I. Lịch
sử kinh Hoa Nghiêm
1-
Khái niệm về lịch sử kinh Hoa Nghiêm
Về
mặt học thuật, chúng ta học lịch sử phần lớn căn
cứ vào dữ liệu mà người trước đã ghi lại để đánh giá. Nhưng đứng
ở lãnh vực tôn giáo để quan sát, chúng ta lại
có nhận thức về lịch sử khác hơn là những điều được các
nhà học thuật ghi nhận.
Từ hiểu
biết theo học thuật thông thường, tiến lên một bước nữa để
hiểu lịch sử Đại thừa Phật giáo theo tinh thần của
người tu có niềm tin, có trí tuệ. Và bước sang lịch sử kinh Hoa
Nghiêm, chúng ta phải phát Bồ đề tâm. Có thể nói, chúng ta học Đại
thừa bằng Bồ đề tâm của chính mình, không học bằng vọng
thức, nghĩa là tiếp nhận tinh ba của giáo nghĩa bằng tâm
hồn thanh tịnh, không phải chỉ dừng lại ở phân tích, học hiểu theo văn
tự, ngữ ngôn.
Kinh Hoa
Nghiêm có ba bộ: Bộ thứ nhất gọi là Đại Hoa Nghiêm do Pháp
thân Tỳ Lô Giá Na chuyển. Bộ thứ hai là Trung Hoa
Nghiêm do Báo thân Lô Xá Na chuyển và bộ thứ ba do ứng thân
Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết.
Như
vậy, kinh Hoa Nghiêm có cái nhìn về Đức Phật khác hơn các
hệ tư tưởng khác và đương nhiên cũng khác với lịch sử thông
thường mà chúng ta học.
Cả
ba bộ kinh này đều ở cung rồng Ta Kiệt La. Nhưng hai bộ đại
kinh và trung kinh quá đồ sộ, không thể mang về, nên ngài Long Thọ Bồ
tát chỉ thỉnh được bộ Tiểu Hoa Nghiêm gồm có 100.000 bài
kệ. Và mang về nhân gian, Ngài lọc lại, chỉ còn một nửa là 45.000 bài
kệ.
Bộ Tiểu Hoa
Nghiêm mà ngài Long Thọ đem về, rồi truyền sang Trung Hoa, được
dịch ra tiếng Trung Hoa, còn lại ngày nay hai bộ. Bộ Hoa Nghiêm 60
quyển do ngài Giác Hiền dịch đời Tấn và bộ 80 quyển dịch ở đời Đường, dưới sự bảo trợ của Tắc Thiên hoàng đế, quen gọi là Võ hậu.
Bộ
kinh Hoa Nghiêm mà chúng ta tu học chủ yếu nương
theo bộ kinh đời Đường. Kinh Hoa Nghiêm do Báo thân viên
mãn Lô Xá Na và kinh do Pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật chuyển
thì chúng ta không thấy được Báo thân và Pháp thân
Phật, nên không thể nghe, không thể đọc và không hiểu được.
Điều
này gợi cho chúng ta ý thức rằng khi học Phật pháp, nhất là
học Đại thừa, đòi hỏi quá trình thiết thân thể nghiệm pháp trong
cuộc sống.
Hiểu
kinh Hoa Nghiêm là từ văn tự đi vào tư duy, vào thiền
định, phát sinh được trí tuệ và dùng trí tuệ quán sát mọi
sự, mọi vật. Nói cách khác, kinh Hoa Nghiêm dẫn chúng ta vào pháp
giới hay nhìn thế giới chân thật. Và biết được việc ở dạng chân
thật, thì ta không còn lỗi lầm trên sinh hoạt hiện tượng của cuộc
đời. Kinh Hoa Nghiêm muốn dạy ta cốt lõi ấy.
Theo phán
giáo của ngài Trí Giả, Đức Phật nói kinh Hoa Nghiêm 21
ngày. Chỉ có 21 ngày ngắn ngủi, làm sao Phật nói được vô lượng bài kệ gọi
là vi trần? Trong khi các bộ kinh khác, Đức Phật nói
trong thời gian dài hơn mà lại không nhiều.
Phật
nói Hoa Nghiêm 21 ngày trong thiền định. 21 ngày của cuộc
sống vật chất theo đời thường tất nhiên quá ngắn ngủi. Nhưng 21
ngày tư duy thiền định thiết nghĩ thật lớn lao không thể
tính được. Ai không hành đạo, không công phu tu tập không
thể nào biết được điều này.
Một niệm
tâm trong thiền định, Bồ tát cứu độ được vô số
chúng sanh. Ngài Thiên Thai chứng được 3.000 pháp biến dịch trong
một niệm tâm. Và 3.000 pháp này tác động lẫn nhau, tạo
thành trùng trùng duyên khởi theo Hoa Nghiêm.
21
ngày Phật tư duy dưới cội bồ đề lại càng lớn không thể
tưởng, vì hoạt động dưới dạng Pháp thân, trở thành đại
tự nhiên. Tư duy bằng vọng niệm chẳng là bao.
Nhưng tư duy dưới cội bồ đề nghĩa là ở dạng bản thể của
sự vật, ở chơn như tâm thì Phật, chúng sanh và tâm, tuy ba
nhưng thông làm một.
