập thập phương thiện nam tín
nữ chúng đẳng. Cảnh Hưng nhị thập tứ niên, tứ ngoạt
kiết nhựt chú Hồng Chung…”
Có
nghĩa là: “Tại thôn Bình An, xã Bình An, tổng Trung, phủ Bình Khang,
huyện Tân Định, xứ Quảng Nam, nước Đại Việt, Hòa thượng húy thượng
Bửu hạ Dương Chứng minh đúc đại hồng chung, vào năm Cảnh
Hưng thứ 24, tháng tư ngày lành chuông do đại sư Tích
Nhơn trụ trì chùa Thanh Lương cùng thiện nam tín
nữ, thập phương bổn đạo cúng dường tạo lập…
Có lẽ trong chiến tranh sợ bị thu để làm vũ khí nên nên người trong chùa mang
chung đi dấu, nhưng lâu quá bị thất lạc?
Một hôm, một người câu cá ở bàu Bơi bất ngờ trông thấy một đại hồng
chung nổi lên rồi chìm xuống ở bàu. Người ấy lặn xuống nhìn thấy chiếc
chuông nằm úp sát lớp cát ở đáy bàu. Nghe tin dân chúng xúm
lại kéo lên, dùng hết sức mà quả chuông lớn vẫn không nhúc
nhích. Sau đó dân làng thiết lập hương án cầu nguyện thì
chuông kéo lên nhẹ nhàn.
Ngoài
những công hạnh xây chùa, tạo tượng đúc
chuông ra hòa thượng Tế Hiển Bửu Dương đã đào
tạo những đệ tử nổi danh như:
1 Hòa thượng Đại Thông Chánh
Niệm (1710-1810)
2 Hòa thượng Đại Phước Liễu Tánh
3 Hòa thượng Đại Bửu Kim
Cang (1740-1765)
4 Hòa thượng Đại Bồ Thiện Đề.
Ngày 20 tháng 2
năm 1791, tổ Tế Hiển Bửu Dương viên tịch tại tổ đình Thiên Bửu. Sự ra
đi của ngài đã khép lại một cuộc đời tận tụy phục vụ đạo
pháp nhân sinh trong buổi đầu mở đạo. Tổ Tế Hiển Bửu Dương là vị sao
sáng trong rừng thiền, làm tỏ rạng thiền phái Liễu Quán tại
xứ trầm hương. Kế thừa chùa Thiên Bửu khoảng 100 năm
sau, hòa thượng Thanh Chánh Phước Tường noi gương
tổ tiếp tục truyền đuốc trao đèn và dày công đào
tạo ra những danh Tăng phục vụ đạo pháp dân tộc. Ngọn
đuốc Bồ Tát Thích Quảng Đức đã thắp sáng trang sử Phật
Giáo Việt Nam trong mùa pháp nạn 1963. Thiền sư Tâm Trung Nhơn
Thứ, người thắp ngọn đuốc tuệ soi sáng cõi sương mù Đà Lạt. Môn
phong Liễu Quán tại Khánh Hòa đã thắp sáng niềm tin cho người Phật
tử Việt Nam nhiều thế hệ.
Tháp tổ Tế Hiển Bửu Dương được môn đồ tứ chúng tạo lập tại chùa
Thiên Bửu thượng. Đây là một trong những di tích lịch sử văn
hóa cổ tháp nổi tiếng tại Khánh Hòa. Tháp cao 5,5m, trên đỉnh có
hình hoa sen đỡ bầu rượu, tất cả có 7 tầng, 56 góc của tháp đều gắn đầu
rồng. Chung quanh tháp là lan cang bao bọc, cao 1m rộng 6 tấc, bốn góc thành
khắc hoa sen. Tầng trên cùng, ba mặt trước trang trí hoa văn lưỡng long
tranh châu, các mặt chung quanh còn lại khắc hình những linh vật kỳ
lân phụng hoàng. Kế tầng dưới 4 mặt chạm trổ Phạn ngữ và hoa văn
mai lan cúc trúc… Tầng dưới cùng phía trước đặt tấm bia, 7 mặt còn
lại khắc các bài kệ bài tán bằng thể thơ ngũ ngôn hay bát cú.
Tháp tổ Tế Hiển Bửu Dương hình bát giác có 7 tầng tượng
trưng thất Phật, hình bát giác tượng trưng bát chánh đạo.
