Đây là bài viết giới thiệu quyển sách Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam
(1924 - 1954), tác giả Lê Tâm Đắc. Qua việc điểm qua một số vấn đề mà
quyển sách nêu ra, bài viết đi tới một kết luận, như nội dung quyển sách
thể hiện, là chấn hưng Phật giáo vẫn là một yêu cầu cấp thiết đối với
Phật giáo Việt Nam hiện nay.
Giới thiệu sách Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam (1924 - 1954), tác giả Lê Tâm Đắc.
Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam
(1924 - 1954) là một công trình nghiên cứu giá trị về lịch sử Phật giáo
Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Tác giả quyển sách, nhà nghiên cứu Lê Tâm
Đắc, là một cây bút biên khảo được nhiều người biết đến, thuộc Viện
Nghiên cứu Tôn giáo – Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Một công trình
nghiên cứu khác mới xuất bản gần đây của ông là quyển Mấy vấn đề Phật giáo trong lịch sử Việt Nam, viết chung với tác giả Nguyễn Đức Sự, cũng có một số phát hiện đáng chú ý.
Sách Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam
(1924 - 1954) do nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2011, dày
340 trang, có thể coi là một trong những công trình nghiên cứu chi tiết
về phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam tại một địa phương, trải qua
30 năm. Sách không chỉ tập họp nhiều tư liệu quý, trình bày có hệ
thống, mà còn đưa ra nhiều kiến giải quan trọng. Chương 1 của quyển
sách: Sự ra đời phong trào Chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc
(1924 – 1954) đã đi từ việc tìm hiểu bối cảnh quốc tế với những chuyển
biến quan trọng của Phật giáo đầu thế kỷ XX, những nhân vật tiêu biểu
trong phong trào Chấn hưng Phật giáo thế giới, như các ông Henry Steel
Olcott (1832 - 1907), Pháp sư Anagarika Dharmapala (1864 - 1933), Thái
Hư đại sư (1890 - 1947)… đến việc phân tích những nguyên nhân chính trị,
xã hội và tôn giáo trong nước, với tên tuổi các bậc cao tăng như Tổ
Vĩnh Nghiêm – Hòa thượng Thích Thanh Hanh (1840 - 1936), Tổ Trung Hậu –
Hòa thượng Thích Thanh Ất (1861 - 1940), Hòa thượng Thích Tố Liên (1903-
1977)… đến các vị cư sĩ như cụ Nguyễn Năng Quốc (1870 - 1951), cụ Lệ
thần Trần Trọng Kim (1882 - 1953), cụ Đồ Nam tử Nguyễn Trọng Thuật (1883
- 1940)… Cuộc vận động chấn hưng Phật giáo miền Bắc từ được nghiên cứu
như một quá trình lịch sử, với việc xâu chuỗi các sự kiện lịch sử theo
trình tự thời gian, đến đi sâu nghiên cứu việc chấn hưng theo từng khía
cạnh: giáo lý, phương pháp tu tập sinh hoạt tăng già, tổ chức giáo hội,
công tác giáo dục, hoạt động nghi lễ và nơi thờ tự.
Các
hoạt động cụ thể, từ nguồn tư liệu phong phú, vừa được ghi nhận, được
lý giải, soi rọi vừa bởi chính những nhận định rút ra từ tư liệu lịch sử
và vừa từ lời bình luận của chính tác giả công trình nghiên cứu. Tiến
trình chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam đã được tái hiện cụ thể,
sinh động trong một cái nhìn sắc sảo, tinh tế.
Sau
khi ghi nhận, khảo sát những nội dung cơ bản của phong trào chấn hưng
Phật giáo ở miền Bắc (chương II), quyển sách đã có riêng một chương bàn
về đặc điểm và vai trò của phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc.
Tác giả đã có những đánh giá xác đáng về những thành tựu cũng như những
vấn đề của phong trào chấn hưng Phật giáo tại Việt Nam nói chung, ở miền
Bắc nói riêng.
Vì
những thành tựu là hiển nhiên, cho nên đóng góp của việc nghiên cứu thể
hiện ở chỗ bình luận những vấn đề chưa thực hiện được. Đáng chú ý là
mục “sự thiếu triệt để trong nội dung hoạt động của phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc”.
Tác
giả đã đi sâu phân tích những nguyên nhân của vấn đề, đem lại cho người
đọc những gợi ý cho việc suy tư về lịch sử Phật giáo Việt Nam cho đến
những bài học kinh nghiệm có thể rút ra để vận dụng vào hoạt động hoằng
dương chính pháp hiện nay.
Chấn hưng Phật giáo vẫn là một yêu cầu cấp thiết.
Đây là điều mà người đọc có thể rút ra sau khi đọc quyển Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam (1924 - 1954).
