Phật
giáo thời Lý được coi là Quốc giáo, những tăng sĩ có học vấn uyên thâm
thường được tham gia vào công việc trọng đại của triều đình và được
phong làm Quốc sư, những ngôi chùa trở thành nơi dạy học, và có những
ngôi chùa vừa là nơi thờ Phật vừa là nơi hành cung của vua chứng tỏ cả
vua quan, hoàng thất, nhân dân thời Lý đều tham gia việc xây dựng chùa.
Bởi vậy mà kinh thành Thăng Long có thể được coi là nơi xây dựng nhiều
ngôi chùa cổ thời Lý, minh chứng cho thời kỳ cực thịnh của Phật giáo
trong cả nước.
Ngôi
chùa được xây dựng lâu đời nhất của Thăng Long - Hà Nội và cũng là một
trong những ngôi chùa cổ nhất của Việt Nam chính là chùa Trấn Quốc nằm
trên đường Thanh Niên bên cạnh Hồ Tây mơ mộng. Chùa Trấn Quốc được xây
dựng từ thời vua Lý Nam Đế (544 – 548) ở bãi bên sông Hồng thuộc phường
Yên Hoa (nay là Yên Phụ) với tên là chùa Khai Quốc (mở nước). Nhà sư Ngô
Chân Lưu Khuông Việt (933 – 1011), vị Quốc sư của triều vua Lê Đại Hành
đã tu ở đây. Đến triều Lê Thái Tông thế kỷ 15, chùa được đổi tên là
chùa An Quốc. Năm 1615, bãi sông Hồng bị lở nên dân đã dời chùa về đảo
Kim Ngư (đảo Cá Vàng) chính xưa là nền cũ của cung Thúy Hoa nhà Lý và
điện Hàm Nguyên thời Trần. cuối thể kỷ 17, đời vua Lê Hy Tông mới có tên
là chùa Trấn Quốc.
Chùa Trấn Quốc
Chùa
có quy mô lớn và trong câu mở đầu tấm bia đá là năm Dương Hòa thứ 5
(1693) do trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính soạn đã ghi lại "Quý thay chùa
Trấn Quốc, là cảnh đẹp phủ Phụng Thiên, danh lam miền kinh địa... Chùa
được xếp vào hàng thứ tư của nước Nam". Chính năm này, chúa Trịnh cho
sửa lại chùa, xây dựng Tam quan và hành lang hai bên, trồng sen quanh
chùa và biến nơi thờ cúng thành hành cung riêng của nhà chúa. Đây là nơi
các chúa Trịnh thay phiên nhau tới vui chơi hưởng lạc nhất là vào thời
chúa Trịnh Giang và Trịnh Sâm.
Vào
năm Bính Ngọ (1786) nhờ có nghĩa quân Tây Sơn ra Bắc “phù Lê diệt
Trịnh” thì Lê Chiêu Thống mới dẹp được họ Trịnh. Y đã cho nổi lửa thiêu
hết tất cả các đền đài, cung điện của nhà chúa. Chùa Trấn Quốc may mắn
đã được hàng ngàn người dân trong vùng kéo đến trấn giữ quanh chùa và
cho rằng họ Trịnh chiếm chùa của dân để làm hành cung, nay phải trả lại
cho dân làm nơi thờ Phật. Vì vậy mà những căn phòng làm cho bọn hoạn
quan và cung nữ ở bị phá sạch.
Cũng
từ đó, nơi đây trở lại chốn trang nghiêm, thanh tịnh. Một số cung nữ bị
vùi dập trong cung cũng đã cắt tóc đi tu tại chùa này. Cuối thế kỷ 18,
chùa bị đổ nát, dân làng đã sửa chữa, đắp tượng, đúc chuông và công việc
kéo dài tới 2 năm. Năm 1842, vua Nguyễn là Thiệu Trị ra Bắc Hà, tới
thăm chùa và đổi tên chùa thành Trấn Bắc nhưng tên này không được nhân
dân chấp nhận mà vẫn giữ nguyên cách gọi tên Trấn Quốc.
Khu vườn tháp trong chùa Trấn Quốc
Chùa
Trấn Quốc cũng có kiến trúc khá đặc biệt so với những ngôi chùa khác.
