Phật
Giáo Nam Tông ở Huế bắt đầu bằng việc thành lập chùa Tăng Quang vào năm
1954 do Hoà thượng Hộ Tông và Hoà thượng Giới Nghiêm ( trực tiếp là Hoà
thượng Giới Nghiêm ) chủ trương xây dựng. Nếu như, Phật Giáo Nam Tông
Việt Nam được khai sáng nhờ công đức của các ngài Hoà thượng Hộ Tông,
Hoà thượng Thiện Luật, và Hoà thượng Bửu Chơn thì Phật Giáo Nam Tông cố
đô Huế được khai sáng và du nhập bởi Hoà thượng Giới Nghiêm.
Đến năm 1958, chùa Tăng Quang tiến hành xây Chánh điện và ngôi Bảo tháp
tôn trí Xá-lợi Đức Phật Thích Ca. Năm 1963, Xá-lợi Đức Phật Thích Ca
chính thức được cung thỉnh về tôn thờ tại Bảo tháp của chùa Tăng Quang
cho đến nay.
2.1.Lịch sử hình thành và phát triển của chùa Tăng QuangChùa
Tăng Quang, tên tiếng Pàli: Sangharànsyaràma, chùa hiện nay toạ lạc ở số
2/3/ Kiệt 91, đường Nguyễn Chí Thanh , phường Phú Hiệp, thành phố Huế.
Dân địa phương thường gọi là “chùa Áo Vàng” – cách gọi giản dị và mộc
mạc của người dân dành cho ngôi chùa có những vị sư mặc áo màu vàng lõi
mít, không giống như những ngôi chùa ở Huế lúc đó .
Tại vùng này, ngày xưa có một địa điểm gọi là Hồ Ông Mười (tức ông Hoàng
Mười) mà ngày nay được cải tạo thành trường phổ thông trung học Gia
Hội. Lúc bấy giờ, ở Huế có Tăng mà không có Tự, nên ông Nguyễn Thiện
Đông và bà Nguyễn Thị Cúc - một trong những thiện nam tín nữ đầu tiên hộ
trì Tam Bảo của Phật Giáo Nguyên Thuỷ ở Huế đã xin phép Đức Giới Nghiêm
cho thành lập một ngôi chùa Phật Giáo Nguyên Thuỷ ở Huế để chư Tăng có
nơi tu hành và phật tử có nơi cúng dường. Được sự đồng ý của Đức Giới
Nghiêm, hai ông bà ra sức vận động và quyên góp tài chính để mua căn nhà
số 1/1 đường Võ Tánh - Thành phố Huế và lập nên ngôi chùa, tức Tăng
Quang Tự ngày nay. Chính nhờ thiện nam Nguyễn Thiện Đông và tín nữ
Nguyễn Thị Cúc cùng các quý ông bà là những Phật tử có đức tin kiên cố
đã thường xuyên hỗ trợ mà chùa Tăng Quang được kiến tạo nên. Cũng chính
nhờ cơ sở này mà Phật Giáo Nguyên Thuỷ có nơi bám trụ và phát triển cho
đến ngày hôm nay tại thành phố Huế.
Thượng toạ Định Lực - một trong những vị trụ trì chùa Tăng Quang cho
biết: “chùa được xây dựng năm 1954 với hình thức cải gia vi tự - tức là
mua lại căn nhà cũ, sửa chữa đôi chút cho phù hợp để làm thành chùa. Đại
diện thí chủ dâng cúng là ông Nguyễn Thiện Đông và bà Nguyễn Thị Cúc.
Hoà thượng Giới Nghiêm đại diện chư Tăng chứng minh” .Chùa Tăng Quang
thời kì này không có gì đặc biệt vì đó chỉ là một ngôi nhà lá đơn sơ với
vài ba liêu thất để chư Tăng hành đạo.