Chung quanh Tháp có xây thành hình vuông. Tại 4 góc thành có 4 cây
trụ cao đắp hình hoa sen trên đầu trụ. Hai bên cửa Tháp có hai cây
trụ lớn chạm nổi hình hai con rồng chầu, hai bên cửa tháp có hai con lân phục.
Đây là cổ tháp kiến trúc kỳ vĩ, chạm trổ tinh vi, đường nét uyển chuyển
mềm mại, sắc nét, có long chầu, lân phục.
Bia Tháp có câu đối
hai bên bia:
Chánh
quả tại liên hoa thượng phẩm
Duyên
thành ư bảo tháp trung sanh
Tạm dịch:
Chánh
quả trên thượng phẩm hoa sen
Duyên
thành nở giữa lòng bảo tháp
Bên phải tháp có bài kệ:
Kiến
sắc phi ư không
Văn
thinh bất thị thiệt
Sắc
thinh ngã mạc tưởng
Thân
đáo liên hoa đài.
Tạm dịch là:
Thấy
sắc chẳng phải không
Nghe
tiếng không là thật
Sắc
tiếng ta đừng nghĩ
Thân
đến liên hoa đài
Tháp cổ Bửu Dương là một di tích cổ có nghệ thuật kiến trúc và chạm
trổ hết sức tinh tế của tiền nhân còn lưu tại làng quê
yên bình Điềm Tịnh, Ninh Hòa. Hàng năm, vào ngày 19,20 tháng 2 âm lịch,
môn phong tổ chức lễ húy kỵ tổ sư Tế Hiển Bửu Dương tại tổ đình Thiên
Bửu và hiệp kỵ chư vị lịch đại tổ sư kế thế trụ
trì trùng hưng tam bảo là để tri ơn và tán dương công
hạnh truyền thừa dòng thiền Liễu Quán nơi xứ trầm
hương, một quê hương đẹp như ý thơ của ai đó đã diễn tả:
"
Khánh Hòa là xứ trầm hương
Non xanh nước biếc,
người thương đi về"
1 Hòa
thượng Đại Thông Chánh Niệm ( 1710-1810)
- Hòa
thượng Đại Thông là vị tổ thứ 4 kế thừa chùa Hội Phước. Năm
1742, ngài đã dời chùa từ đồi Hoa Sơn ( núi Một ) xuống vùng đất bằng
cát trắng ở vị trí chùa hiện nay và đổi lại tên thành
chùa Hội Phước. Tổ thứ năm là ngài Đạo An Phổ Nhuận đã chú
tạo đại Hồng Chung còn lưu truyền đến nay. Tiếng
chuông ngân nga mầu nhiệm vì có sự gia trì nhiều
đời tổ sư. Hòa thượng Đạo An có bài kệ phó chúc cho
2 đệ tử Tánh Minh Trí Quang và Tánh Lý Trí Minh
như sau:
Pháp
bổn nguyên lại thị pháp tâm
Pháp
ngoại phi pháp mạc cánh tầm
Pháp lý ngộ thời chơn
thị pháp
Vĩnh
chấn tông phong vạn cổ truyền
dịch nghĩa:
Pháp
vốn xưa nay là pháp tâm
Ngoài pháp chẳng pháp
chớ lại tầm
Trong
pháp tỏ rồi đây chánh Pháp
Bền
vững tôn phong mấy vạn năm.
Hòa
thượng Tánh Minh là tổ thứ 6 kế thừa chùa Hội
Phước tiếp theo là các ngài: 7 Như Huệ Thiền Tâm, 8 Thanh
Minh Huệ Châu, 9 Chơn Hương Thiên Quang, 10 Thanh Chánh Phước Tường,
11 Thị Thọ Nhơn Hiền, Ấn Ngân Tín Liên, Đồng Kỉnh Tín Quả và đương kim trụ
trì là hòa thượng Thích Quảng Thiện.
- Hòa
thượng Đại Thông Chánh Niệm trong thời
gian khai sơn chùa Thiên Lộc, Ngài có đệ tử Đạo
Nguyên Viên Dung (1779-1834) là người đã chứng minh khắc
bảng Khoa Du Già là một kỳ tích nổi
tiếng của Phật Giáo Khánh Hòa với bài kệ truyền tụng:
Mỗi nhật thần hôn nghệ
chú hương
Tạ thiên, tạ địa, tạ
quân vương
Thường kỳ xứ xứ điền hòa
thục
Đản
nguyện gia gia thọ mạng trường
Thánh chúa, hiền thần an
xã tắc
Phụ từ, tử thuận ổn gia
nương
Tứ
phương bình định can qua tức
Tam chúc toàn xương tụng
vô cương.