Biết xưa vì nay là một trong những mục tiêu nghiên cứu của tác giả quyển sách, được nói đến ở ngay lời nói đầu:
“Những
thành công và hạn chế của phong trào chấn hưng Phật giáo đầu thế kỷ XX
là những bài học quý báu đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện nay
trong việc giải quyết những thách thức đã và đang đặt ra cho Giáo hội
như sự đổi mới về phương thức tu tập và hành trì của các tu sĩ phù hợp
với sự phát triển và biến đổi của xã hội, sự phối hợp giữa hàng tu sĩ và
hàng cư sĩ trong việc hình thành một đội ngũ tăng già cốt cán đủ mạnh
để dẫn dắt Phật giáo Việt Nam, vấn đề Việt ngữ kinh điển Phật giáo, việc
đề cao tư tưởng “Nhân gian Phật giáo”, vấn đề chương trình đào tạo tăng
tài có sự kết hợp hài hòa giữa nội điển và ngoại điển, giữa Phật học và
thế học, đào tạo nâng cao, đào tạo chuyên sâu, chú trọng đến việc hướng
tăng ni học tập các nghề nghiệp xã hội v.v…”.
Đó
là mục tiêu của tác giả, nhưng đi sâu vào chuyên luận, người đọc sẽ
thấy vấn đề còn hơn như thế. Chấn hưng Phật giáo không chỉ là chuyện
của quá khứ, mà nó vẫn còn là yêu cầu của Phật giáo Việt Nam hiện tại.
Phần nội dung “Nguyên nhân chính trị - xã hội và tôn giáo trong nước” đối với công cuộc chấn hưng Phật giáo và phần “Nguyên nhân nội tại của phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc” của tác phẩm nghiên cứu cho người đọc thấy rõ điều đó.
“Phật giáo hưng thịnh thì đất nước cũng hưng thịnh”. Đó là một định đề bất di bất dịch. Lời của cụ Phan Chu Trinh được quyển sách dẫn lại đến nay vẫn còn nguyên giá trị:
“Nước Đại Nam chúng ta ngày nay sở dĩ yếu hèn là vì thiếu tinh thần tôn
giáo. Tôn giáo luyện cho ta đức hy sinh, coi nhẹ tính mạng, phá sản vì
đạo. Không có tinh thần tôn giáo, chúng ta không biết cương thường, xả
thân vì nghĩa, chỉ bo bo giữ cái lối riêng của mình. Nay bà con thử xét,
đời Trần sao dân tộc ta hùng dũng như vậy. Quân Nguyên thắng cả Á Âu,
nuốt trọn Trung Hoa mà qua đến nước ta thì lại bại tẩu, nào bị cướp giáo
ở Chương Dương độ, nào bị bắt trói ở Bạch Đằng, như vậy chẳng phải nhờ
đạo Phật thời đó rất hưng thịnh ư? Nhờ cái tinh thần tôn giáo của ta ư?” (trang 36).
Nhu
cầu chấn hưng Phật giáo được coi là thống nhất trong giới trí thức, sĩ
phu yêu nước, không phải chỉ vì lợi ích của Phật giáo, mà trên hết là vì
lợi ích của đất nước, của dân tộc:
“Các
bài viết của Huỳnh Thúc Kháng trên báo Viên Âm của Phan Khôi trên báo
Tràng An đầu những năm 1930 cũng có ý kiến tương tự với quan điểm của
Phan Chu Trinh khi cho rằng chấn hưng Phật giáo là một việc làm có lợi
ích cho quốc dân.
Như
vậy, việc chấn hưng Phật giáo đã nhận được sự tán đồng của nhiều chí sĩ
yêu nước đầu thế kỷ XX. Bởi vì, chỉ có Phật giáo mới đại diện cho cái
“tinh thần tôn giáo” mà Phan Chu Trinh đã nêu. Các tôn giáo lớn khác ở
Việt Nam đương thời đều bị cho là không hề làm được việc này vì Nho giáo
thì đang suy tàn, còn Công giáo lại càng không, bởi nó bị coi là tôn
giáo câu kết với quân xâm lược” (trang 37).
Phật
giáo thịnh thì đất nước thịnh, lợi ích của Phật giáo gắn liền với lợi
ích dân tộc. Do vậy, chấn hưng Phật giáo chính là góp phần xây dựng đất
nước. Thế thì thời nào cũng vậy, để xây dựng đất nước hưng thịnh, vững
mạnh, thì không thể không chấn hưng Phật giáo. Chấn hưng Phật giáo là
yêu cầu gắn liền với xây dựng đất nước. Chấn hưng Phật giáo là không có
thời hạn, không có điểm dừng.
Xét
chấn hưng Phật giáo trong mối liên hệ với việc xây dựng đất nước là như
thế, còn hiện nay, những nguyên nhân nội tại trong chính Phật giáo đối
với công cuộc chấn hưng Phật giáo ra sao. Những hiện tượng được ghi nhận
trong sách Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam (1924 - 1954) đến nay đối với chúng ta không phải đã là chuyện dĩ vãng. Ở giới tu sĩ Phật giáo thì: “Nhiều
nhà sư đã trở thành người thầy cúng độ nhật qua ngày, quên đi vị trí
dẫn dắt tâm linh trí tuệ của mình. Chúng ta có thể thấy rõ hiện trạng
này qua sự phản ánh của nhiều người tâm huyết đối với sự nghiệp chấn
hưng Phật giáo ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX.
