Hầu
hết chúng ta đều mắc phải cái bệnh "đòi hỏi tuyệt đối". Giàu thì mình
muốn giàu hơn tất cả, sang cũng muốn mình sang hơn tất cả, cho đến đẹp,
giỏi, khen, đều là hơn tất cả. Có cái gì thua kém hơn người là buồn,
tủi, bực dọc không hài lòng. Do đó cộc sống không thấy có hạnh phúc, vì
thấy mình còn thua người này kẻ nọ. Hoặc than trách người thân của mình
sao không được như ý mình muốn. Những nỗi khổ đau buồn bực ấy đều do
không hiểu "cuộc đời tương đối mà!"
Muôn Vật Tương Ðối
Muôn
vật hiện có trên cõi đời đều là tương đối. Người thì có nam nữ, loài
vật thì có giống đực giống cái, điện thì có điện âm điện dương..., từ lý
tương đối ấy mà sinh ra vạn vật. Chính lý tương đối là gốc sinh hóa vô
cùng vô tận. Nếu chúng tách rời sự vật ra từng phần đơn độc thì sự sinh
hóa phải dừng lại. Cuộc sống chúng ta là tương quan trong cái đối
nghịch, sinh trưởng trong cái chống chọi. Như thế, làm sao chúng ta tìm
ra sự bình an hoàn toàn, sự hạnh phúc miên viễn trong cuộc đời tương
đối. Sáng suốt nhất là chúng ta nhìn sự tương đối là lý đương nhiên,
không oán hờn, không trách cứ trước mọi sự việc trái ngược nhau. Ðồng
thời chúng ta khéo lợi dụng lý tương đối tạo thành những công năng hữu
ích cho con người. Thí dụ nước với lửa là đối nghịch nhau, song nếu
chúng ta khéo dùng lửa đun sôi nước để nấu chín các thức ăn... Ðiện âm
điện dương đối nghịch nhau, chạm nhau làm tóe sáng, con người khéo lợi
dụng sự phát sáng đó tạo ra vô số công năng của điện... Chừng đó chúng
ta mới thấy sự hữu dụng của nước với lửa, của điện âm điện dương phục vụ
cho con người một cách hữu hiệu. Chúng ta cứ sợ nước dập tắt lửa, tách
rời xa chúng thì chúng ta có được lợi gì trong cuộc sống. Như vậy, chúng
ta không sợ sự đối nghịch của vạn vật mà chỉ khéo léo sử dụng sự đối
nghịch một cách hữu hiệu trong cuộc sống của chúng ta.
Bản Thân Con Người Tương Ðối
Con người có hai phần vật chất và tinh thần, cả hai phần này đều là tương đối.
Phần vật chất:
- Ðức Phật phân tích một cách đơn giản, trong cơ thể con người do bốn
thứ cất tạo thành. Phần cứng rắn là đất, phần thấm ướt là nước, phần
nóng ấm là lửa, phần chuyển động là gió. Bốn phần này chung họp làm thân
con người và tồn tại một thời gian. Nếu thiếu một trong bốn phần, thân
này phải bại hoại. Bản thân bốn phần này lại đối nghịch nhau, nước chống
với lửa, gió chọi với đất. Cho nên trong khi nước thạnh lửa suy thì
sanh ra bệnh lạnh, hoặc phù thủng..., ngược lại khi lửa thạnh nước suy
thì sinh ra bệnh nóng, nhức đầu..., khi gió thạnh đất suy thì sanh ra
bệnh đau nhức khắp thân thể; khi đất thạnh gió suy thì sanh ra bệnh tê
liệt, khó thở ...
Do
đó mang thân này suốt đời chúng ta phải điều hòa tứ đại. Tứ đại được
điều hòa thì thân mới mạnh khỏe an ổn, ngược lại thì đau ốm liên miên.
Bốn thứ đối nghịch này, chúng ta có nên hủy hoại nó không, nếu chúng ta
còn muốn sống? Hay mỗi ngày chúng ta cố gắng điều hòa chúng để cho thân
này được an ổn. Bốn thứ thù nghịch nhau, song nhờ bốn thứ mà thân này
mới tồn tại. Như thế chúng ta sợ ghét sự chống đối hay khéo điều hòa sự
chống đối ? Muốn thân này còn sống được an ổn, không cách nào hơn chúng
ta phải biết điều hòa chúng một cách thích hợp. Ðó là khôn ngoan, là
biết sống.