Bản Kinh đã hoàn thành vào năm 1832 tại chùa An
Dưỡng với sự chứng minh của chư tôn đức:
- An Dưỡng tự húy Chương
Huấn, tự Tông Giáo trú trí thủ hộ kinh
- Thiên Lộc tự húy thượng đạo hạ
Nguyên, Viên Dung hòa thượng chứng minh
- Long Quang tự húy thượng Liễu hạ
Đạt, tự Bảo Hưng đại sự truyền thọ
Hòa
thượng Đạo Nguyên Viên Dung có đệ tử: Tánh Hồng Hải
Tạng và các pháp tôn: Hải Vinh Phổ Tường, Hải Ân Từ Điệp Chánh
Thành, Hải Huệ Chánh Nhơn, Thanh An Chánh Tín, Thanh
Hương Phổ Hiện và truyền đến Hải Chấn Chánh Ký, hòa
thượng Trừng San giám viện Phật học viện Hải Đức, hòa
thượng Thanh Tràng Như Tịnh chùa Linh Nghĩa, hòa thượng Trừng
Huệ Như Ý chùa Linh Sơn và hòa thượng Trừng Lộc
Chơn Kiến chùa Thiên Phú v.v..
- Hòa thượng Đại Thông Chánh
Niệm khai sơn chùa Tân Long ( xưa là chùa Linh Sơn), có
các đệ tử Đạo Thành Như Cảnh truyền đến ngài Tánh Thường
Quy Trụ khai sơn chùa Thiên Thai Sơn Thạch Sông Cầu.
Năm1889, ngài Tánh Thường mở giới đàn tại chùa Thiên
Tôn Tuy An.
Ngài Hải Huệ Trí Giác là đệ tử của hòa
thượng Tánh Thường: Trong dịp đại trai đàn tổ chức tại
chùa Kim Quang Huế. Hòa thượng Pháp Tạng chùa Phước
Sơn thủ gia trì chẩn tế đại khoa, hòa thượng Pháp
Hỉ chùa Linh Sơn thủ pháp sư thuyết pháp, hòa
thượng Hải Huệ Trí Giác chùa Thiên Thai thủ sám
chủ nghi lễ được vua Thành Thái mến phục ngợi
khen và cúng dường nhiều bảo vật. Hòa thượng Trí
Giác có đệ tử Thanh Phước Nguyên Long là bổn sư của đại
sư Trừng Hằng Vĩnh Bảo kế thừa tổ đình Phước Long đã đào
tạo nhiều Tăng tài như:
- HT Tâm Minh Truyền Chánh Liên Châu
chùa Long Quang có đệ tử Nguyên Đạt du học tại Nhật
và khai sơn thiền viện Liễu Quán và chùa Bảo Tịnh tại Nam
Cali, Nguyên An khai sơn chùa Cổ Lâm Seattle, Nguyên Kim,
Nguyên Thành đang dịch kinh tại chùa Bảo Tịnh Phú Yên, và
Nguyền Tồn trụ trì chùa Long Quang Sông Cầu v.v..
- HT Tâm Dung Truyền Diệu
Liên Phương kế thừa chùa Thiên Hưng có đệ
tử Nguyên Trực khai sơn chùa Từ Nhãn tỉnh Bà Rịa Vũng
Tàu và Nguyên Trí khai sơn chùa Bát Nhã Nam Cali.
- HT Tâm Quảng Truyền Độ Viên
Dung kế thừa chùa Châu Lâm có đệ tử là Nguyên Đức thừa
kế chùa Hồ Sơn Phú Yên.
- HT Tâm Bổn Truyền Lai Trí Nghiêm, người
hy hiến cuộc đời cho đạo pháp. Sau khi tốt nghiệp tại Phật
học đường Bảo Quốc, hoằng pháp tại các tỉnh Quảng Nam,
Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Ngài là vị giảng sư lỗi lạc của
Hội Phật Học miền Trung, là vị Đường đầu hòa
thượng của các đại giới đàn Trí Thủ, Thiện Hòa v.v.. và đặc
biệt đã phiên dịch rất nhiều bộ kinh, luận như: Kinh lời
vàng, Kinh Phổ Môn Giảng Lục, Kinh Pháp Hoa Giảng Lục, Kinh
Đại Bát Nhã, Luận Thành Thật v.v..Ngài có đệ tử Nguyên
Tịnh chùa Thiền Tôn Canada.