Từ bồ
đề đạo tràng, Phật thuyết kinh Hoa Nghiêm 21 ngày, nhưng
thuyết được tất cả. Thuyết tất cả, nghĩa là thuyết những gì xảy ra từ khi
Ngài phát tâm Bồ đề và giáo hóa chúng sanh cho
đến ngày thành Phật. Và hiện giờ, Ngài đang tiếp tục giáo
hóa. Tất cả mọi người trên khắp năm châu bốn biển vẫn đang tiếp
tục học pháp với Tỳ Lô Giá Na Phật, là ý nghĩa quan trọng
nhất của lịch sử kinh Hoa Nghiêm theo tinh thần Đại
thừa.
Thật
vậy, Đức Phật vẫn còn giáo hóa và hộ niệm cho chúng
ta, nên chúng ta mới tu học được. Nếu không có
lực gia trì đó, Phật pháp không thể tồn tại đến
ngày nay.
Thái
độ của người học Phật giáo Đại thừa nói chung và lịch
sử kinh Hoa Nghiêm nói riêng, là phải thấy cái bao la vô
cùng tận, còn cái chúng ta hiểu được giống như con muỗi uống nước
biển. Tôi thấm thía ý này trong kinh Pháp Hoa dạy rằng khi nào tu
tròn hạnh Bồ tát, thành Phật mới hiểu được Phật. Vì vậy,
cho rằng học hết giáo lý là xong, quả là sai lầm lớn.
Trên tinh
thần bao la vô tận của Phật pháp, chúng ta phải nhận
ra thọ mạng Phật pháp tồn tại thường hằng miên viễn ở
dạng Pháp thân vĩnh hằng bất tử. Đức Phật chỉ phương
tiện hiện Niết bàn, nhưng kỳ thực Ngài vẫn hiện hữu ở khắp mọi
nơi, ở bên cạnh chúng ta trong từng niệm tâm vậy.
2- Lịch sử truyền thừa và phát
triển kinh Hoa Nghiêm
Kinh Hoa
Nghiêm phát xuất từ Ấn Độ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật
Bản. Thật vậy, theo sự nghiên cứu, kinh Hoa Nghiêm chỉ còn tìm
thấy rải rác trong vài tác phẩm ở Ấn Độ. Đó là bộ Đại Trí
Độ luận của ngài Long Thọ có dẫn dụng kinh Hoa Nghiêm và
những tác phẩm chú sớ như Thập Trụ Tỳ Bà Sa luận, hoặc Thập
địa kinh luận giải thích về hai phẩm: Thập trụ, Thập địa của
kinh. Như vậy, chỉ có một phần nhỏ của kinh được truyền thừa.
Tuy
nhiên về sau, kinh Hoa Nghiêm được truyền sang Trung Quốc có
3 bộ, nhưng đều phát xuất từ nước Vu Điền của Trung Á (ngày nay thuộc
khu tự trị của Trung Quốc).
Kinh Hoa
Nghiêm mang về Trường An, đến đời Tấn thì ngài Phật Đà Bạt Đà La (Giác
Hiền) là người đầu tiên dịch sang tiếng Trung Quốc bộ lục thập
Hoa Nghiêm, gồm có 60 quyển, thường gọi là bộ cựu dịch.
Cách
200 năm sau, đến đời Đường, ngài Thập Sa Nan Đà dịch, chia thành 80
quyển, gọi là bát thập Hoa Nghiêm hay bộ tân dịch.
Và
cũng ở đời Đường, ngài Bát Nhã dịch riêng phẩm Nhập pháp giới,
gọi là tứ thập Hoa Nghiêm, gồm 40 quyển.
Kinh Hoa
Nghiêm phát triển mạnh ở Trung Quốc, tiến đến thành lập tông Hoa
Nghiêm. Sơ tổ của tông này là ngài Đỗ Thuận (557-640),
nhưng đến ngài Trí Nghiêm (602-668) là Nhị tổ mới chính thức thành
lập tông Hoa Nghiêm.
Và
Tổ thứ ba của tông này rất nổi tiếng, đó là ngài Pháp Tạng (Hiền
Thủ, 643-712). Phải nói là đến thời của ngài Pháp Tạng mới luận
giải kinh Hoa Nghiêm và giảng kinh này cho Tắc Thiên
hoàng hậu.
Ngài Đỗ
Thuận và Trí Nghiêm cùng giảng giải kinh theo bộ lục
thập Hoa Nghiêm. Nhưng ngài Đỗ Thuận chịu ảnh hưởng của
hệ Bát Nhã, vì lúc ấy pháp tánh học thịnh hành. Còn
ngài Trí Nghiêm chịu ảnh hưởng của Duy thức, tức pháp
tướng học do ngài Huyền Trang xương minh và theo đó mà phát
triển Hoa Nghiêm.
Ngài Pháp
Tạng lý giải theo bộ bát thập Hoa Nghiêm. Ngài giảng giải đầy
đủ hơn, vì đã tổng hợp được hai hệ tư tưởng Bát Nhã và Duy
Thức của Sơ tổ và Nhị tổ, kết hợp thành bộ Hoa
Nghiêm sớ. Đây là cốt lõi của tông Hoa Nghiêm, làm
cho Phật pháp thịnh hành ở thời này.
