Những giả thuyết này có thể tóm tắt trong bốn điểm :
1) Sự gặp gỡ giữa đạo Phật và Tây phương là một điều bổ ích,
không riêng cho Tây phương mà cho cả thế giới. Hơn nữa, sự phát
triển của đạo Phật tại Tây phương là một dịp may lớn đối với đạo
Phật, nó sẽ mang lại cho đạo Phật nguồn sinh khí cần thiết. Ðó có
thể là một cuộc Chuyển Pháp luân mới.
2) Ðạo Phật sẽ dần dần thoát khỏi hình thức tôn giáo, tín ngưỡng,
và sẽ tồn tại lâu dài dưới hình thức một con đường tâm linh thế tục
và phổ biến (spiritualité laique et universelle), mở rộng cho tất
cả mọi người, thuộc những truyền thống, văn hóa khác nhau.
3) Tương lai của đạo Phật không còn nằm ở Ðông phương, mà là ở
Tây phương. Ðạo Phật Tây phương sẽ là đầu tầu cho sự chấn hưng của
đạo Phật, qua những đổi thay tất yếu đưa tới bởi những điều kiện xã
hội kinh tế, khoa học kỹ thuật mới, bắt nguồn từ Tây phương.
4) Phật giáo Việt Nam phải dựa theo kinh nghiệm của đạo Phật Tây
phương, nếu muốn tự canh tân, hiện đại hóa, để thích hợp với thời
đại. Dù muốn hay không, đạo Phật Việt Nam cũng không thoát khỏi định
luật toàn cầu hóa (mondialisation), và sẽ bắt buộc phải tiến hóa
theo chiều hướng thế giới, tức là chiều hướng Tây phương.
Những giả thuyết đó dựa lên những lập luận sau đây, mà chúng tôi xin phép được trình bầy :
Ðối với nhà sử học văn minh Arnold Toynbee, "Sự kiện có ý nghĩa
nhất của thế kỷ XX là sự gặp gỡ giữa đạo Phật và Tây
phương"("L'évènement le plus significatif du XXè siècle est la
rencontre du bouddhisme et de l'Occident").
Sự đánh giá đó đã được
chứng minh một cách hùng hồn bởi sự phát triển mạnh mẽ của đạo Phật
tại các nước Âu, Mỹ và Úc châu, trong mấy thập niên vừa qua.
Sự phát triển này không phải chỉ thể hiện trên bề mặt, qua các
phim ảnh báo chí (hiện tượng được gọi là "Buddhamania"), mà còn thâm
nhập xã hội Tây phương trong chiều sâu, qua sự phổ biến rộng rãi
kinh sách, sự thành lập của hàng ngàn tự viện, thiền thất, sự tổ
chức những khóa tu học Phật mỗi ngày một thêm đông đảo. Trong nhiều
nước Tây phương, đạo Phật đã trở thành tôn giáo thứ ba, sau Ky Tô
giáo và Hồi giáo.
Vậy thì, từ lưu vực sông Hằng, sau khi được truyền bá về hướng
Nam vào thế kỷ thứ III trước CN dưới hình thức Nguyên Thủy, về hướng
Ðông vào thế kỷ thứ I dưới hình thức Ðại Thừa, về hướng Bắc vào thế
kỷ thứ VII dưới hình thức Kim Cương Thừa, phải chăng Phật pháp đang
được truyền bá về hướng Tây vào thế kỷ XX, dưới hình thức tạm gọi
là Tây Phương Thừa?
Phải chăng sự truyền bá Phật pháp về hướng Tây này là một cuộc
Chuyển Pháp luân mới? Những câu hỏi này lại kéo thêm ba câu hỏi nữa :
1. Ðạo Phật Tây phương có những điểm gì khác biệt so với đạo Phật Ðông phương?
2. Ðạo Phật Tây phương đã đóng góp được những gì, và có thể nào mang lại một nguồn sinh khí mới cho Phật giáo thế giới?
3. Phật giáo Việt Nam có thể nào dựa lên kinh nghiệm của đạo Phật
Tây phương, để tự mình canh tân, hiện đại hóa, thích hợp với thời
đại?