- HT Tâm Thông Truyền Hữu kế
thừa chùa Phước Long Xuân Lộc thủ chí phụng đạo và chọn việc chăm sóc
ruộng vườn làm phương tiện tu tập "Dĩ nông vi thiền"
để tấn đạo nghiêm thân.
2 Hòa
thượng Đại Phước Liễu Tánh
Tổ
thứ 2 kế thừa chùa Thiên Bửu là hòa thượng Đại Phước Liễu
Tánh kiêm trụ trì chùa từ Ân Gia Định. Long
vị thờ ở chùa Từ Ân có ghi: "Lâm Tế
gia phổ, Từ Ân trùng kiến, tam thập thất thế, húy Liễu Tánh
thượng Đại hạ Phước".
( Có tài liệu ghi tổ thứ 2 kế
thừa chùa Thiên Bửu là ngài Đại Trí (1897-1944). Đây là một sự
nhầm lẫn bởi vì ngài Thích Đại Trí có pháp danh là Trừng
Thông hiệu Nhơn Duệ là đệ tử của hòa thượng Thanh
Chánh Phước Tường (1867-1932) sau đó vào Phan Rang Tu
học và được hòa thượng Huệ Đạo ban cho pháp
hiệu Đại Trí)
Tổ thứ 3 kế thừa chùa Thiên Bửu là
ngài Đạo Phước Minh Tôn.
Tổ thứ tư là hòa thượng Liễu
Bửu Huệ Thân. Năm 1835, ngài được mời ra kinh đô dự " thủy lục
đạo tràng" siêu độ vong quan vào tiết Trung
nguyên được vua Minh Mạng ban giới đao độ điệp và hiện nay
vẫn còn lưu giữ tại tổ đình. Tiếp sau tổ Liễu Bửu Huệ Thân, kế
thừa trụ trì Thiên Bửu được chi thành 2 nhánh:
- Chùa Thiên Bửu thượng tiếp kế
thừa là các ngài: 5. Thanh Chánh Phước Tường là bổn sư
của hòa thượng Thích Quảng Đức, 6 Trừng Tương Nhơn Sanh năm 1934
tổ chức Đại giới đàn, 7 Tâm Đạo Nhơn Hưng, 8 Tâm
Kính Bảo Thành, 9 Trừng Lãnh Nhơn Vinh, 10 Thị Hiệp, 11 Tâm Kỳ, 12 Tâm
Hòa, 13 Tâm Văn, 14 Tâm Bảo, 15 Nguyên Hoa Thiện Tường và ĐĐ.Nhuận Đăng.
- Chùa Thiên Bửu hạ tiếp kế thừa là
các ngài: 5 Đạt Khương Từ Hội, 6 Ngộ Hương Phổ Nhàn,7 Tâm Tựu Hạnh Nguyên, 8
Ngộ Giáo Phổ Châu, 9 Tâm Đức Từ Phong, 10Tâm Phước Hạnh Hải và 11 Quảng Thường
Ngộ Tánh.
3 Hòa
thượng Đại Bửu Kim Cang (1740-1765)
Hòa
thượng Đại Bửu Kim Cang là vị tổ khai
sơn chùa Linh Sơn Vạn Giã. lúc ban đầu gọi là Sa Long
tự. Ngài là đệ tử đắc pháp với tổ Tế Hiển Bửu Dương tại tổ đình
Thiên Bửu. Truyền rằng khi ngài ngồi tu dưới gốc cây, thì có một con hỗ
đến sanh nở bên cạnh, ngài vẫn điềm nhiên ngồi tĩnh tu. Năm 1761,
ngài mới lập chùa, tạo tượng, đúc chuông. Đến đời Tây Sơn các chuông
chùa đều bị tịch thu để đúc vũ khí, đại hồng chung chùa Linh
sơn được bổn đạo mang đi dấu nhưng sau đó bị thất lạc. Một bà
lão đi mò ốc một hôm phát hiện quả chuông tại cửa sông Hiền Lương, sợ quá
bà tri hô lên. Làng Tân Đức và Hiền lương tranh nhau chiếm
giữ quả chuông phải đưa đến cửa quan. Quan xử làng nào có chùa, chuông về làng
ấy. Tân Đức không có chùa, nên chuông được cúng chùa Linh Sơn. Trên
thành Hồng Chung có ghi rõ năm tháng chú tạo: " Cảnh
Hưng nhị thập nhị niên, Tân Tỵ bát nguyệt" đúng vào năm tổ
Đại Bửu đã khai sơn chùa nên mọi người đều mừng.