Hai
vị Đỗ Thuận và Trí Nghiêm đều là người Hán. Riêng
ngài Pháp Tạng sanh ở Trung Quốc mà gốc người Trung
Á. Vì vậy, Ngài thừa hưởng được tư tưởng triết học Êẽn
Độ và văn minh Trung Quốc; đồng thời tổng hợp được tinh ba
của hai luồng tư tưởng vĩ đại này, tạo thành nét đặc thù nổi bật của
tông Hoa Nghiêm, khiến cho giới trí thức đời Đường bấy giờ
phải thán phục.
Có
thể nói tông Hoa Nghiêm phát triển mạnh ở Trung Quốc vì tư
tưởng kinh Hoa Nghiêm thích hợp với người Trung Quốc.
Trước khi kinh này được truyền sang, tư tưởng Lão Trang thịnh
hành ở Trung Quốc, có cái nhìn về vũ trụ gần giống
với tinh thần Hoa Nghiêm, nên người trí thức đương thời
dễ tiếp thu được tư tưởng Hoa Nghiêm.
Tuy
nhiên, cần khẳng định rằng, kinh Hoa Nghiêm phát triển được là nhờ
các vị cao đức thông suốt được áo nghĩa Hoa Nghiêm và
biết kết hợp với tinh thần Lão Trang để triển khai thành tư
tưởng chỉ đạo của tông Hoa Nghiêm.
Tư
tưởng Lão Trang quan niệm mọi sinh hoạt của vũ
trụ vận hành theo lý "Tự nhiên", tự nhiên là
"Vô", và tính chất của "Vô" là bản thể của vũ
trụ. Và theo Trang tử: "Đạo không chỗ nào không có, ở chỗ con kiến,
con dế, ở chỗ cỏ Đế, cỏ Bại, ở chỗ gạch ngói, ở chỗ phân tiểu...".
Người trí
thức chịu ảnh hưởng Lão Trang có thể thấy vấn đề nói
trên của họ sáng hơn khi tiếp thu tư tưởng Hoa Nghiêm do
các vị cao tăng lý giải; theo đó, mọi sự, mọi vật đều bình
đẳng, trong tốt có xấu, trong xấu có tốt. Tất cả sinh hoạt tương quan
tương duyên chằng chịt trong pháp giới.
Người chứng
đạo thấy rõ sự tác động của mối tương quan sâu xa ấy,
mà thuật ngữ gọi là lý sự vô ngại pháp giới, thì sẽ hóa
giải được tất cả. Còn chướng ngại, vướng mắc, không dung thông thì trở
thành đối nghịch, đối đầu, từ đó phiền não trùng trùng duyên
khởi.
Thực chất của sự hành trì theo
yếu nghĩa Hoa Nghiêm là thiện ác đều do chính ta tạo nên,
kinh gọi là muôn pháp duy tâm tạp. Liễu ngộ Hoa Nghiêm thì
tất cả viên dung vô ngại vì mọi loài trong pháp giới cho
đến con ong, cái kiến, cỏ cây, hoa lá đều là pháp âm của Tỳ
Lô Giá Na Phật.
Kinh Hoa Nghiêm chuyên chở một tư
tưởng quá lớn lao, người bình thường không tiếp thu nổi,
không hiểu thì làm sao ứng dụng được. Vì thế, dù là tư tưởng siêu
tuyệt như vậy, vẫn bị mai một.
Phải
có những bậc danh đức ngộ đạo hiện hữu, như ngài Đỗ Thuận, Trí
Nghiêm, Pháp Tạng nắm trọn được tinh yếu của Hoa Nghiêm và
lý giải cũng như thể hiện trong cuộc sống, mới có thể phát
triển tư tưởng này sáng chói lên. Nhưng về sau, không có người thừa
kế đủ khả năng tiếp nối đạo nghiệp, nên ngọn đèn Hoa
Nghiêm cũng phải tàn lụn.
Tiếp
theo, kinh Hoa Nghiêm được một nhà sư Trung Hoa mang
sang Nhật Bản, nhưng không thuyết giảng. Đến đời Thánh Vũ thiên
hoàng, ngài Thẩm Tường là nhà sư Triều Tiên sang Nhật
Bản, kinh này mới được Ngài giảng giải và tông Hoa Nghiêm ra
đời ở Nhật.
Đặc
biệt là nhờ công đức thuyết pháp của ngài Thẩm Tường khiến
cho Thánh Vũ thiên hoàng phát tâm xây dựng ở Nara tượng
Tỳ Lô Giá Na bằng đồng lớn nhất thế giới. Có điều kỳ lạ cần
nhắc lại, theo truyền thuyết, người ta chỉ đúc được pho tượng này tới cổ,
vì phần đầu của tượng quá lớn, đường kính của mặt tượng Tỳ Lô Giá Na rộng
đến 5 thước, nên rót đồng vô chảy xuống đến cổ là bị rã.