-oOo-
Nhìn qua những thể hiện đầu tiên của sự gặp gỡ giữa đạo Phật và Tây phương, chúng ta có thể đưa ra một vài nhận xét :
a) Những biến chuyển xẩy ra trên thế giới vào cuối thế kỷ XX cho
thấy rằng câu khẳng định của Rudyard Kipling "Ðông là Ðông, và Tây
là Tây, hai bên sẽ không bao giờ gặp nhau" đã tỏ ra hoàn toàn sai
lầm. Nhờ những tiến bộ không ngừng của kỹ thuật truyền thông và vận
chuyển, sự giao lưu văn hóa giữa Ðông và Tây đã trở thành mỗi ngày
một thêm phong phú và mau lẹ.
Và không riêng những thành quả tốt đẹp, mà ngay cả những khía
cạnh tiêu cực của xã hội (như phá hủy môi trường, bệnh do HIV, ma
túy, bạo động, stress, sự suy đồi của đạo đức, v.v.) cũng lan tràn
khắp nơi. Ðó là hiện tượng toàn cầu hóa (mondialisation), một hiện
tượng phù hợp với lý nhân duyên, tương hữu của đạo Phật.
b) Khi truyền đạt tới Tây phương, đạo Phật lần đầu tiên đối chiếu
với khoa học, kỹ thuật, là tinh hoa của nền văn minh Tây phương,
phát xuất từ nền văn minh cổ Hy Lạp, trong đó có cả khoa học tâm
thần.
Ðạo Phật cũng đối chiếu với các tôn giáo thần khải, đặc biệt Ky
Tô giáo, trên lãnh thổ truyền thống của họ, nơi họ đã trị vì trong
mười mấy thế kỷ.
Tại đây, và không phải chỉ tại đây, đạo Phật cũng đối chiếu với
nền văn minh vật chất cực thịnh, với kinh tế thị trường, chủ nghĩa
tư bản, khuynh hướng tiêu thụ và hưởng thụ đang lan tràn thế giới.
Thật ra, thử thách lớn nhất đối với đạo Phật ngày hôm nay không
phải là đối chiếu với khoa học, bởi vì trong bản chất đạo Phật và
khoa học phù hợp với nhau, bổ túc cho nhau, và sự trao đổi giữa hai
bên chỉ mang lại lợi ích cho nhau.
Cũng không phải là đối chiếu với các tôn giáo thần khải, bởi vì
dù muốn dù không xã hội cũng đã đi về chiều hướng mất thiêng liêng
(désacralisation), không thể nào đi ngược lại, và khuynh hướng chung
là mở rộng cuộc đối thoại giữa các tôn giáo lớn, qua tiếng nói của
các nhà đại diện ôn hòa mỗi bên. Tuy rằng trên thế giới vẫn còn
những cuộc chiến tranh tôn giáo giữa các giáo đồ quá khích, nhưng đó
chỉ là những hiện tượng lỗi thời sẽ bắt buộc phải lùi dần trong
bóng tối.
Thử thách lớn nhất đối với đạo Phật là sự đối chiếu với nền văn
minh vật chất đang lan tràn mọi nơi, song song với sự phát triển
kinh tế, làm cho cuộc sống con người mỗi ngày một đầy đủ hơn về vật
chất nhưng trống trải hơn về tinh thần. Ðiều ngược đời là trong khi
Tây phương, là cái nôi của nền văn minh vật chất, đang đi tìm một
lối thoát cho ngõ cụt mình gặp phải, bằng cách hướng về các truyền
thống tâm linh của Ðông phương, thì chính Ðông phương, là cái nôi
của các truyền thống tâm linh đó, lại lao mình theo mô hình tranh
đua vật chất của Tây phương.
Thật ra vấn đề không đơn giản, bởi vì con người hiện đại vừa muốn
nắm giữ những thành tựu khoa học và tiện nghi vật chất, vừa ước
vọng một cuộc sống tâm linh trọn vẹn và thanh cao. Có thể nào dung
hòa được hai khía cạnh đó, trong đời sống cá nhân cũng như xã hội?
