Chùa còn được gọi là Chiêu Thiền tự với ý nghĩa rằng: “Vì có điều
tốt rõ rệt nên gọi là Chiêu, là nơi sinh ra Thiền sư Đại Thánh nên gọi
là Thiền”. Tương truyền, chùa được xây dựng dưới thời Lý Anh Tông. Cùng
với chùa Thầy (Quốc Oai), chùa Láng cũng thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Dân
gian có câu: Nhớ ngày mồng bảy tháng ba, Trở về hội Láng, trở ra hội Thầy.
|
Nhà bát giác hai mái tạo nên sự thanh thoát. |
Trải qua những biến động của thời gian và lịch sử, chùa Láng đã được
trùng tu nhiều lần. Lần trùng tu lớn dưới thời Lê Trung Hưng 1656. Văn
bia còn lưu lại đoạn ca ngợi cảnh chùa: Thật là danh lam bậc nhất, thế
gian không có chùa nào sánh kịp. Khí tốt Phượng thành bên hữu toả khắp,
dòng sông Tô Lịch bên tả lượn vòng, Nhị Hà nghìn dặm quanh Kinh đô uốn
khúc, như rồng xanh lớp lớp chầu về, Tản Viên dãy núi đầy khí đẹp hướng
vào, như hổ trắng đàn đàn đến họp.
Đây là một quần thể kiến trúc rộng lớn, được xây dựng theo kiểu “nội
công ngoại quốc”, tính ra vừa đủ 100 gian. Cổng chùa bao gồm bốn cột
vuông với ba mái cong không chùm lên cột mà gắn vào sườn cột, mái giữa
cao hơn hai mái bên. Đôi câu đối viết theo lối Khải thư rất đẹp ghép
bằng những mảnh sứ màu xanh làm tăng thêm vẻ trang nghiêm cổ kính của
ngôi chùa.
|
Cổng chùa Láng. Ảnh tư liệu |
Qua cửa tam quan là con đường lát gạch Bát Tràng nằm giữa một vườn
muỗm có tuổi trên 300 năm. Đây là một trong những di tích hiếm hoi của
Hà Nội còn giữ được đủ 9 cây muỗm. Ở cuối con đường có ngôi nhà bát giác
nơi đặt tượng Từ Đạo Hạnh. Mái nhà lợp theo kiểu mái chồng, hai tầng
trông rất thanh thoát và hài hòa. Sau nhà bát giác này là các công trình
chính trong chùa như: bái đường, nhà thiêu hương, thượng điện, các dãy
hành lang, nhà tổ và tăng phòng...
Hiện nay trong chùa còn lưu giữ nhiều di vật cổ có giá trị, trong đó
có pho tượng Từ Đạo Hạnh bằng mây đan phủ sơn mặc áo cà sa. Bức tượng
này đã có từ rất lâu, tương truyền có từ thời Lý, đến thời Lê (khoảng
năm 1644 - 1646) được tu bổ cơ bản và đến tháng 1 năm 2005, sau hơn 300
năm, bức tượng một lần nữa được tu bổ toàn diện. Việc phát hiện về lớp
cốt trong cùng của bức tượng đã làm sáng rõ truyền thuyết là người xưa
đã dùng mây đan, rút thành cốt tượng sau đó đem xá lị ngài trộn với sơn
ta bồi đắp nên thành tượng.
Trong quá trình tu bổ, các nhà nghiên cứu đã phát hiện lớp cốt tượng
trong cùng được đan bằng một loại đồng đã được rút thành sợi, một kỹ
thuật đã có từ thời cổ đại, sau đó dùng sợi mây đã chẻ, phết sơn ta quấn
kín sợi đồng mà thành hình cốt tượng. Bên trong tâm tượng còn phát
hiện được 7 đồng tiền cổ có các dòng chữ “Đại Thuận Thông Bảo| và một
gương đồng cổ.
Ngoài ra trong chùa còn có tượng Lý Thần Tông bằng gỗ ngồi trên ngai
vàng. Dưới mái hành lang là hai dãy thập điện và 18 vị La Hán cùng
nhiều tượng thờ có niên đại từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX trải dài từ
đời Lê đến triều Nguyễn được bàn tay tài hoa của các nghệ nhân tạo tác
rất sinh động mang tính nghệ thuật cao.
|
Con đường lát gạch Bát Tràng nằm giữa vườn muỗm cổ thụ. |
Tấm bia cổ nhất còn lại ở đây được dựng năm Thịnh Đức thứ 4 (1656) cao
1,4m, rộng 0,8m, hoa văn tinh xảo. Văn bia do tiến sĩ Nguyễn Văn Trạc
viết. Bia Phúc điền cùng 13 tấm bia khác từ thời Tự Đức đến thời Bảo
Đại. Tại đây hiện còn lưu giữ các đạo sắc phong của các triều Lê, Tây
Sơn, Nguyễn, 30 bức hoành phi, 31 đôi câu đối, một “đại hồng chung” và
một khánh lớn bằng đồng đúc năm Thiên vận Mậu Ngọ (1738).
Hội chùa Láng cử hành vào ngày mồng bảy tháng ba âm lịch, là ngày
sinh của Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Trong ngày hội có nhiều trò diễn, trò vui
thu hút được rất đông phật tử, nhân dân khắp nơi đến dự. Đây là một
diễn xướng tổng hợp văn nghệ - thể thao của cả một vùng quê nằm hai bên
bờ sông Tô, mang đậm nét văn hoá của kinh thành Thăng Long xưa.