Sau
đó, nhà sư Phật Triết từ Giao Châu, Việt Nam, đóng bè tre
sang Nhật Bản. Ngài Hạnh Cơ Bồ tát ra đón ngài Phật Triết ở
bờ biển về để chỉ dạy phương cách đúc tượng.
Pho tượng được hoàn thành một
cách hoàn hảo, nên Thánh Vũ thiên hoàng thỉnh ngài Phật
Triết về chủ lễ điểm nhãn tượng. Và Ngài soạn ra nghi thức cúng
dường khai quang, còn truyền tụng đến ngày nay.
Như
đã nói, tư tưởng Hoa Nghiêm quá trác tuyệt, khó tiếp
thu. Vì vậy, công đức hoằng truyền kinh Hoa Nghiêm mà
ngài Thẩm Tường đã tu tạo, không có người tiếp nối đạo
mạch. Những gì tiêu biểu còn lưu lại dấu vết như tông Hoa Nghiêm,
chùa Đông Đại và tượng Tỳ Lô Giá Na, thì ngày nay chỉ còn hiện hữu như
một kỷ niệm mà thôi.
Tóm
lại, kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Độ, nhưng vì quá cao siêu nên
hiếm người tiếp thu được và tất nhiên việc phát triển càng khó hơn
nữa. Phải đợi đến khi truyền sang Trung Quốc hay Nhật Bản và
gặp được những vị vua chúa có phước báo và quyền thế phát
tâm mới đủ điều kiện hỗ trợ cho công việc phiên dịch, truyền
bá kinh, cũng như xây dựng chùa chiền, đúc tượng được thành
công.
Riêng ở Việt Nam, Phật giáo đương
nhiên cũng có phần ảnh hưởng tinh thần Hoa Nghiêm. Một số
vị cao tăng cũng thọ trì kinh này, ứng dụng được
phần nào tinh ba của kinh trong cuộc sống. Tuy nhiên, nói chung, bộ
kinh này không phát triển mạnh được ở Việt Nam.
II. Nội dung kinh
Hoa Nghiêm
Theo phán
giáo của Thiên Thai Trí Giả đại sư, sau khi Đức Phật thành
đạo, Ngài thuyết kinh Hoa Nghiêm trong 21 ngày và sau đó Ngài
đến Lộc Uyển độ 5 anh em Kiều Trần Như, bắt đầu lập giáo
khai tông. Trên đường hoằng truyền chánh pháp, Đức Phật giảng
kinh Phương Đẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa, Niết Bàn.
Cách phán
giáo của Trí Giả đại sư được Phật giáo Đại thừa tán
đồng. Phật giáo Nguyên thủy cũng ghi nhận giống ở điểm sau
khi thành đạo, Đức Phật ngồi tư duy ở Bồ đề đạo
tràng trong 21 ngày. Theo kiến giải của Phật giáo Đại
thừa, trong 21 ngày tư duy ấy, Ngài thuyết kinh Hoa Nghiêm trong thiền
định.
Thiết
lập pháp hội Hoa Nghiêm với hội chúng, hội trường có điểm
khác lạ. Theo kinh Hoa Nghiêm lục thập quyển thì có 8 hội,
nhưng kinh Hoa Nghiêm bát thập quyển ghi nhận có 9
hội. Đến phần kết của hội Hoa Nghiêm vẫn có mặt Xá Lợi Phật, Mục
Kiền Liên, A Nan, nhưng các Ngài không nghe được. Ý này được
kinh diễn tả rằng chúng Thanh văn như người mù, người điếc
dự hội.
Vì
khó hiểu như vậy, một số người cho rằng kinh Hoa Nghiêm có tính
cách giả tưởng. Ngày nay, chúng ta có thể hiểu ý này
qua thực tế như vấn đề trình bày trong cuộc hội thảo dành
cho các nhà bác học thì người có trình độ đại học trở
xuống có tham dự cũng không thể nào hiểu được.
Pháp
Phật nói cho Bồ tát, hàng nhị thừa không thể biết, huống chi
là phàm phu. Cần hiểu rằng không riêng gì Xá Lợi Phất, Mục Kiền
Liên... mà kể cả chúng ta cũng hiện diện trong hội Hoa
Nghiêm, nhưng không thấy, không nghe vì bị ngũ ấm ngăn che, vướng
mắc sắc ấm. Đức Phật nói kinh Hoa Nghiêm trong thiền
định, dùng tâm chuyển vật. Chúng ta chưa thấy tâm, làm sao thấy
được sự chuyển vật.
Tinh
thần Đại thừa đặt nền tảng trên sinh hoạt của tâm là chính.
Nếu tâm thực sự tốt sẽ kết thành quả tốt, dù cho hành động bề
ngoài không tốt. Sức mạnh phi thường của tâm chi phối,
khiến việc thành tựu, không cần phải cử thân động niệm, kinh gọi
là vô tác diệu lực. Đó là ý chính mà kinh Hoa Nghiêm muốn
đề cập đến.
Khi Đức
Phật đắc quả Vô thượng giác ở Bồ đề đạo tràng, không
còn lệ thuộc ngũ ấm thân, Ngài phát hiện ra con người thật
bên trong là chơn tâm hay Tỳ Lô Giá Na Pháp thân và
thấy Bồ tát vi trần. Phật pháp thân ấy nói với các vị Bồ
tát trong thiền định, không phải là người bằng xương bằng thịt nói và
cũng không nói cho người nhân gian. Vì vậy, người nhân gian làm
thế nào biết được và tạng kinh Hoa Nghiêm phải đợi đến Long
Thọ Bồ tát kiết tập.