Ðó là một câu hỏi lớn đặt ra cho tương lai nhân loại nói chung và
cho đạo Phật nói riêng.
Trở về hai câu hỏi đầu tiên, "đạo Phật Tây phương có những điểm
gì khác biệt so với đạo Phật Ðông phương?" và "đạo Phật Tây phương
đã đóng góp được những gì cho Phật giáo thế giới, và có thể nào mang
lại một nguồn sinh khí mới?", chúng ta có thể đưa ra vài nhận xét :
1) Nhờ sống quen trong truyền thống khoa học,
cho nên người Tây phương thường nghiên cứu mọi đề tài, ngay cả về
tôn giáo, với tinh thần khoa học, phê phán, và luôn luôn sẵn sàng
đặt lại vấn đề.
Phật học đã trở thành một ngành chuyên môn được giảng dậy trong
các trường Ðại học lớn trên thế giới, và đã có nhiều công trình
nghiên cứu Phật học nghiêm chỉnh và có giá trị phát xuất từ đây,
cũng như từ các Phật học viện, các Hội Phật học Tây phương.
Nhờ những phương pháp truyền thông dồi dào, qua sách báo và các
phương tiện viễn thông, Tây phương đã đóng góp một phần rất lớn, nếu
không muốn nói là hàng đầu, trong việc truyền bá đạo Phật. Ngay cả
trong giới Phật tử Việt Nam, nhiều người cũng phải công nhận rằng họ
đã học hỏi được về đạo Phật ở các sách báo Tây phương (như những
tác phẩm của T.W. Rhys Davids, P. Carus, E. Conze, A. Watts, C.
Humphreys, P. Demiéville, E. Lamotte, A. Bareau, Nyanatiloka, H.
Dumoulin, A. Govinda, W. Rahula, H.W. Schumann, T. Cleary, R. Gombrich,
H. Bechert, J. Blofeld, v.v.) một cách đầy đủ và rõ ràng hơn là ở
các sách báo Việt Nam.
Như vậy, sự đóng góp của ngành Phật học Tây phương cho Phật giáo
thế giới, từ gần một thế kỷ nay, là một sự đóng góp rất lớn, không
thể nào phủ nhận được.
Một điểm đáng lưu ý là, trong khi tại các nước theo truyền thống
Phật giáo, người Phật tử thường mang nặng trong đầu óc những định
kiến về đạo Phật như chén trà đầy, thì ngược lại người Tây phương
thường tới với đạo Phật như một tờ giấy trắng, sẵn sàng tìm hiểu và
đón nhận một giáo lý hoàn toàn mới lạ so với những tôn giáo thần
khải họ đã gặp trước đây. Ðó là một lợi điểm không nhỏ của họ khi đi
tới với đạo Phật.
2) Vì chiều hướng chung mất thiêng liêng
(désacralisation) của xã hội, cho nên đa số người Tây phương tới với
đạo Phật không phải như một tôn giáo, một tín ngưỡng, mà như một con
đường trí tuệ, một con đường giải thoát (gần với nghĩa giải phóng,
libération) tâm linh. Ngay cả những người tu theo Phật giáo Tây Tạng
(Kim Cương thừa) cũng phải công nhận rằng các hình thức nghi lễ, các
thần chú (mantra), ấn quyết (mudra), đồ hình (mandala), v.v. chỉ là
những phương tiện thiện xảo (upaya-kausala) có tác dụng vào tâm
thần, hơn là những hình thức tín ngưỡng. Nói chung, người Phật tử
Tây phương đặt nặng vào trí tuệ (prajna) hơn là vào đức tin. Họ cũng
tin, nhưng đó là sự tin tưởng (saddha) vào Chánh đạo, vào những vị
thầy đã đi trước, những người chỉ đường cho họ, chứ không phải là sự
sùng tín (bhakti), vào những vị thần linh, đầy những phép mầu cứu
vớt họ.