Năm 1958, chùa được xây dựng lại với mô hình kiến trúc tân kỳ, không
giống hình thức lúc ban đầu - chỉ là hình thức cải gia vi tự, tạm thời
có địa điểm để chư Tăng cư ngụ hành đạo và hành pháp. Thời kỳ này chùa
Tăng Quang tiến hành trùng tu chánh điện và xây dựng bảo tháp. Ngày
khánh thành có sự chứng minh của Hoà Thượng Hộ Tông, Hoà thượng Bửu
Chơn, Hoà thượng Thiện Luật cùng với hơn 60 vị từ kheo từ miền Nam ra
tham dự. Cũng trong năm này, chùa được xây dựng và kết giới sìmà theo
truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thuỷ.
Năm 1963, chùa Tăng Quang tiến hành trùng tu và xây dựng lại, các công
trình xây dựng thời kỳ này gần như tồn tại cho đến ngày nay.
Như vậy
ta thấy rằng, từ khi được xây dựng cho đến nay chùa đã được trùng tu,
sửa chữa nhiều lần, nhờ oai lực của Tam Bảo, nhờ đạo hạnh của các vị tu
sĩ, nhờ đức tin kiên cố và sự hỗ trợ không ngừng của những thiện nam tín
nữ, nhìn chung trong lịch sử chùa Tăng Quang liên tục được tu bổ. Tuy
vậy, trong quá trình từ khi thành lập đến nay, chùa cũng có những giai
đoạn phát triển và cũng có những khúc quanh cùng với lịch sử đấu tranh
Cách mạng của đất nước ta.
2.2.Kiến trúc chùa Tăng Quang:Đại
sư Viên Minh từng nói: “Kiến trúc là một trong những đặc trưng của nền
văn hoá… kiến trúc phản ánh đặc trưng văn hoá, phản ánh tư tưởng, tâm
hồn, trí tuệ… mà qua đó chúng ta có thể đoán được sự hưng vong của
khuynh hướng hay trường phái phát sinh ra nó” [. Chùa Tăng Quang là ngôi
chùa của Phật Giáo Nam Tông, đến với chùa Tăng Quang, chúng ta dễ nhận
thấy sự khác biệt so với những ngôi chùa khác: Không tôn- nghiêm-
cao-khiết như chùa Tịnh Độ Tông, không huyền - bí- thâm- u như chùa Mật
Tông, cũng không hồn nhiên, dung dị như chùa Thiền Tông. Chùa Tăng Quang
với kiến trúc đơn giản cho ta cảm nhận nét giản dị, thực tế, trong
sáng, trầm ổn và thanh thoát, hay cụ thể hơn là sáng sủa, thông khoát,
cao nhã, thanh nhu và mạnh mẽ.
Kiến trúc chùa Tăng Quang thay đổi qua các thời kỳ xây dựng. Thời kỳ
đầu(1954) kiến trúc chùa không có gì đặc biệt vì đó chỉ là ngôi nhà lá
đơn sơ. Thời kỳ thứ hai(1958), chùa trùng tu và xây dựng Bảo tháp. Chánh
điện thờ Phật, tuy không lớn nhưng đường nét kiến trúc hoàn toàn khác
biệt với những ngôi chùa xứ Huế ngày đó. Lối kiến trúc này mô phỏng theo
kiến trúc Campuchia và Thái, tuy nhiên do thiếu tài liệu và chưa quen
với mô típ kiến trúc và họa tiết trang trí chùa tháp Thái – Miên nên
những người thợ xây dựng thời ấy chưa thể hiện được nghệ thuật độc đáo,
tinh xảo của mô típ kiến trúc này.
Thời kỳ thứ ba(1963) chùa Tăng Quang được xây dựng tương đối hoàn chỉnh
và hiện trạng ấy tồn tại cho đến ngày nay. Các công trình xây dựng trong
chùa hiện nay gồm Chánh điện, Bảo tháp, Tăng xá, nhà khách, trai đường
và linh đường. Ngoài Chánh điện và Bảo tháp, các công trình còn lại xây
cất bình thường, không có gì đặc biệt về kiến trúc.
Kiến trúc chùa Tăng Quang hiện nay được mở đầu bằng cổng Tam quan, có ba
lối vào, lối giữa rộng và lớn hơn so với hai lối hai bên. Trên mỗi cánh
cổng của chùa Tăng Quang đều có trang trí. Cánh cổng giữa trang trí
bánh xe tượng trưng cho Thập nhị nhân duyên, hai cánh cổng hai bên là
bánh xe tượng trưng cho Bát chánh đạo, mặt tiền cánh cổng đắp dòng chữ
“Tăng Quang Tự”.