Đến pháp
hội thứ hai, đi vào thế giới Quang Minh điện của Phật,
nghĩa là ánh quang Phật thuyết pháp. Ánh quang này chiếu đến Trời
Phạm Thiên, nên vị Đại Phạm Thiên vương xuống Bồ đề đạo tràng thỉnh
Phật thuyết pháp.
Ở pháp
hội một, thuyết trong thiền định dành cho người trụ định mới nghe
được. Đến pháp hội thứ hai, Phật thuyết bằng ánh quang, đòi
hỏi người có trí tuệ, nghe bằng Bồ đề tâm, huệ giải thoát mới thâm
nhập được. Lúc ấy, người tu ngộ đạo nhìn sông núi, cá chim
đều là Phật thuyết pháp.
Sau đó, Phật thuyết ở Trời Đao
Lợi, đến Dạ Ma thiên, Đâu Suất thiên, Tha Hóa Tự Tại. Đến đây,
Ngài giảng thập hồi hướng, thập địa nhằm chỉ cho biết đối
tượng của pháp cao sâu này phải là Bồ tát, là người có đầy đủ phương
tiện giáo hóa chúng sanh.
Bồ
tát pháp trong kinh Hoa Nghiêm rất cao sâu. Hàng thấp nhất
là Bồ tát sơ địa cũng phải có khả năng làm vua một cõi,
tức tiểu vương mới có thể hành đạo tự tại. Bồ tát nhị
địa phải là Chuyển luân Thánh vương cai quản bốn phương thiên hạ,
ai nghe đến danh cũng phải kính nể. Bồ tát đệ tam địa phải
làm vua Trời Đao Lợi, cai quản 33 tầng trời. Cứ như vậy lần lên cõi
Trời Dục cao nhất là Tha Hóa Tự Tại.
Đức
Phật giảng cho các vị trời, đồng nghĩa với nhắc nhở những người
có phước báo, quyền uy ở trần gian nên phát tâm làm
Phật sự, dễ tu tạo công đức lớn lao. Nếu không, hưởng hết phước
rồi đọa, lúc đó không còn điều kiện tạo công đức, như vua
Tần Bà Sa La bị A Xà Thế nhốt vô ngục rồi mới phát tâm.
Từ cõi
Trời Tha Hóa Tự Tại, Đức Phật trở lại Phổ Quang đường
thuyết thập nhẫn, thập định. Cuối cùng, Ngài trở lại thực
tế cuộc sống ở rừng Thệ Đa nói phẩm Nhập pháp giới.
III. Quan
niệm về đạo Phật theo kinh Hoa Nghiêm
Kinh Pháp
Hoa và Hoa Nghiêm là hai bộ kinh nòng cốt của Phật
giáo Đại thừa. Kinh Pháp Hoa đặt nặng về pháp, trong khi
kinh Hoa Nghiêm triển khai về Phật là vị có đầy đủ tư cách để tuyên
thuyết diệu pháp.
Quan
niệm về Đức Phật theo kinh Hoa Nghiêm tất nhiên cũng
khởi đầu từ Phật nguyên thủy là Đức Thích Ca. Ngài cũng
mang thân tứ đại giống như chúng ta và trải qua quá
trình tu hành, đắc quả Vô thượng Bồ đề.
Quan
điểm cho rằng Phật là người giống như ta và tiến tu thành
bậc Chánh giác, được xét lại trong thời Phật giáo Phát triển. Vì
câu hỏi được đặt ra là tại sao người đều giống nhau, nhưng chỉ duy nhất có
Phật thành tựu quả vị toàn giác, còn những vị tu hành khác
thì có người thành Tổ, có người làm trụ trì hoặc người chẳng đạt
được quả vị nào.
Từ
đó, Phật giáo Phát triển bắt đầu mở tầm nhìn về chiều sâu, nhìn bên
trong cái thực của con người, tức chân linh, để định giá trị khác
nhau của mỗi người. Theo tinh thần ấy, kinh Bổn Sanh, Bổn
Sự được hình thành, nói về vô số tiền kiếp của Phật
đã xả thân hành Bồ tát đạo. Thân xác giống như chiếc áo mặc cho
chân linh. Đó là quan niệm mới của Phật giáo Phát triển bắt
đầu quán sát người ở hai mặt: mặt bề ngoài là sanh
thân hay thân mạng hữu hình và thân mạng vô hình
bên trong là Báo thân.
Theo Đại
thừa, Báo thân là phước đức, trí tuệ của Phật.
Ngài giáo hóa thành tựu dễ dàng vì lời nói, hành
động, việc làm đều phát xuất từ trí tuệ siêu tuyệt
và đạo đức hoàn toàn thánh thiện.
Như vậy, Đại thừa nhìn Phật
qua tri thức và đức hạnh của Ngài và triển khai Báo
thân. Suy nghĩ về Báo thân, nương Báo thân Phật tu
hành nhằm mục tiêu phát triển Báo thân của chính mình.