Gần đây, những trao đổi giữa các nhà khoa học tâm thần và các nhà
lãnh đạo Phật giáo đã mở ra một chân trời mới đầy hứa hẹn. Ðó có
thể là nền móng của một con đường "tâm linh thế tục" cho nhân loại
trong những thế kỷ tới, mà trong đó đạo Phật sẽ đóng góp một phần
quan trọng, theo lời của đức Ðạt Lai Lạt Ma.
3) Chính vì khuynh hướng "thế tục hóa tâm linh",
cho nên đạo Phật tại Tây phương chủ yếu là đạo Phật của những người
cư sĩ, những người Phật tử tại gia, chứ không phải là của những nhà
tu sĩ, là một đạo Phật nhập thế chứ không phải một đạo Phật xuất
thế. Dĩ nhiên đã có một số người Tây phương xuất gia, thọ giới, gia
nhập Tăng đoàn, sống như các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni Ðông phương, nhưng
số này không nhiều so với các Phật tử tại gia. Phần lớn các Phật tử
Tây phương chọn lựa tiếp tục sống trong gia đình và xã hội.
4) Trong khi áp dụng đạo Phật vào xã hội Tây
phương với những đặc điểm của nó, người Phật tử Tây phương bắt buộc
phải sáng tạo, khế cơ, tìm ra những giải pháp thích hợp cho các vấn
đề của thời đại, theo tinh thần của đạo Phật. Ðối với họ, đó là một
điều tự nhiên và tất nhiên, bởi vì không thể nào tránh khỏi đổi thay
và chọn lựa, trong khi áp dụng một giáo lý cổ xưa, thuộc vào một
nền văn minh xa lạ. Người Phật tử Ðông phương không dễ gì làm được
như vậy, bởi vì những truyền thống và thói quen ông cha để lại đã
trở thành những gánh nặng khó lòng lay chuyển.
Vậy thì nguồn sinh khí mới mà đạo Phật Tây phương có thể mang lại
cho Phật giáo thế giới là một cái nhìn mới về đạo Phật, và những
kinh nghiệm mới, trong khi áp dụng đạo Phật vào một cuộc sống mới.
Ngược lại, những bài học và những kinh nghiệm tu chứng của các tu
sĩ Ðông phương, qua những truyền thống ngàn năm, là những kho tàng
vô cùng quí báu đối với các nhà Phật học, khoa học và Phật tử Tây
phương. Những kho tàng đó, nếu biết khai thác đúng mức, sẽ giúp họ
rất nhiều trên con đường nghiên cứu và tu tập.
Phật giáo Việt Nam có thể nào dựa lên kinh nghiệm của đạo Phật
Tây phương, để tự mình canh tân, hiện đại hóa? đó là câu hỏi thứ ba
có thể đặt ra.
Chúng tôi sẽ không đề cập tới vấn đề cơ chế và tổ chức, đã được
bàn luận nhiều trong các bài khác. Chúng tôi chỉ xin gợi lên 5 mục
tiêu cho đạo Phật Việt Nam, phát xuất từ những bài học kinh nghiệm
của đạo Phật Tây phương :
1) Triệt để gạt bỏ mọi mê tín dị đoan ra khỏi đạo Phật.
Ðó là một trong những việc đầu tiên phải làm ở Việt Nam, vì hai
lý do : thứ nhất là để trả lại cho đạo Phật sự thuần túy nguyên thủy
của nó, thứ hai là vì tinh thần khoa học. Giáo Hội phải cương quyết
dẹp bỏ tại các chùa chiền những việc bói toán, lấy số Tử vi, xin
quẻ, lên đồng, đốt vàng mã hay chữa bệnh bằng bùa phép, là những tập
quán lạc hậu, không những không liên quan gì, mà còn đi ngược lại
với tinh thần của đạo Phật.
Về mặt lý thuyết, cũng phải bỏ dần những điều huyền hoặc, phản
khoa học trong đạo Phật, dù là đã được ghi trong Kinh điển. Chẳng
hạn như những khái niệm "cõi Trời", "linh hồn", "ma quỷ", "địa
ngục", v.v. hay những hiện tượng siêu nhiên (ngoài những hiện tượng
tâm linh chưa giải thích được). Những điều huyền hoặc này không mang
lại lợi ích gì, mà chỉ gây hoang mang cho những người có học, và
gây thêm hiểu lầm về đạo Phật.
