Một tâm lý đặc trưng của người Việt nói chung và Phật tử Việt
nói riêng là cầu an xin lộc. Với nhiều người và đặc biệt là Phật tử thì
việc đi chùa đầu năm để lễ bái cầu nguyện, gieo duyên tạo phước là
không thể thiếu.
Thể hiện lòng tôn kính với bậc giác ngộ và ước nguyện
bình an, sáng suốt cộng chút lòng mưu cầu thịnh vượng cho bản thân và
gia đình thông qua hình thức xin lộc vào những ngày đầu của năm mới thực
sự là nét đẹp!...
Như một quy luật, khi mùa Xuân đến khí trời trở nên mát dịu, muôn
loại cỏ cây xanh tươi đâm chồi nảy lộc, trăm hoa cùng nghiêng mình khoe
sắc thắm. Con người, hòa theo quy luật tạo hóa cộng với văn hóa truyền
thống tổ tiên, cũng hân hoan đón mừng mùa Xuân mới bằng những sinh
hoạt lễ hội vui chơi. Năm cũ đi qua, năm mới tiếp nối. Trong thâm tâm,
mỗi người đều mong muốn những điều lạc hậu, xấu ác qua mau và hy vọng
đón mừng những niềm an vui, hạnh phúc. Các lễ hội diễn ra muôn màu muôn
vẻ nhưng tựu trung không ngoài mục đích thể hiện lòng biết ơn thông
qua truyền thông tổ tiên – con cháu; củng cố và làm mới tình người qua
các lễ nghĩa bà con làng xóm, bạn bè; và xa hơn là sự mong mỏi cuộc
sống bình an, thịnh vượng thông qua hình thức tạo phước, cầu an. Lễ hội
truyền thống như thế tự nó đã nói lên giá trị thiết thực và cần được
duy trì phát huy trong cuộc sống. Mùa Xuân đang đến, lễ Tết cũng cận
kề. Chúng ta hãy cùng nhau phát huy giá trị truyền thống của nó và đón
một mùa Xuân an vui, lành mạnh.
Kết nối tình thân
Không cần phải nói, người Việt Nam ai cũng công nhận rằng Tết là lễ
truyền thống lớn nhất của dân tộc. Hằng năm, cứ đến tháng Chạp mọi
người không ai bảo ai tự khắc tất bật chuẩn bị đón xuân, đón Tết. Mỗi
gia đình dù nghèo hay giàu vẫn phải có hoa, hương, trà, nước và ít bánh
trái để trước dâng cúng tổ tiên, thần linh thổ địa, sau là để con cháu
hưởng lộc. Những người xa xứ, trong điều kiện cho phép, đều muốn thu
xếp công việc để về đoàn tụ gia đình, thăm quê hương, xứ sở. Có lẽ,
được vây quần bên nhau trong không khí gia đình chuẩn bị ngày Tết chắc
là hạnh phúc lắm. Vào ngày cuối cùng của năm, đại diện gia đình kính
cẩn dâng hương mời tổ tiên về để cùng vui với con cháu trong ba ngày
Tết. Dù tổ tiên ở 'xa' và dù con cháu mỗi người mỗi xứ, ngày Tết đến
đều được mời hướng về mái ấm gia đình, họ tộc để kết nối tình thân
huyết thống. Do đó, mỗi gia đình nên tổ chức bữa cơm tất niên để cho
các thành viên, dù may mắn quay về đoàn tụ hay vẫn phải ở phương xa,
đều có cơ hội kết nối với nhau qua truyền thông liên lạc hay trực cảm
nội tâm. Bữa cơm ấy sẽ có ý nghĩa lớn hơn nhiều so với những hình thức
tiệc tùng linh đình, phô trương tốn kém nhưng chỉ để phục vụ bản năng.