Nói cách khác, trên bước đường tu, chúng ta xem Phật, Tổ, Bồ tát làm
gì, ta cũng làm vậy để nuôi lớn Báo thân của riêng mình.
Đức
Phật dạy rằng ai cũng có thể thành Phật nếu tu tập cho
đầy đủ tâm đại bi, viên mãn hạnh Bồ tát. Vô lượng kiếp qua
khứ, Phật, Hiền Thánh đều trải thân hành Bồ tát đạo,
làm lợi ích chúng hữu tình, mới đạt đến Vô thượng Đẳng
giác. Ngày nay, muốn thành tựu quả vị như Phật, chúng ta cũng
phải phát tâm Bồ đề, dấn thân tu Bồ tát đạo. Đó là tư tưởng nòng
cốt của Phật giáo Đại thừa.
Tiến
đến đỉnh cao của hệ tư tưởng này là kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa
Nghiêm giới thiệu Đức Phật và cách tu thế nào để thành Phật,
tức Bồ tát pháp.
Tinh
thần Hoa Nghiêm cho chúng ta ý niệm về Đức Phật hoàn
toàn mới, khác hẳn các bộ kinh Đại thừa khác. Đức Phật không
bị giới hạn trong một loại hình cố định nào.
Thật
vậy, Hoa Nghiêm mở ra cho chúng ta tầm nhìn phóng
khoáng, theo đó không có gì không phải là Phật, đó mới là Đức Phật chân
thật. Phật này là Phật huệ, nên trí tuệ Phật hiện vô
thân đồng nữ thì đồng nữ đó là Phật, hiện trong thân trưởng
lão thì trưởng lão là Phật.
Tư
tưởng đặc biệt của Hoa Nghiêm về sự hiện hữu vĩnh
hằng của một Đức Phật toàn diện đòi hỏi chúng ta phải đạt
đến trình độ nhất định nào đó mới có thể hiểu, sống và hành
đạo như vậy.
Đứng
trên lập trường bao quát, thấy Phật là tất cả, là pháp giới,
được kinh Hoa Nghiêm tiêu biểu qua hình ảnh Phật
với 10 loại thân: Ngũ ấm thân, Quốc độ thân, Chúng sanh thân, Thanh
văn thân, Duyên giác thân, Bồ tát thân, Như Lai thân, Trí
thân, Pháp thân, Hư không thân. Hay có thể nói 10 loại hình
này là diễn tiến sự sống từ thấp nhất tiến đến quả vị Phật
và từ Phật giới chi phối ngược xuống toàn bộ các
loài hữu tình, vô tình.
Theo Hoa
Nghiêm, trước tiên lấy ngũ ấm làm căn bản, vì tất cả
muôn vật đều phát xuất từ ngũ ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Đức
Phật cũng hiện hữu từ ngũ ấm, nhưng Ngài tiến đến quả
vị toàn giác vì Ngài không bị ngũ ấm chi phối. Trong
khi chúng sanh cũng mang thân ngũ ấm, nhưng do bị ràng buộc triệt
để, nên luôn gánh chịu khổ đau sanh tử.
Đức
Phật khẳng định rằng ngũ ấm cấu tạo nên con người và con
người bị lệ thuộc nó. Chính vì còn kẹt vào thân vật chất,
tức sắc uẩn, nên chúng ta còn bị 4 thứ: đói, khát, nóng,
lạnh hành hạ. Hương vị giải thoát đầu tiên của người đắc
được sơ quả là xa lìa được đói khát, nóng lạnh. Vì
vậy, chúng ta thấy các Thiền sư trong lúc nhập định không
cần ăn uống, ngủ nghỉ mà không cảm giác đói khát, mệt mỏi,
vì họ đang sống với chân linh, vượt ngoài sự chi phối của thân xác.
Thân
của Đức Phật khởi đầu cũng phát xuất từ thân ngũ ấm như chúng
ta và Ngài cũng sử dụng nó. Nhưng chính yếu là Phật
điều khiển được thân hoàn toàn theo mục tiêu mà Ngài đặt
ra.
Đối
với Phật, Ngài mang thân ngũ ấm trang nghiêm bằng 32 tướng tốt,
80 vẻ đẹp, thành Vô thượng Đẳng giác để giáo hóa chúng
sanh. Khi việc đáng làm đã làm, người đáng độ đã độ, Ngài rời bỏ thân một cách
nhẹ nhàng. Đức Phật khác hơn chúng sanh là như vậy.
Chúng
sanh thì bị thân ngũ uẩn dày xéo, hành hạ, sống khổ với
thân, chết cũng không yên với nó. Đức Phật thì tự tại hoàn
toàn vì biến đổi được ngũ uẩn thành Pháp thân mà
kinh diễn tả là: "Nhược năng chuyển vật tức đồng Như
Lai".
Đức Phật sử dụng, biến ngũ uẩn thành ngũ
phần Pháp thân, nên ngũ uẩn được kinh Hoa Nghiêm coi là một
trong 10 thân Phật Tỳ Lô Giá Na.