Ðạo Phật phải tích cực đóng góp vào công cuộc mở mang dân trí, để hòa nhập dân tộc với nền văn minh thế giới.
Bởi vì, như lời nhà bác học Mỹ E.O. Wilson, "Ngày nay, sự cách
biệt lớn nhất giữa những con người không tới từ chủng tộc hay tôn
giáo, cũng không phải từ sự biết đọc hay không biết đọc, mà là hố
sâu chia rẽ những nền văn hóa khoa học và không khoa
học"("Aujourd'hui, la plus grande division entre les hommes ne vient
pas des races ou des religions, ni même du fait de savoir lire ou pas,
c'est l'ab�me qui sépare les cultures scientifiques et les
non-scientifiques") .
2) Nghiên cứu và phổ biến giáo lý thuần túy của đạo Phật một cách nghiêm chỉnh.
Ðó là một công trình cơ bản hết sức quan trọng đã bắt đầu từ vài
chục năm nay ở Việt Nam, với công việc dịch thuật, in ấn và phát
hành các kinh sách Nguyên thủy, như Tam Tạng Kinh điển (Tipitaka) từ
tiếng Pali sang tiếng Việt. Trong công việc nghiên cứu, chúng ta
phải áp dụng phương pháp khoa học, như đi tìm tài liệu tận gốc khi
muốn có những chỉ dẫn chính xác về một vấn đề (thay vì đi vòng vo
qua những bản sao chép, dịch thuật, đa số bằng chữ Hán), và luôn
luôn tìm cách dẫn chứng và kiểm chứng.
Những trao đổi rộng rãi với các cơ quan Phật học thế giới sẽ mang
lại cho ngành Phật học Việt Nam một nguồn sinh khí mới, thoát khỏi
triệu chứng "tháp ngà" hay "ếch ngồi đáy giếng" gây nên bởi tình
trạng bị cô lập, đóng cửa với bên ngoài trong một thời gian khá lâu.
Tất cả những nỗ lực đó đều nhằm tới thống nhất giáo lý căn bản,
thuần túy của đạo Phật, để phổ biến cho quần chúng một giáo lý sáng
sủa, giản dị và dễ hiểu. Giáo Hội phải tổ chức hoằng pháp một cách
chặt chẽ hơn, bằng cách tuyển lựa những giảng sư Phật học (tăng sĩ
và cư sĩ) vững chãi về giáo lý, đã được đào tạo tại các Phật học
viện, các Trường Cao đẳng Phật học, để tránh những hiện tượng thuyết
giảng bừa bãi, sai lạc bởi những kẻ hiểu ít, nói nhiều.
3) Phát triển các phương pháp tu Phật như những phương pháp tu luyện tâm linh.
Nếu người Tây phương tới với đạo Phật như một triết lý sống và
một phương pháp tu luyện tâm linh, thì người Việt Nam thường quan
niệm đạo Phật như một tôn giáo và một truyền thống. Vì những lý do
lịch sử văn hóa, đặc biệt là ảnh hưởng Trung Hoa, cho nên Phật giáo
Việt Nam, khởi thủy là theo trường phái Nguyên thủy và Thiền tông,
đã phát triển mạnh mẽ theo chiều hướng Tịnh Ðộ. Có thể nói rằng ngày
nay đa số chùa chiền, đa số Phật tử Việt Nam tu theo phương pháp
Tịnh Ðộ, tụng niệm Kinh điển Ðại thừa, tôn thờ chư Phật chư Bồ Tát
và lấy hạnh nguyện Bồ Tát làm chuẩn đích.
Dĩ nhiên, tất cả những pháp môn đều là những phương tiện tu tập,
phù hợp với mỗi người tùy theo căn cơ của mình. Nhưng nếu trở về
nguồn gốc của đạo Phật, là một con đường tự giác, dựa lên sức mạnh
của chính mình (tự lực), thì cũng như lời dậy của đức Phật trong
Kinh Niệm Xứ (Satipatthana-sutta), tất cả các phương pháp tu luyện
tâm linh đều hướng về một điểm tức là niệm (sati), là "con đường duy
nhất" (ekayano maggo). Nhờ chánh niệm, con người làm chủ được cái
tâm của mình, giữ cho tâm an tịnh và tránh được phiền não, khổ đau.