Chùa Linh Sơn là một thắng địa hội tụ được khí thiêng sông núi
để Phật tử bốn phương quy ngưỡng. Tiếp sau tổ Đại Bửu, kế
thừa truyền đăng tục diệm là các ngài: Ngộ Thuận Phước Minh, Ấn
Chánh Huệ Minh, Chơn Hương Thiên Quang,Chơn Công Viên Giác, Thị
Thủy Quảng Đức, Tâm Thanh Tịch Tràng và đương kim trụ
trì là hòa thượng Thích Thiện Dương.
4 Hòa
thượng Đại Bồ Thiện Đề
Hòa
thượng Đại Bồ Thiện Đề khai sơn chùa Kim Cang ở xã
Bình Thạnh, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An là đệ tử tổ Tế Hiển Bửu
Dương. Tiếp nối trụ trì là các ngài: Đạo Đăng Bửu
Hương, Tánh Đức Vạn Bửu, Hải Lương Chánh Tâm (1836-1906), Thanh Nhựt Độ Long,
Trừng Thọ Thiện Quới v.v..
Ngoài kiến trúc đẹp chùa Kim
Cang hiện nay chùa Kim Cang ở Long An còn lưu giữ 299 mộc bản
chữ Hán tinh xảo trong đó có các kinh như Kim Cang, Bát
Nhã v.v.. của các tổ xưa để lại.
V. Tâm
Hương Nguyện Cầu
"
Công ai đổ xuống đất này
Cho hoa
đạo pháp càng ngày thêm xinh"
Tìm về cội nguồn lịch sử Phật giáo truyền thừa nơi
xứ trầm hương này cũng chính là khơi dậy trong lòng Tăng
Ni và Phật tử một niềm tri ơn toàn thiện. Tổ Tế Hiển Bửu
Dương là người đầu tiên đem dòng thiền Liễu Quán đến Khánh Hòa và
hàng môn đệ của ngài tiếp tục thắp sáng và truyền đèn pháp
đến Đồng Nai, Sài Gòn Gia Định, Long An và Cao Nguyên Đà Lạt soi
tỏ đời sống tín ngưỡng và văn hóa tâm linh,
giúp mọi người tự hoàn thiện với chính mình và vươn lên
với " Chân, Thiện, Mỹ".
Dòng thiền Liễu Quán xứ trầm hương đã ươm mầm bồ
đề giải thoát cho nhiều thế hệ Tăng Ni tại Phật
Học Viện Hải Đức, Trường Phật Học Khánh Hòa và các tổ
đình: Hội Phước,Thiên Bửu, Long Sơn, Linh Sơn, Tân Long, Thiên
Lộc, Thiên Phú, Nghĩa Phương, Đông Phước, Linh Nghĩa, Linh
Quang, Liên Hoa, Giác Hải, Viên Ngộ, Kỳ Viên v.v.. đều
được gội nhuần diệu lý của "Thật tế đại đạo"
và noi gương thầy tổ tiếp tục lên đường " Truyền
trì diệu lý diễn xướng chánh tông" trên quê
hương thân yêu hoặc nơi xa hơn nữa là các quốc
gia hải ngoại.
Để tưởng nhớ ơn sâu mở đạo, ghi lòng nghĩa lớn truyền
đăng, nhân dịp Lễ tưởng niệm húy nhật Tổ Sư Thiệt
Diệu Liễu Quán lần thứ 279, đốt nén tâm hương và
xin chắp tay nguyện cầu đèn thiền luôn tỏ rạng soi đường cho hàng hậu
học chúng con tiến bước.
Thích Thánh Minh
( Kỷ niệm ngày giỗ Tổ Liễu
Quán tại chùa Hội Phước New Mexico, năm Tân Sửu 2021)