Trong
bài Hiện trạng Phật giáo ở xứ ta, Thanh Quang đau buồn trước hiện trạng
Phật giáo nước nhà. Ông viết: “Đau đớn thay ở xứ ta những hạng người
xuất gia vào chùa, phần nhiều chỉ học đặng vài bộ kinh, lo nhịp hơi cho
hay tập nhịp tán cho già, nay lãnh đám này, mai lãnh đám khác, cũng
tràng hạt, cũng cà sa, thử lật mặt trái mà xem thì có khác nào người
trần tục ở trong Phật giáo, họ tưởng học thế là đủ rồi, nói bậy nói càn
quên mất giá trị, hoặc có người hỏi đến Phật pháp là gì, ôi tuyệt nhiên
không biết. Thật là một điều tai hại rất lớn trong Phật giáo vậy”” (trang 41).
Sách Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam (1924 - 1954) cũng dẫn lại lời Dương Bá Trạc (báo Đuốc Tuệ, số 101, 1939): “Các
vị đại đức, các vị trưởng lão cũng chẳng có pháp lực gì đối với sư bác,
sư ông. Người có học lực, có giới hạnh với người không giới hạnh cũng
chẳng hơn kém gì nhau miễn ai khéo luồn lỏi, xu phụ thì được địa vị tốt,
bổng lộc nhiều, mà ai vụng luồn cạnh chiều lòng thì phải địa vị xấu,
bổng lộc kém. Chữ thánh hiền chúng vùi sâu xuống đất, nghĩa lục hòa lại
biến ra tro, thậm đến nỗi giành chùa giành chỗ, ghen ghét cùng nhau,
khích bác cùng nhau, oán phẫn cùng nhau. Người lớn không thương yêu
người nhỏ, người dưới không kính nể người trên, người có không giúp đỡ
người không, người khôn không bảo ban người dại, người đắc thời đắc vị
không bênh vực người cô cùng hèn yếu, người lão thành tôn trưởng không
trông nom người nhỏ bé thơ ngây, đối đãi với nhau cũng bỉ thử nhân ngã
quá kẻ Việt người Tần, gặp sự khốn ách hoạn nạn của nhau cũng cái lối
làng xóm cháy nhà bằng chân như vại. Những xú kịch, thảm kịch đáng
thương, đáng bỉ xảy ra thường thường, không sao kể xiết…”.
Cùng với ý kiến của Dương Bá Trạc, quyển sách cũng trích dẫn nhân định của Thiều Chửu: “… Chính
vì vậy, một hệ quả tất yếu là xuất hiện những nhà sư chất lượng kém, vi
phạm giới luật. Họ lảng tránh việc hoằng dương chính pháp, hoằng pháp
lợi sinh, chủ yếu kiếm sống bằng việc thực hiện những nghi lễ tôn giáo
mang nặng tính chất mê tín, buôn Thần bán Phật, khiến dân chúng phê bình
Phật giáo là “Miệng Phật tâm xà”, “Miệng nam mô, bụng một bồ dao găm”.
Thực tế này khiến cho thế gian không mộ Phật, không kính Tăng”.
Trình
trạng được ghi nhận ở trên, đến nay, sau gần một thế kỷ, rất tiếc vẫn
chưa phải là chuyện khó tìm, nhất là ở các chùa quê. Một bộ phận không
nhỏ Phật giáo Việt Nam vẫn mang nặng màu sắc mê tín, cúng bái, lễ lạy,
người Tăng sĩ vẫn là thầy tụng đám.
Điều
đó khiến chúng ta thấy rằng, hôm nay nếu đặt lại vấn đề chấn hưng Phật
giáo, thì không phải là chuyện lạc điệu. Phật giáo vẫn còn phải tiếp tục
chấn hưng, chấn hưng Phật giáo vẫn là một yêu cầu cấp thiết.
Những
kết quả mà sự nghiệp chấn hưng Phật giáo từ đầu thế kỷ XX là rõ ràng,
nhưng đó chưa phải là thành quả hoàn toàn. Kết quả đạt được chỉ mới là ở
một mức nhất định, còn nhiều giới hạn, tính vững chắc chưa cao, thậm
chí có thể xuống cấp, đảo ngược.
Xác
định chấn hưng Phật giáo vẫn là một yêu cầu cấp thiết qua việc điểm một
quyển sách về chấn hưng Phật giáo, mong rằng quý Tăng Ni Phật tử không
bao giờ lơi lỏng với sự nghiệp chấn hưng Phật giáo, phải thấy là Phật
giáo Việt Nam luôn luôn đứng trước đòi hỏi phải chấn hưng, chấn hưng
liên tục và mạnh mẽ, không phút ngưng nghỉ. Chúng ta chấn hưng Phật giáo
vì trách nhiệm đối với Phật giáo và cũng vì trách nhiệm đối với dân
tộc. Một đạo Phật mạnh mới có thể góp phần vì một nước Việt Nam mạnh.
MT