Giữ gìn truyền thống
Trong giờ phút giao thời linh thiêng được báo hiệu bởi âm thanh vang
vọng của tiếng pháo, tiếng chuông, tiếng trống…mọi người dường như
dừng lại các ý niệm lăng xăng để hướng về thời khắc của năm mới với
những ước nguyện bình an, hạnh phúc. Những người có đạo thì đi chùa,
nhà thờ…để lễ bái cầu nguyện, còn những người không theo đạo nào cụ thể
thì thường lễ tổ tiên chúc tụng trong gia đình. Ta cảm nhận rằng, ước
nguyện bình an, hạnh phúc là đặc điểm chung của đa số người Việt, nó
thể hiện tinh thần yêu chuộng hòa bình, thương yêu sự sống. Trong những
ngày Tết, theo tục lệ là dành cho cha, mẹ, thầy hay nói rộng ra là
dành cho những bậc sanh thành, giáo dưỡng, truyền thụ kiến thức hữu ích
cho ta nên người hữu dụng; là dành cho bà con thân thích, cô bác xóm
giềng, bạn bè thân quen…. Tinh thần hiếu thuận, tri ân, uống nước nhớ
nguồn, tình làng nghĩa xóm, giao hảo bạn bè sẽ được củng cố thêm khi
mọi người cùng dành thời gian để thể hiện chúng. Sự thăm viếng, chúc
tụng, quan tâm, chia sẻ là biểu hiện của tinh thần ấy. Tuy nhiên, nó
chỉ có giá trị đích thực khi vắng mặt của sự toan tính, miễn cưỡng.
Ý thức hưởng thụ
Nói đến Tết là nói đến vui chơi, nghỉ ngơi và hưởng thụ. 'Tháng
Giêng là tháng ăn chơi' là câu nói dân gian dù không hoàn toàn đúng
nhưng phản ảnh thời gian hưởng thụ phổ biến của người dân trong năm.
Hưởng thụ từ thành quả lao động chính đáng suốt một năm là điều chính
đáng được xã hội công nhận. Vấn đề là chúng ta có đủ khôn ngoan để
hưởng thụ thành quả chúng ta tạo ra hay không!? Thông thường trước và
những ngày Tết, cảnh tượng tiêu thụ bia rượu diễn ra khắp nơi từ nhà
riêng cho đến quán xá và ngay cả cơ quan, nhà máy. Sự tiêu thụ quá mức
dẫn đến lãng phí tiền bạc, thời gian, đốt cháy trí năng làm cho con
người mất kiểm soát dẫn đến những hậu quả thương tâm như tai nạn xe cộ,
gây gổ đánh nhau, người thân khổ sở….Thứ đến là ý thức hưởng thụ vui
chơi. Các trò đỏ đen thường xuất hiện rộng rãi trong dịp Tết với nhiều
hình thức để kích thích lòng tham, ưa cầu may mắn của một số người. Một
khi lao vào chúng, đa phần buồn khổ, lo lắng vì tiền mất tật mang, sức
khỏe tiêu hao, tinh thần suy sụp. Do vậy, thay vì lao vào thú vui vô
bổ này, nhiều người đã khôn ngoan dành thời gian thư giãn, nghỉ ngơi,
tham quan du lịch và tu tập. Đó là sự lựa chọn đáng được khuyến khích,
nhân rộng vì nó giúp chúng ta lấy lại năng lượng và tinh thần thoải mái
để bước vào công việc sau kỳ nghỉ.
Gieo duyên tạo phước, thực hành chuyển hóa
Một tâm lý đặc trưng của người Việt nói chung và Phật tử Việt nói
riêng là cầu an xin lộc. Với nhiều người và đặc biệt là Phật tử thì
việc đi chùa đầu năm để lễ bái cầu nguyện, gieo duyên tạo phước là
không thể thiếu. Thể hiện lòng tôn kính với bậc giác ngộ và ước nguyện
bình an, sáng suốt cộng chút lòng mưu cầu thịnh vượng cho bản thân và
gia đình thông qua hình thức xin lộc vào những ngày đầu của năm mới
thực sự là nét đẹp! Tuy nhiên, khi ý niệm xin lộc đầu năm đã trở thành
nét văn hóa ứng xử thì hy vọng rằng nét đẹp của nó sẽ được giữ gìn.
Nghĩa là, không nên tự tiện bẻ cành, ngắt hoa được bài trí nơi tôn
nghiêm vì làm như thế là chúng ta đang đi ngược lại nét văn hóa đẹp,
ngược lại ý niệm 'xin lộc'. Khi lòng tham ngự trị và thiếu tinh thần
bảo vệ cái đẹp chung thì kết quả có được không còn là lộc nữa mà là sản
phẩm của thói quen ích kỷ.