Phần tinh thần-
Nội tâm chúng ta đối nghịch nhau rất là phức tạp. Ở đây tạm chia tâm
niệm thiện và tâm niệm ác đối nghịch nhau. Song khi niệm ác dấy lên thì
niệm thiện ẩn đi, ngược lại khi niệm thiện dấy lên thì niệm ác trốn mất,
hai thứ đối nghịch nhau mà không đồng thời. Vì thế nếu biết tu, chúng
ta luôn luôn nuôi dưỡng niệm thiện thì niệm ác lặn mất. Nếu người không
biết tu, cả ngày dung chứa niệm ác thì niệm thiện không bao giờ xuất
hiện. Nuôi dưỡng niệm thiện là bậc hiền thánh, dung chứa niệm ác là kẻ
bạo tàn. Chúng ta trọn quyền tạo lập cho mình một chỗ đứng vào hàng
thánh thiện, cũng chính chúng ta tự bước lùi vào hang quỉ, chỗ thú cầm.
Không ai bắt buộc, không ai lôi kéo chúng ta đến nơi này hay nơi nọ.
Do
đó, đức Phật dạy chúng ta tu quán từ bi để trừ tâm sân hận, quán tứ
niệm xứ để diệt mê lầm, hoặc niệm danh Phật để át tạp niệm...Chúng ta có
đủ khả năng làm hiền thánh, chúng ta cũng có đủ chủng tử ngạ quỉ súc
sanh. Bởi vậy nói tu tâm là chúng ta khéo điều phục những tâm niệm xấu
ác, nuôi dưỡng những tâm hiền thiện. Khi sắp lâm chung, những tâm niệm
nào mạnh sẽ lôi chúng ta đến cảnh tương xứng. Vì tâm niệm là gốc của
luân hồi sanh tử.
Thế
thì bản thân chúng ta từ vật chất đến tinh thần đều là tương đối. Như
vậy chúng ta không ưa tương đối, chạy trốn tương đối có được không? Quả
là điều dại khờ. Chúng ta phải khôn ngoan sáng suốt tìm mọi cách điều
hòa cho thân an ổn, chinh phục cho tâm hiền thiện. Ðây là việc làm của
người biết sống và sống vươn lên.
Tương Quan Mình và Người
Trong cuộc sống tương quan giữa mình và mọi người chung quanh, hầu hết chúng ta mắc phải cái bệnh "cầu toàn trách bị".
Chúng ta đòi hỏi những người sống gần với mình phải vẹn toàn một trăm
phần trăm như ý mình muốn, phải đầy đủ hoàn toàn những điều như tâm mình
tưởng. Nếu những người thân chỉ được tám chục phần trăm trong sự đòi
hỏi của mình, sống gần gũi lâu ngày còn hai chục phần trăm bất như ý sẽ
làm chúng ta sinh bực bội chán chường. Sao chúng ta không đặt lại câu
hỏi, chính mình có được vẹn toàn mọi điều như ý mình muốn chăng? Hẳn là
không. Mình đã không được vẹn toàn, sao lại đòi hỏi người phải vẹn toàn,
có phải là bất công, phi lý không? Ngày xưa ở các nước Ðông Phương
quyền lập gia đình cho con cái là ở cha mẹ, cha mẹ định sao con cái phải
nghe vậy. Do đó có những gia đình vợ chồng không hòa thuận vì không cảm
thông nhau, nên đi đến đổ vỡ ly dị. Ngày nay ở các nước Tây phương con
cái được quyền chọn lựa đôi bạn cho mình. Họ có quyền sống gần với người
họ chọn lựa một thời gian, sau mới quyết định thành đôi bạn hay không,
cha mẹ không được quyền can thiệp đến đời tư của họ.
Thế mà khi đã thành đôi bạn, lại vẫn ly dị nhau. Ðây là lỗi tại ai, cha
mẹ ép buộc chăng? Quả thực đây là cái bệnh đòi hỏi vẹn toàn một trăm
phần trăm theo ý mình muốn. Bởi không có ai thỏa mãn sự đòi hỏi cuả mình
nên từ thân biến thành sơ. Thế là cứ ly dị mãi, đến già trở thành người
cô độc. Chúng ta còn thêm lắm bệnh. Nào là muốn ai cũng khen mình, có
người chê là buồn khổ. Muốn mọi người gần mình phải tuyệt đối tuân theo
sự sắp đặt của mình, nếu 80 điều họ theo, còn 20 điều họ chống là giận
dữ bực tức.