Ngay con đường dẫn vào cổng chùa là khu Vườn tháp. Trong khu Vườn tháp
này có nhiều ngôi tháp cổ từ thời Vĩnh Hựu và Cảnh Hưng thế kỷ 18. Cổng
chùa có ba chữ “Phương tiện môn”, tiếp đến nhà Bái đường ở phía trước,
sau đó đến Tam bảo, còn hành cung thập điện và gác chuông lại ở phía
sau. Đó thực sự là một ngôi chùa đẹp, có lịch sử lâu đời ngay trong lòng
Thủ đô Hà Nội.
Cũng
tại vùng đất Thăng Long này, một ngôi chùa có kiến trúc rất đặc biệt
được xây dựng thời kỳ đầu nhà Lý và trở thành một biểu tượng chùa độc
đáo của nước ta, đó là chùa Một Cột.
Chùa
nằm trên đất thôn Thanh Bảo, huyện Quảng Đức, phía Tây hoàng thành
Thǎng Long thời Lý, nay thuộc phố chùa Một Cột, quận Ba Đình - Hà Nội, ở
bên phải Lǎng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chùa Một Cột
Theo Đại Việt sử ký toàn thư,
chùa được xây dựng vào nǎm Kỷ Sửu, niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo năm thứ
nhất (1049) đời Lý Thái Tông. Mùa đông tháng 10 dựng chùa Diên Hựu.
Trước đây vua Lý Thái Tông chiêm bao thấy Phật Quan Âm trên toà sen đưa
tay dắt vua lên toà. Khi tỉnh dậy, vua kể lại cho các quan nghe, có
người cho là điềm không lành. Sư Thiền Tuệ khuyên nhà vua làm chùa, dựng
cột đá ở giữa hồ, làm toà sen của Phật Quan Âm như đã thấy trong mộng.
Chùa xây xong, cho các nhà sư đến làm lễ, đi vòng quanh chùa niệm Phật
cầu phúc cho vua sống lâu, vì thế đặt tên là chùa Diên Hựu. Thời Lý đó
là một cụm kiến trúc gồm ngôi chùa và tòa đài xây dựng giữa hồ vuông.
Đài này lâu nay người ta quen gọi là chùa Một Cột – hình vuông đặt trên
cột đá hình trụ. Trên cửa Phật đài có biển đề “Liên hoa đài” (Đài hoa
sen) ghi nhớ lại sự tích nằm mộng của vua Lý dẫn đến việc xây chùa.
Theo
văn bia chùa Đọi tạc năm 1121 thì hình ảnh ngôi chùa Một Cột thời Lý
huy hoàng hơn nhiều: “Đào hồ thơm Linh Chiểu, giữa hồ vọt lên một cột
đá, đỉnh cột nở đóa sen nghìn cánh, trên bông sen dựng riêng một tòa
điện màu xanh, trong điện đặt pho tượng vàng tài năng nhân đức, vòng
quanh hồ là dãy hành lang, tường vẽ; lại đào ao Bích Trì bao quanh; mỗi
bên đều bắc cầu vồng để đi qua. Phía sân cầu đằng trước, hai bên tả hữu
xây dựng bảo tháp lưu ly”.
Như
vậy kiến trúc chùa Một Cột thời Lý là một dạng kiến trúc chùa biểu
tượng của Phật giáo chứ không phải kiến trúc chùa thông thường.
Năm
1080, mùa xuân tháng 2, vua lệnh đúc chuông cho chùa Diên Hựu. Đó là
một quả chuông rất lớn. Người ta nói phải dựng cả một tòa phương đình
cao 8 trượng (20 -25m) xây bằng đá xanh để treo chuông. Nhưng chuông
đánh không kêu nên chẳng được treo mà để ở ngoài ruộng chùa. Ruộng ấy
thấp lầy, có nhiều rùa gọi là Quy Điền cho nên chuông chùa Một Cột đặt ở
đó cũng gọi là chuông Quy Điền. Tuy nhiên đến năm 1427, giặc Minh đang
bị nghĩa quân Lam Sơn giam hãm trong thành đã phá hủy chuông để lấy đồng
đúc súng đạn.
Chùa
Một Cột hiện nay được xây dựng trên một cái cột đá tròn cao 4m và có hệ
thống khung gỗ chống đỡ. Toàn bộ ngôi chùa được làm bằng gỗ, hình
vuông, mỗi cạnh dài 3m. Chùa được đặt giữa hồ vuông có tường thấp bao
quanh và có chiếc thang xây bằng gạch và vữa để dẫn lên chùa. Còn chiếc
ao tròn bọc ngoài với các đường hành lang, có cầu bắc qua và tháp lợp
ngói sứ trắng đều không còn gì cả. Năm 1954 trước khi rút ra khỏi Hà
Nội, quân đội Pháp đã cho nổ mìn phá hủy Liên Hoa Đài.Ngôi chùa Một Cột
hiện nay ta nhìn thấy là kết quả của quá trình tu bổ do Chính phủ làm
lại khi tiếp quản thủ đô năm 1955.