Từ cổng Tam Quan vào trong chùa du khách sẽ đi bằng hai lối bên tả và
bên hữu. Ở giữa hai lối này đặt một cái chung đỉnh và một hồ sen bán
nguyệt tự tạo, mặc dù kích thước nhỏ bé nhưng chung đỉnh làm cho ngôi
chùa thêm phần oai nghiêm và hồ sen trắng làm cho cảnh chùa thêm thanh
khiết, nhẹ nhàng. Đi hết cái sân nhỏ là đến ngôi Chánh điện và toà Bảo
tháp tôn trí Xá-lợi Đức Phật. Chánh điện và Bảo tháp được kiến tạo chung
một không gian. Chánh điện ở tầng trệt, Bảo tháp được xây ở trên và nằm
về phía mặt tiền của Chánh điện, trước thềm Chánh điện là bậc tam cấp,
bên tả và bên hữu đều có trang trí tượng rồng đá chầu.
Ngoài ra còn có hai cây Sàlà Long thọ trồng mỗi bên. Loài cây này tương
truyền là nơi Đức Phật Đản sanh và Nhập diệt. Từ bên ngoài nhìn vào
Chánh điện, du khách sẽ nhận ra vẻ tôn nghiêm, thanh tịnh và trầm hùng -
phần nào là nhờ dáng dấp uy nghi vời vợi của ngôi Bảo tháp. Đây cũng
chính là điểm gây chú ý cho khách thập phương, không chỉ là độ cao mà
còn là kiểu dáng và sắc vàng phủ trùm lên toàn bộ toà tháp và Phật điện
có thể dễ dàng nhận ra đây là ngôi chùa Phật Giáo Nguyên Thuỷ.Năm 1995
Hòa thượng Định Lực có làm bài thơ như sau:
THÁP CHÙA TĂNG QUANG
Bảo tháp Tăng Quang ngự Huế thành
Tôn thờ Xá-lợi Đấng Cha lành
Sàlà Long thọ hầu hiên trước
Bảo tọa từ tôn độ chúng sanh
Đông uyển ngạt ngào lai dạ lý
Tây viên hòe thọ ướt tàng xanh
Liễu đào soi bóng liên trì nguyệt
Phạm hạnh tu hành dứt trọc thanh.
Bảo
tháp hình vuông, cao khoảng 25m, có 6 tầng mái. Nổi bật trên nền trời
với biểu tượng toà sen xoè cánh trên đỉnh. Mặt tiền của tầng tháp đắp
nổi dòng chữ Sangharànsyaràma ( Tăng Quang Tự) theo hình bán nguyệt,
phía dưới dòng chữ là phù điêu Đức Phật ngồi thiền định, bên trái khỉ
chúa dâng quả, bên phải bạch tượng quỳ hầu, mảng phù điêu này thể hiện
câu chuyện Đức Phật khuyên dạy các thầy Tỳ kheo ở thành Kosambi không
được nên Ngài lặng lẽ vào rừng nhập hạ mà không có một Tỳ kheo nào theo
hầu cả, trong thời gian nhập hạ ở núi rừng chỉ có khỉ và voi là thị giả
ngài mà thôi. Dưới hình Đức Phật có dòng chữ “Theravàda” (Phật Giáo
Nguyên Thuỷ) nằm ngay chánh môn của Phật điện.
Cửa vào Chánh điện cũng có ba cửa, một cửa lớn ở giữa và hai cửa phụ hai
bên, ngoài ra Chánh điện còn có hai cửa phụ ở bức tường bên trái và bên
phải. Chánh điện cao và thoáng mát, nền được lát bằng gạch hoa, trên
bốn bức tường treo nhiều bức ảnh thể hiện lịch sử của Đức Phật. Ngoài
ra, còn có hai đầu voi trắng trên hai cột ở cửa ra vào.
Trong Chánh điện có một pháp toạ để pháp sư giảng pháp và hai tủ Tam
tạng Thánh điển Pàli tiếng Thái. Phía trái còn đặt một cái chuông bằng
đồng. Phía dưới hai tủ Tam tạng là hai thùng phước sương.