Từ ngũ
uẩn làm gốc, nảy sinh ra sự sống, hiện thân thứ hai là quốc
độ thân, chỉ cho sơn hà đại địa. Nói chung, sự sống đơn bào tiến lên đa
bào, phát triển lần đến các sinh vật hữu tình và vô tình.
Theo tinh
thần Hoa Nghiêm, nhìn sông núi hùng vĩ, ngắm dòng suối chảy, nụ hoa mơn
mởn, cá bơi chim liệng hay thấy tượng Phật trang nghiêm, cảnh
chùa thanh tịnh, khiến ta phát tâm, đó là vô tình thuyết pháp.
Nói
cách khác, thân Tỳ Lô Giá Na đã tác động vào cảnh quan, tạo
thành lực hấp dẫn đưa ta đến với Phật đạo. Trong kinh
thường diễn tả quá trình hành Bồ tát đạo, Phật hiện thân
trong tất cả các loài, không riêng gì loài người, Ngài đã từng làm nai,
chim, sư tử... Vì vậy, trong vũ trụ, cỏ cây hoa lá cho đến động
vật đều có Tỳ Lô Giá Na ảnh hưởng đến và trong các hữu
tình chúng sanh thuộc tứ sanh lục đạo cũng chịu
lực chi phối của Tỳ Lô Giá Na để tồn tại.
Như
vậy, loại thân hình thứ hai của thân Phật Tỳ Lô Giá na là
trải thân ra làm đất đai, làm cây cỏ, làm núi sông để che chở, nuôi sống,
dung nhiếp muôn loài.
Không
loài nào mà tâm đại bi Phật không tác động đến, thể
hiện sự hiện hữu loại thân thứ ba của Phật gọi là chúng
sanh thân.
Dưới
mắt người hành đạo theo tinh thần Hoa Nghiêm, con ong, cái
kiến cho đến cọng cỏ, bụi gai, không cái gì mà không dễ thương,
không phải là Phật. Ngược lại, mọi sự vật trên cuộc đời đều chướng
tai gai mắt với phàm phu, ràng buộc làm họ khổ đau.
Trên tinh
thần tất cả đều đẹp, người thật dạ tu hành ở bên phiến đá, cạnh
dòng suối trong núi rừng, nhưng có cảm nghĩ nơi đó hiện diện ba
đời mười phương Phật, nên họ dễ dàng tiến tu giải thoát.
Nhưng khởi vọng tâm đòi hỏi phải ở chỗ này mới tu được, ở chỗ kia
buồn khổ, thì không thể nào sống trong thiền môn.
Bước
theo lộ trình Hoa Nghiêm, chúng ta cũng tập sống theo tinh
thần rộng lớn như vậy, tập làm những việc bao dung, giúp đỡ người
phát triển. Đó là con đường đưa chúng ta đến quả vị toàn
giác trong tương lai.
Từ
trong chúng sanh thân, nhận ra cuộc đời không bền
chắc, nên khởi tâm đi tìm hằng hữu. Từ bỏ đời sống thế
nhân, đi theo lộ trình Phật đạo, mang thân tu sĩ trắc
nghiệm 37 phẩm trợ đạo giữa lòng cuộc đời, được coi như là Pháp
thân của Đức Phật hay Thanh văn thân là một phần trong
tổng thân của Phật Thích Ca.
Kế
đến là hàng Duyên giác thuộc tầng lớp trí thức, tinh thần rất
bén nhạy. Họ quán nhân duyên để thấy được mối quan hệ giữa mọi
người với nhau trong xã hội. Và theo lời Phật dạy, người
nào thấy nhân duyên thì thấy được pháp chân thật, đó là
điều tiên quyết để tiến đến quả vị toàn giác.
Vì
vậy, hàng Duyên giác hay Bích chi Phật ẩn tu, thâm
nhập thiền định, nhận chân được mối quan hệ của chúng sanh trong tứ
sanh lục đạo và hành xử theo đúng với lý nhân duyên ấy, thì
họ vẫn được coi là một hiện thân của Phật trên cuộc đời.
Thanh
văn tu hành tập thể và Duyên giác hay Độc giác ẩn tu
quán sát các pháp. Tổng hợp hai cách tu này, chúng ta có mẫu
người thứ ba vừa có đạo đức, vừa có tri thức, đi vào đời độ
sanh gọi là Bồ tát.
Bồ
tát hay bậc giác hữu tình, tức người đem ánh sáng giác ngộ đến
các loài hữu tình. Họ phát tâm Bồ đề, khởi niệm thương chúng
sanh và đến giúp đỡ, cũng là do Phật lực chi phối đến.
Trên tinh
thần hành đạo cứu đời vì tiếp nhận được lực Tỳ Lô Giá
Na, nên Bồ tát thân cũng là thân của Phật.
Khi
người tu tròn đủ hạnh Bồ tát và tâm đại bi thì đạt quả
vị Phật, tức Như Lai thân. Với thân Như Lai, không còn phải dấn
thân vào đời để cứu độ như Bồ tát, không phải ẩn tu như
hàng Duyên giác, cũng không cần sống trong tập thể để trao đổi sách
tấn nhau tu hành như Thanh văn.