Ðòi
hỏi người thân của mình phải tốt tuyệt đối, nếu họ có vài ba điều xấu
liền chán nản muốn lánh xa. Ðến tình cảm thương yêu cũng vậy, bắt buộc
người thân của mình phải thương yêu mình tuyệt đối, nếu bị chia xẻ cho
ai, dù người ấy là thân thuộc hợp lý, vẫn cảm thấy buồn. Chính vì lòng
tham đòi hỏi quá đáng, khiến người chung quanh chúng ta muốn từ từ xa
lánh chúng ta. Ðây là vì không biết cuộc đời là tương đối, nên không
thông cảm với mọi người chung quanh, kết quả tự chuốc lấy khổ đau cô
độc. Trái lại, chúng ta tập nhìn mọi người với cặp mắt tương đối, không
đòi hỏi quá đáng, dễ thông cảm tha thứ nhau. Ðược vậy đời sống sẽ vui
tươi, người thân đông đảo, dễ dàng đạt được hạnh phúc.
Bệnh Thần Tượng
Chúng ta dễ mắc cái bệnh "thần tượng hóa"
người mình quí kính. Người mình quí kính là thánh thiện một trăm phần
trăm, nếu thân cận một thời gian, thấy vị ấy còn một vài điều phàm tục,
"thần tượng" liền sụp đổ. Từ đây ta sanh tâm khinh nhờn cho đến bất mãn,
không còn tin tưởng vào ai nữa. Ðây là một trọng bệnh, khiến ta tự cao
ngạo mạn, mất lòng tin. Khi trước do tin vào bậc thầy thánh thiện nên ta
tinh tấn tu hành, nay mất lòng tin rồi sinh bê tha hư đốn. Tại sao ta
không sét nét kỹ càng xem, bậc thầy kia hơn mình bao nhiêu phần? Nếu ta
có hai mươi phần trăm tốt, vị thầy có đến bốn chục phần trăm hay sáu
chục phần trăm thì đáng cho mình học tập theo. Vì vị ấy đã tốt hơn mình
gấp đôi gấp ba, còn chê trách nỗi gì. Bởi vì vị thầy chưa phải là thánh,
là Phật làm sao hoàn toàn thánh thiện được. Chúng ta cảm thông vị ấy
đang tu, là còn những cái dở để sửa, để bỏ.
Bồ
tát vẫn còn vi tế vô minh, nếu sạch hết vô minh là thành Phật. Biết rõ
cái tốt của những vị mình quí kính là tương đối, thì mình kính tin vừa
phải, chừng mực, không "thần tượng hóa". Nếu vị thầy ấy còn vài nét phàm
tục, mình cũng cảm thông tha thứ, vì đây là người đang tu đang tiến,
đừng đòi hỏi qúa đáng. Hoặc giả ngày xưa mình tin vào vị thầy gần như
tuyệt đối, vị ấy dạy gì mình cũng cố gắng làm cho được, nhờ đó trên
đường tu mình tiến bộ vượt bực. Nay mình mất lòng tin ở vị thầy ấy, sinh
tâm lui sụt, đây là điều sai lầm.
Tại
sao mình không nghĩ, ta tu là ta tiến, thầy tu thì thầy tiến. Ðâu phải
thầy tu hay ta mới tiến, thầy tu dở ta bị lùi. Phải tin vào mình, phải
trông cậy vào mình. Phật dạy" "các ông phải tự thắp đuốc lên mà đi", lại "các ông phải làm cồn đảo cho mình".
Thế nên, không vì "thần tượng sụp đổ" mà ta lùi bước. Chính chúng ta
phải nhìn các bậc thầy quí kính vẫn là tương đối thì chúng ta khỏi chới
với khi trông thấy vài nét phàm tục của các ngài.
Lục Tổ Dậy 36 Pháp Ðối
Trong
kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ dạy đệ tử sau này có ai hỏi đạo nên dùng 36
pháp đối để trả lời thì không sai tông chỉ nhà thiền. Nếu người hỏi "có"
lấy "không" đáp, người hỏi "sáng" lấy "tối" đáp... Tại sao ? Vì nhơn
"không" mà lập "có". Bởi có cái "không" mới thành lập cái "có" không có
cái "không" thì cái "có" cũng chẳng thành. Ngược lại, nhơn cái "có" mà
lập cái "không", nếu chẳng có cái "có" thì cái "không" cũng vô nghĩa.