Ðó là căn bản của Thiền định, là phương pháp ngắn gọn, trực tiếp
nhất để đi tới giải thoát.
Một lý do nữa để phát triển mạnh mẽ phương pháp Thiền định tại
Việt Nam là tinh thần dân tộc. Một điều hiển nhiên là thời đại huy
hoàng nhất của đạo pháp và dân tộc Việt Nam là thời đại Lý, Trần. Ðó
cũng là lúc mà Thiền tông Việt Nam cực thịnh, với sự xuất hiện của
một dòng Thiền duy nhất thuần túy Việt Nam là dòng Trúc Lâm Yên Tử.
Triển khai truyền thống tốt đẹp này vừa là một điều khơi dậy niềm tự
hào dân tộc, vừa phù hợp với thời đại.
Nhưng phát triển Thiền không có nghĩa là quên Kinh. Bởi vì, cũng
như Thiền sư Thanh Từ đã nói : "Thiền là tâm của Phật, Kinh là miệng
của Phật. Ðức Phật tâm miệng không khác thì Thiền và Giáo làm sao
tách rời được. Cho nên chúng tôi chủ trương "Thiền, Giáo đồng
hành"". Ở Việt Nam hiện nay có phong trào "Thiền, Tịnh đồng tu" cũng
không khác gì tinh thần đó.
Ðạo Phật như một cây cổ thụ, nhiều cành lá nhưng chung một thân
cây. Nhìn cành lá thì thấy khác biệt nhau, nhưng nhìn lại thân cây
thì chỉ thấy có một, đó là thân Bồ Ðề (bodhi) hay là "giác ngộ".
4) Áp dụng tinh thần bình đẳng trong đạo Phật
Ðạo Phật có thể gọi là đạo bình đẳng nhất trên thế giới. Hơn hai
chục thế kỷ trước "Bản Tuyên cáo Thế giới về Nhân quyền" (1789), đạo
Phật đã bác bỏ những khác biệt về tâm linh giữa những thế cấp
(castes), và quan niệm rằng con người ai ai cũng có "Phật tính"
(tathagata-garbha), tiềm tàng trong mỗi người, và có khả năng tự
giải thoát. Từ một cư sĩ như Duy Ma Cật (Vimalakirti) tới một chú bé
bán củi không biết đọc, biết viết như Huệ Năng, tất cả đều có khả
năng giác ngộ. Tăng hay tục, già hay trẻ, nam hay nữ, giỏi hay dốt,
tất cả những đệ tử của Phật đều bình đẳng trên mặt tâm linh.
Vậy thì tại sao đạo Phật lại tiếp tục bị coi như một tôn giáo
khinh rẻ phụ nữ, một tôn giáo "macho" như bao nhiêu tôn giáo khác,
tại sao địa vị của các Ni cô và Ni sư lại quá thấp như vậy, so với
các Tăng sĩ? Ðạo Phật Tây phương dĩ nhiên không bao giờ chấp nhận
những kỳ thị lỗi thời đó, và Phật giáo Việt Nam cũng sẽ bắt buộc
phải cải tổ trong chiều sâu những quan hệ nam-nữ trong Tăng đoàn, để
hòa nhập mình với thế giới hiện đại.
Truyền thống kính trọng tăng sĩ ở Việt Nam là một truyền thống
tốt đẹp, nhưng cũng đồng thời là một sự cản trở cho các cư sĩ muốn
đóng góp tích cực vào công cuộc hiện đại hóa đạo Phật, vì kính nể
các tăng sĩ cho nên không dám lên tiếng nói. Quan hệ tăng sĩ - cư sĩ
đã từ lâu được coi như một quan hệ thầy - trò (qua sự xưng hô Thầy -
con, bất kể tuổi tác), trong khi đó trong nguồn gốc, tăng sĩ và cư
sĩ chỉ khác nhau vì một bên xuất gia và một bên tại gia, tức là đã
lựa chọn hai khung cảnh tu tập khác nhau. Nếu đặt sự kính trọng nơi
sự tu chứng, thì cũng có nhiều cư sĩ rất đáng kính trọng, và có
những tăng sĩ không đáng kính trọng một chút nào.