Ở ngoài
Chánh điện, phía trái là Tăng xá hai tầng mới được xây lại vào năm 2000 –
2001, khi dãy nhà cũ dùng làm Tăng xá bị hư hỏng nghiêm trọng sau trận
lũ 1999. Trận lũ lịch sử này đã làm hư hại chùa.Hiện nay cạnh nhà Tăng
xá còn có công trình kỷ niệm trận lũ lịch sử này. Công trình do bác sĩ
Lý Văn Kim(USA) cúng dường, hoàn thành vào 1/2001. Sau lưng Tăng xá là
nhà khách, trai đường ở sau Chánh điện. Bên phải Chánh điện là ngôi nhà
vừa mới tu sửa, xây dựng lại, dùng làm nơi dạy học ngoại ngữ và Phật
pháp cho các em thiếu nhi địa phương. Ngoại trừ Chánh điện, các công
trình còn lại như Tăng xá, trai đường, nhà khách…đều xây bình thường để
đáp ứng nhu cầu sử dụng
Hệ thống thời tự trong ngôi chánh điện:
Nếu như các chùa hệ phái Đại
Thừa Bắc Tông thường thờ Phật Tam Thế (quá khứ, hiện tại,vị lai), cùng
với việc thờ tự các Ngài như: Phật Di Lặc, Ca Diếp Tôn Giả, An Nan Tôn
Giả... Các vị Bồ-tát như Văn Thù, Đại Thế Chí, Quan Âm, Địa Tạng … Thì
chùa Tăng Quang – ngôi chùa thuộc hệ phái Nam Tông lại có nét khác biệt,
trong Chánh điện chỉ tôn thờ duy nhất Phật Thích Ca.
Trên bệ thờ là tượng Phật toạ thiền. Bên phải là tượng Phật thời niên
thiếu, bên trái là tượng Phật lúc nhập diệt. Cách thờ tự này cho ta thấy
rõ tư tưởng cũng như giáo lý của hệ phái Nam Tông rất trung thành với
giáo lý Nguyên Thuỷ, chỉ tôn thờ Phật Thích Ca. Khác hẳn với các ngôi
chùa Bắc Tông, do trong quá trình phát triển bị ảnh hưởng văn hóa từ
nhiều quốc độ nên thờ nhiều vị Bồ-tát.
Ngoài ra, hiện nay trong Chánh điện của chùa Tăng Quang phía dưới bệ thờ
Phật Thích ca còn có bàn thờ các vị sư có công đức với việc truyền bá.
Bên phải là bàn thờ Hoà thượng Hộ Tông - người khai sáng Phật Giáo
Nguyên Thuỷ ở Việt Nam. Bên trái, là bàn thờ Hoà thượng Giới Nghiêm –
người có công đầu trong việc du nhập và truyền bá Phật Giáo Nguyên Thuỷ
vào Huế. Phía dưới khu vực bệ thờ, nơi chư Tăng và Phật tử hành lễ hàng
ngày, bên phải là bàn thờ Hoà thượng Định Lực - một trong những vị trụ
trì chùa Tăng Quang đã viên tịch năm 2005.
Từ khi thành lập cho đến nay chùa Tăng Quang trải qua những đời trụ trì :
Hoà thượng Giới Nghiêm
Hoà thượng Ẩn Lâm
Hoà thượng Hộ Nhẫn
Đại đức Giới Hỷ
Hoà thượng Định Lực
Đại đức Tánh Hiền
Như
vậy Chùa Tăng Quang là ngôi cổ tự đầu tiên của Phật Giáo Nam Tông xứ
Huế. Chùa là minh chứng cho sự thành công trên con đường truyền nhập đạo
pháp của các vị tiền sư, đặc biệt là đại đức Giới Nghiêm. Hiện nay, trủ
trì Chùa là Đại đức Tánh Hiền, chùa hiện có 6 vị. Ngôi chùa đã qua
nhiều lần trùng tu sửa chữa, về cơ bản chùa Tăng Quang đã được xây dựng
khá hoàn chỉnh và vững chãi. Tuy nhiên, qua quan sát thực tế thì hiện
nay chùa Tăng Quang còn tồn tại một số bất cập.