Ðến cái sáng cái tối cũng thế. Do tối mới lập sáng, nhơn sáng mới nói
tối. Hai cái nương nhau mà thành, không có thật pháp. Tất cả sự vật ở
thế gian đều là đối đãi nhau mà lập, không có một pháp nào là thật. Thế
mà chúng ta chấp thật pháp, thật ngã, tăng trưởng si mê, chìm đắm mãi
trong biển luân hồi sanh tử. Dưới con mắt của Phật của Tổ thấy rõ các
pháp như huyễn như hoá, nên các ngài vượt ra ngoài vòng sanh tử luân
hồi. Thấy tất cả là tương đối hư giả là cái thấy của người giác ngộ.
Chỉ Tâm Chẳng Sanh Diệt Là Tuyệt Ðối
Tuy
nhiên trong cuộc đời tương đối vẫn có cái tuyệt đối mà ít ai biết đến.
Chúng ta cứ quen chạy theo hình sắc thanh âm là những thứ vô thường sanh
diệt. Ngay cái sanh diệt lại đòi cho được tuyệt đối, quả là chúng ta
bắt bóng mò trăng. Làm gì có, ngay cái đối đãi sanh diệt lại là tuyệt
đối vô sanh. Khi chúng ta vươn theo hình thức sự vật mà mong được cái
chẳng sanh chẳng diệt. Hãy nghe hai câu sau trong bài kệ trình kiến giải
lên Ngũ Tổ của người cư sĩ họ Lư: "Xưa nay không một vật, chỗ nào dính bụi nhơ" (Bản
lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai). Có vật là vô thường sinh diệt, dù
cứng như chất kim cương, cũng là vô thường sinh diệt.
Chỉ
có tâm thể không hình tướng, không dấy động mới là bất sanh bất diệt.
Tâm thể vượt ngoài đối đãi hai bên, vĩnh hằng bất biến. Vừa thấy hai bên
là mất tâm thể rồi. Cho nên Tổ Tang Xán kết thúc bài Tín Tâm Minh nói "Tín tâm bất nhị, bất nhị tín tâm" (Tin
tâm không còn hai, không hai tin tâm). Có hai còn là đối đãi, không hai
thì đối đãi với cái gì. Chính cái vượt ngoài đối đãi mới thực sự là
tuyệt đối. Cái tuyệt đối có sẵn nơi mọi người chúng ta không phải tìm
kiếm bên ngoài. Biết buông tâm niệm đối đãi, sống bằng thể không đối đãi
là người giác. Trái lại, chạy theo tâm niệm đối đãi sinh diệt, quên mất
tâm thể bất sanh bất diệt là ngưòi mê.
Kết Thúc
Con
người chán nản ê chề khổ đau cùng cực, vì những thần tượng của mình
dựng nên đều sụp đổ. Còn tin tưởng vào đâu khi lòng tin tuyệt đối dồn
vào các thần tượng, mà nay tan vỡ hết rồi. Ðây là người mắc bệnh thiếu
thực tế, lúc nào cũng lý tưởng hoá kẻ khác. Khi lý tưởng bị thất vọng,
họ đâm ra thù ghét chán chường. Cộng thêm bệnh đòi hỏi quá đáng, khiến
họ không bằng lòng một ngừơi nào trên thế gian này. Thế là, họ đang sống
trong đông đảo quần chúng, mà cảm thấy như mình lang thang trong bãi sa
mạc.
Sự
chán đời tuyệt vọng của những người này phát xuất từ sự gởi gấm tất cả
lòng tin vào kẻ khác. Chúng ta phải khôn ngoan nhìn mọi người bằng con
mắt tương đối, tin mọi người bằng lòng tin giới hạn. Chúng ta sẽ bằng
lòng trong đời sống này, và sẽ cảm thông tha thứ những người thân với
mình khi họ phạm phải sai lầm. Chúng ta còn chỗ nương dựa duy nhất là
chính mình. Mình sẵn có hòn ngọc quí mà lâu nay đã quên lãng.Hôm nay
khéo tay mở chéo áo lấy hòn ngọc đem ra dùng, đời ta sẽ hạnh phúc biết
là bao!
HT.Thích Thanh Từ