Những ngày Tết, Phật tử thường hành hương thập tự để gieo duyên tạo
phước, nghe pháp tu tập. Ý thức được giá trị của giáo lý nhân quả mà
tạo nhân lành đầu năm thì hành động ấy đáng được trân trọng và khích
lệ. Cũng nên hiểu rằng, việc tạo phước không chỉ là tiền tài vật chất
mà nó còn thể hiện qua nhiều mặt khác bao gồm cách ứng xử, thái độ,
hành vi đẹp. Cho nên, sự trang nghiêm của Phật tử trong suốt chuyến
hành hương là đang tạo phước bình an, tự tại. Những hình ảnh chen lấn,
tranh giành với toan tính đạt được nổi danh hay nhiều lộc trở nên phản
cảm. Ý thức để hạn chế những hành vi như thế là chúng ta đang đóng góp
phước báu và chính chúng ta đang thọ hưởng phước báu ấy qua sự bình an,
thoải mái hiện tiền.
Nhắc đến cầu an không thể bỏ qua ý niệm cúng sao giải hạn. Không
biết tự bao giờ tập tục này đã trở thành 'chùm gởi' bám chặt vào đạo
Phật và trở thành 'dịch vụ' trong đạo Phật. Mặc dù danh từ cầu an được
dùng để giảm nhẹ tính chất mê tín của nó nhưng về hình thức cử hành thì
nó cũng còn nguyên vẹn. Tập tục do con người tạo ra nhưng con người
không dám bỏ bởi một mặt do có nhu cầu và mặt khác do siêu lợi của nó.
Nếu ta làm một cuộc khảo sát các chùa có tổ chức lễ cầu an đầu năm
thì kết quả sẽ là một trăm phần trăm các chùa đều có nghi thức đọc tên
cầu an kèm theo tên sao hạn xấu. Thầy cô nào cũng thừa nhận rằng đây là
phương tiện để dẫn dắt Phật tử vào đạo nhưng Phật tử vào đạo mấy chục
năm rồi cũng vẫn cứ được dẫn dắt theo tập tục này. Lẽ ra, Phật tử thuần
thành hiểu rõ nhân quả và biết rõ sao hạn là mê tín do quý thầy cô
giảng dạy thì sớm từ bỏ nó nhưng ít người làm được. Lẽ ra, các chùa
không cung cấp 'dịch vụ' này nữa nhưng hầu như ít ai dám làm vì sợ mất
Phật tử và vì chưa có sự đồng bộ chung. Phải chăng ma lực của mê tín
quá mạnh hay là do siêu lợi chi phối!? Phải chăng Phật tử kiên cường
khó chuyển hay là do ta đang dễ duôi chiều chuộng!?
Rõ ràng, quý thầy cô và Phật tử thuần thành đều biết rõ là Phật
không ở đó nghe tên Phật tử để mà gia bị hay làm việc tiêu tai giải
nạn. Thứ nhất, không có bài kinh nào (cả Nam tông và Bắc tông) Phật dạy
về điều này. Ngược lại, Phật đưa ra quan điểm rõ ràng thông qua ví dụ
hòn đá nặng phải chìm và vết dầu nhẹ phải nổi trên mặt nước dù có ra
sức cầu nguyện. Thứ hai, sao hạn do chính con người đặt ra để lý giải
các hiện tượng thiên nhiên cũng như sự thăng trầm của kiếp người nhằm
trấn an nỗi sợ hơn là sự thật. Bằng chứng là không có cơ sở khoa học
nào để bảo vệ quan điểm này ngoại trừ niềm tin. Thứ ba, chỉ việc đọc
tên mà không làm điều thiện nào thì không thể có kết quả bình an được.
Nếu quý thầy cô đủ năng lực cầu an cho Phật tử thì chính quý thầy cô
không có ai chết vì tại nạn, hay rủi ro nhưng thực tế thì không phải
vậy. Thế thì, việc cầu an – cúng sao theo hình thức xưa nay là chỉ để
đáp ứng nhu cầu quá nặng của Phật tử và tín đồ nói chung hơn là cách
thức cầu an đúng nghĩa – sự tu tập chuyển hóa thân tâm. Do vậy, thiết
nghĩa cũng nên cải cách hình thức tập tục này.