Cũng
có một ngôi chùa có lịch sử gần 1000 năm tuổi khác có tên là chùa Láng,
gắn liền với một huyền thoại hoang đường mang đầy triết lý Phật giáo:
kiếp trước, kiếp sau, luân hồi, nhân quả…
Chùa Láng xưa
Chùa
nằm trên đất Láng thượng, trước kia thuộc huyện Thanh Trì rồi đến huyện
Từ Liêm, nay ở trong phường Láng thượng, quận Đống Đa, Hà Nội. Nguyên
đây là đất trại Yên Lãng, tổng Hạ, huyện Vĩnh Thuận xưa, ngay trên nền
nhà cũ của cha mẹ Từ Đạo Hạnh là ông Từ Vinh và bà Nguyễn Thị Loan. Chùa
còn có tên khác là Chùa Cả và tên chữ của chùa là Chiêu Thiền Tự. Chùa
còn được tạo dựng từ thời vua Lý Thần Tông (1128 - 1138).
Xa
xưa tương truyền, thời Lý có nhà sư Từ Đạo Hạnh tu đắc đạo, pháp thuật
cao, hoá kiếp tại chùa Thầy nay thuộc huyện Quốc Oai, Hà Nội, được Đại
Điện giúp đầu thai làm con trai Sùng Hiền Hầu (em ruột Lý Nhân Tông).
Vua Lý Nhân Tông không có con trai nên khi về già lập con trai của Sùng
Hiền Hầu tức Từ Đạo Thành làm thái tử, sau này là vua Lý Thần Tông (kiếp
sau của Từ Đạo Hạnh). Khi cha mất, Lý Anh Tông (con Lý Thần Tông) đã
xây chùa Chiêu Thiền để thờ vua cha (Lý Thần Tông) và Từ Đạo Hạnh. Cũng
chính vì vậy mà giữa chùa Láng và chùa Thầy có mối liên hệ với nhau,
cùng mở hội một ngày: “Nhớ ngày mồng bảy tháng ba/ Trở về hội Láng trở
ra hội Thầy”. Như vậy, chùa được xây dựng từ thế kỷ XII. Qua nhiều lần
trùng tu mà hai lần sửa chữa lớn là vào giữa thế kỷ 16 và giữa thế kỷ 19
khiến chùa có diện mạo như ngày nay.
Chùa
Láng có một kiến trúc khá độc đáo mang dáng dấp cung đình. Chiếc cổng
vào bằng gạch xây với bốn cột vuông vút cao gắn ngang sườn ba chiếc mái
cong, chiếc mái giữa cao hơn hai bên.
Qua
một sàn lát gạch Bát Tràng là đến Tam quan mở ra con đường lát gạch hai
bên có tường hoa dẫn đến nhà phương đình hình bát giác, nơi đặt tượng
“Thánh” làm lễ trong ngày hội Láng. Phía sau là chùa chính bề thế và
phóng khoáng trong không gian yên tĩnh, thanh tịnh.
Trong
chùa ngoài tượng Phật còn có hai dãy Thập điện Diêm Vương diễn tả các
hình phạt đối với kẻ ác khi xuống Âm phủ. Đặc biệt là có hai pho tượng:
một của Từ Đạo Hạnh đan bằng mây phủ sơn ta, một của vua Lý Thần Tông
bằng gỗ với sự tích hoang đường là kiếp sau của Từ Đạo Hạnh.
Như
vậy, có thể điểm qua một số ngôi chùa cổ có nguồn gốc từ thời Lý, đó là
những ngôi chùa được xây dựng ngay tại kinh thành Thăng Long, nơi phát
triển về mọi mặt đời sống trong đó có cả đời sống tín ngưỡng – tôn giáo
của người dân. Những ngôi chùa cổ đó đều do các tầng lớp vua chúa, quan
lại có công xây dựng và tu sửa nên quy mô của chúng là khá lớn. Mặc dù
trải qua nhiều lần trùng tu, những ngôi chùa cổ không còn giữ được vốn
nguyên gốc như ban đầu nhưng chúng vẫn được coi là những di tích có giá
trị đặc biệt trong dịp kỷ niệm đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội.
Vietbao (Theo: Người Hà Nội)