Hơn nữa, hình thức tôn sùng quá đáng những tăng sĩ có chức vị hay
"nổi tiếng, giảng hay" bằng cách biếu xén, cúng dường tài của, có
thể đưa tới sự kiện làm hư hỏng một số tăng sĩ dễ lung lạc, và chia
rẽ Tăng đoàn. Muốn tránh những sai lệch đó, Giáo Hội phải một đằng
áp dụng chặt chẽ, nghiêm ngặt hơn những giới luật liên quan tới tiền
bạc (trong tương lai, sự quản lý các cơ sở Phật giáo bởi những cư
sĩ chuyên nghiệp sẽ không thể nào tránh khỏi được), một đằng đẩy
mạnh hơn tinh thần bình đẳng của đạo Phật.
Ðó là tinh thần bình đẳng giữa tăng sĩ - cư sĩ một bên, và giữa
những tăng sĩ một bên. Trong đạo Phật nguyên thủy, không có sự phân
chia chức vị, cấp bậc. Tất cả đều là Tỳ kheo, Tỳ kheo ni (và trước
đó là Sa di, Sa di ni). Sau này mới xuất hiện các chức vị, cấp bậc,
ban cho bởi Giáo Hội (và đôi khi tự ban bởi đương sự) : Ðại đức,
Thượng tọa, Hòa thượng, v.v. Những phân chia chức vị này không tránh
khỏi gây nên một số chia rẽ, tị hiềm làm xáo trộn không khí thanh tịnh
của Tăng đoàn. Hơn nữa, cấp bậc là một sự cản trở cho những việc
canh tân cần thiết, đối với những tăng sĩ trẻ, năng động, có ý kiến
đổi mới. Chúng ta có thể đặt lại vấn đề của sự lợi ích mang lại
bởi những chức vị này, theo kinh nghiệm của Tây phương : mỗi chùa chỉ
cần một vị tăng sĩ Trụ trì là đủ, không cần gì đến những chức vị
khác.
5) Sống đạo Phật "bây giờ và tại đây"
Cuối cùng, Phật giáo Việt Nam nên noi theo tinh thần thực dụng
của Tây phương, bỏ bớt những "hoa hoè hoa sói" đi, và chỉ giữ những
điều gì cần thiết và thiết thực cho đời sống con người, trong khung
cảnh xã hội ngày hôm nay.
Ðạo Phật mà quần chúng Phật tử đòi hỏi và trông đợi ở các Tăng
Ni, các cư sĩ có hiểu biết và kinh nghiệm về đạo Phật, là một đạo
Phật "bây giờ và tại đây", một đạo Phật gần gũi với cuộc sống, một
đạo Phật để tu "tại gia, tại chợ", hơn là "tại chùa".
Người Tây phương tới đạo Phật như một con đường thoạt trông tưởng
là xa lạ, nhưng thật ra rất gần với họ. Người Việt Nam từ bé đã đi
trên con đường quen thuộc đó, nhưng nhìn kỹ lại mới thấy rằng đạo
Phật chân thực còn khá xa.
Một bên cần đủ can đảm để đi tới đạo Phật, một bên cần đủ can đảm
để đặt lại vấn đề đạo Phật. Cả hai đều có thể hỗ trợ cho nhau một
cách bổ ích, nhất là khi những hàng rào văn hóa giữa những thế hệ
sau sẽ không còn nữa.
Như vậy, nếu sự truyền bá đạo Phật sang Tây phương có thể coi là
một lần Chuyển Pháp luân mới, thì tại sao đạo Phật Việt Nam không
bám víu vào vành xe này mà chuyển động?
Và làm sao tránh khỏi chuyển động?