Vì Như
Lai thân không từ đâu tới và cũng không đi về đâu. Chính thân đó tác
động đến các loài chúng sanh và giáo hóa được tất cả
mà không cần cử thân động niệm.
Từ ngũ
ấm thân, trải qua quá trình tu hành tiến lên quốc
độ thân, chúng sanh thân, Thanh văn, Duyên giác, Bồ
tát thân và Như Lai thân là thân thứ 7.
Bấy
giờ, ở quả vị Như Lai, không cần làm như trước nữa, nhưng các
loài hữu tình chúng sanh tự phát tâm tu và tự giải
thoát. Đó là đặc biệt của sự giáo hóa bằng Như Lai
thân, không cần cứu độ mà mọi loài được nương nhờ, tự tôn
kính, quy ngưỡng Phật.
Trên
bước đường tu, sử dụng thân của từng giai đoạn tu khác nhau, thành
đạt đến vị trí Như Lai. Lúc ấy, như như bất động mà
vẫn hóa độ được chúng sanh, nên hoạt động chính
của Như Lai không phải bằng thân xác vật chất, bằng ngôn
ngữ bình thường, nhưng bằng trí tuệ, nên gọi là trí thân (thân
thứ 8).
Dùng trí
thân, tức dùng trí tuệ Như Lai tác động chúng sanh, khiến
họ phát tâm Bồ đề. Chúng sanh chịu sự chi phối của trí
thân gồm cả hữu tình và vô tình chúng sanh, tức nhứt thiết
pháp. Tất cả pháp không có pháp nào mà trí tuệ Như Lai không
chiếu tới.
Trí Như
Lai chiếu tới đâu thì biến các pháp ấy thành Pháp thân của Đức
Phật. Đó là điểm then chốt của kinh Hoa Nghiêm quan niệm về Đức
Phật. Trí tuệ Phật chiếu vào một tu sĩ hay cư sĩ, tác
động họ phát tâm, chiếu vào tất cả sự vật thì làm vật đó biến
chuyển thành pháp của Phật.
Ví
dụ trí tuệ Như Lai tác động vào chúng ta, khiến chúng
ta phát nguyện đi theo Phật đạo và cũng tác động qua
các pháp, biến gạch ngói, đất đá thành chùa chiền. Tu sĩ, tín đồ,
chùa, cảnh vật, pháp khí hiện hữu để Phật pháp tồn tại,
phát triển, thì tất cả đều là Pháp thân của Đức Phật (thân
thứ 9).
Quang
cảnh thiền môn tuy không phát ra âm thanh, nhưng tác động cho
người hình dung ra Phật, liên tưởng đến cách sống của
Ngài và họ phát tâm tu theo, tức Pháp thân của Phật
đã thuyết pháp.
Như
vậy, Pháp thân Phật theo tinh thần Hoa Nghiêm được triển
khai rộng hơn ý niệm Pháp thân của Phật giáo Nguyên
thủy chỉ hạn hẹp trong giáo pháp Phật còn lưu lại.
Kinh Hoa
Nghiêm quan niệm tất cả pháp, kể cả sơn hà đại địa đều nhận
lực chi phối của huệ Như Lai, đều là Pháp thân Phật.
Từ căn bản ấy, tất cả mọi sự vật trên cuộc đời đều biến
thành Phật pháp nếu có huệ Như Lai rọi vào. Một miếng gỗ,
cục đá hay đồng chì đều biến thành Phật khi người tạo ra nó,
hoặc chiêm ngưỡng, kính lễ nhận được huệ Như Lai, có ý
niệm về Phật.
Trái
lại, không có huệ Như Lai đầu tư vào, thì đất đá vẫn là đất đá. Triển
khai mạnh về ý nghĩa này, kinh Hoa Nghiêm chủ trương
bằng mọi cách phát huy được Như Lai huệ để chiếu sáng vào lòng cuộc
đời, vào vũ trụ, biến tất cả thành Phật pháp.
Tiến
theo lộ trình Hoa Nghiêm, đạt đến đỉnh cao nhất là Hư không thân
hay Tỳ Lô Giá Na thân. Tỳ Lô Giá Na dịch là phổ quang minh
chiếu, chỉ cho trí tuệ rọi vô pháp, biến pháp thành Pháp
thân. Lúc ấy, trí và lý bất nhị, kết hợp thành một. Thiết
nghĩ, đây là loại hình của thế giới tu chứng, khó diễn tả bằng ngôn
ngữ bình thường.
Mười thân Phật nói trên là một tổng thân
của Tỳ Lô Giá Na Phật, kết hợp giữa chân lý và trí
tuệ, chi phối ngược xuống 9 loại hình, từ hàng Thánh giả đến
người thường trên cuộc đời và cả loài hữu tình, vô tình.
Trong
vô hình, lực Tỳ Lô Giá Na chi phối xuống hữu tình chúng
sanh và vô tình khí thế giới, khiến cho tất cả phát tâm Bồ
đề, tiến tu đạo nghiệp, kết hợp thành pháp giới. Đó
là thế giới huyền môn của đạo Phật dành cho những
người tiến bước theo Bồ tát đạo, đạt đến bằng sự tu chứng thật
sự, nằm ngoài lạm bàn của phàm phu điên đảo vọng tưởng.