Sau ba ngày Tết, các chùa nên đồng loạt khai kinh trì tụng cầu quốc
thái, dân an. Sự tu tập này được chư vị tổ sư thích nghi và truyền lại
rất có ý nghĩa bởi nó thể hiện lòng tri ân và trách nhiệm của người con
Phật đối với tổ quốc và nhân dân. Chính sự tu tập là chánh nhân đưa
đến hòa bình an lạc chứ không phải những lời cầu suông. Trên tinh thần
ấy, Phật tử thuần thành đâu cần nhất thiết phải chờ tới ngày mùng tám
hay rằm rồi tranh nhau 'bắt' quý thầy cô phải dâng tâu sớ, đọc tên
trong khi mình biết rõ là chỉ có người sống mới nghe và hài lòng. Sao
ta không bắt đầu từ ngay khai kinh, nếu có thời gian, cùng về chùa cùng
tụng kinh tu tập để tạo năng lượng bình an gởi đến mọi người. Sao ta
không tận dụng thời gian tập trung vào tu tập, học hỏi giáo pháp thay
vì suy nghĩ lo lắng tốt xấu lăng xăng trong đầu cho đến khi nghe tên
mình được đọc lên mới gọi là an. Phật tử chúng ta hãy cùng suy ngẫm lại
xem!
Tất nhiên, tu tập thì cần có nội dung và hình thức, cần thân lẫn tâm
vì hai cái chưa từng tách khỏi bao giờ. Cho rằng có sự tách rời là một
ngộ nhận, một sự sai lầm.
Về hình thức, Phật tử có thể tự mình ghi tên gia đình theo phiếu có
sẵn và tự đọc cầu nguyện theo ước muốn riêng chứ đừng nên 'bắt' quý
thầy cô đọc. Phật tử thương tưởng và kính trọng Tăng Ni cúng dường thì
phước báu rất nhiều còn 'ngã giá' cho quý thầy cô thì tội nghiệp cho họ
và cũng cho Phật tử nữa. Hãy để cho quý thầy cô làm phận sự tu tập của
họ hơn là làm những việc mang hình thức tín ngưỡng. Nếu Phật tử cầu
trí tuệ, phước báu thì có thể cúng đèn, cúng hoa với lòng thành kính
dâng lên đức Phật. Phật tử cũng có thể đóng góp nhà chùa bằng cách dùng
một thứ gì đó do nhà chùa phát hành. Những hình thức như vậy đáng
khích lệ vì nó thiết thực và mang tính giáo dục.
Về nội dung, không có sự bình an hay phước báu nào mà không xuất
phát từ những hành động cụ thể thiết thực. Phật tử cùng thực tập với
Tăng Ni, phát tâm chia sẻ tài vật, tình thương và sự ứng xử tình người
là đang tạo phước báu lớn đưa đến bình an. Chẳng hạn, thay vì chiếm một
chỗ trong chánh điện để nghe thầy đọc tên mà trở nên bực dọc với ai đó
thì tốt hơn hết là lễ Phật xong đi thiền quanh chùa một cách bình an.
Sự bình an thực sự có thể có mặt trong ta nếu ta biết cách. Do vậy,
cách cầu an và cầu nguyện hay nhất và đúng cách là tập trung vào tu tập
quán chiếu để định tuệ phát sinh, nhờ đó, ta thấy rõ nguyên nhân bất
an mà dùng pháp để chuyển hóa. Làm cho tâm ta an và người khác an là
cách cầu an hữu hiệu nhất.
Sẽ có sự đồng tình và phản đối khi có điều gì đi ngược lại thói
quen. Chỉ mong rằng mọi người hãy lắng lòng thật sâu mà suy ngẫm và tự
hỏi chính mình. Lời Phật dạy vẫn còn đầy đủ để chúng ta soi sáng.
Phương tiện tổ vẫn hữu dụng cho những ai khéo dùng bởi nó giống con dao
hai lưỡi. Chỉ e rằng từ phương tiện bị lạm dụng mà thôi. Mùa Xuân sắp
đến, ước nguyện rằng mọi người sẽ đón Tết an vui và lành mạnh.