Thứ nhất , quang cảnh trước chùa là một hồ rộng cỏ dại mọc um tùm, không lấy làm mỹ quan.
Thứ
hai, chùa là nơi thờ tự Đức Phật Thích Ca - một yếu tố quan trọng trong
tâm linh mỗi người và là nơi tu tập của nhiều chư Tăng, song Chánh điện
cũng như các công trình khác trong chùa được xây dựng ở vùng đất trũng
trước đây nên còn thấp, khả năng bị ngập lụt rất cao.
Thứ ba, khu nhà dành để dạy ngoại ngữ và giảng pháp cho các em thiếu nhi
còn trang bị sơ sài chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng. Vì thế rất cần
tấm lòng của các tín đồ Phật giáo để làm cơ sở vật chất của chùa ngày
càng được cải thiện hơn.
Ngày nay, khi mà chúng ta đã có đủ tất cả những điều kiện để tìm về với
những giá trị văn hoá dân tộc, những yếu tố văn hoá mang tính tâm linh
thì việc quan tâm nâng cấp chùa Tăng Quang là việc làm rất cần thiết.
Bởi lẽ, dù kiến trúc của chùa chưa thật nổi bật, dù bề dày lịch sử có
phần khiêm tốn so với các ngôi chùa khác ở Huế, những ngôi Quốc Tự hàng
trăm năm thì chùa Tăng Quang vẫn có giá trị lớn với lịch sử Phật Giáo
Nam Tông xứ Huế. Chùa là cơ sở đầu tiên và hết sức quan trọng cho sự
phát triển và lan toả Hệ phái Nam Tông cố đô Huế. Chùa không chỉ là nơi
tu hành siêu phàm thoát tục mà còn là nơi để con người tĩnh tâm cho tâm
hồn thanh thản sau những lo toan bộn bề của cuộc sống bụi trần. Lời tụng
kinh tiếng Pàli dù không phải ai cũng dễ dàng lãnh thụ, song mỗi lần
quỳ dưới chân Đức Phật ta thấy lòng nhẹ nhàng hơn. Tiếng chuông chùa là
một âm thanh huyền diệu đã đi vào lòng người hơn nửa thế kỷ qua.
Tăng Quang - giản dị và oai nghiêm, thanh nhu và thuần khiết sẽ mãi mãi
xứng đáng là ngôi chùa đầu tiên của Phật Giáo Nam Tông xứ Huế. Sắc vàng
và đạo hạnh của chư Tăng sẽ vươn cao, vươn xa hơn nữa trong tương lai
như lời bài thơ trong sáng và mộc mạc của sư Trung Thiện:
Tăng Quang – ánh sáng Tăng già
Thong dong y bát ngàn nhà gieo duyên
Giọt mưa, hạt nắng, bạn hiền
Ong vàng nhẹ cánh khắp miền nở hoa
Đến
với Cố đô thanh bình và thơ mộng du khách không chỉ được hưởng thụ vẻ
đẹp của sông Hương núi Ngự hiền hoà, vẻ đẹp cổ kính của đền đài lăng
tẩm, mà còn đến với chùa để tâm hồn thanh thản, tìm lại sự tĩnh lặng cần
thiết trong cuộc sống hiện đại ồn ào. Chính vì vậy, nếu ta biết bảo vệ
và phát huy điểm mạnh của những ngôi chùa Huế trong đó có chùa Tăng
Quang, đồng thời quan tâm hơn nữa trong công việc xây dựng nâng cấp chùa
thì những ngôi chùa sẽ góp phần vào việc bảo vệ bản sắc văn hóa dân
tộc, gìn giữ nếp sống tâm linh cùng chung với Phật giáo xứ Huế - thì quả
là tốt đẹp biết bao nhiêu!
Các bậc thức giả nói rằng, văn minh khoa học, kinh tế chỉ đáp ứng nhu
cầu vật chất cho con người; nhưng văn hóa và các giá trị tâm linh mới
thật sự đem đến thanh bình và an lạc cho con người muôn nơi, muôn thuở.
Kim Thoa