LỤC ĐỘ
Độ thứ nhất: BỐ THÍ BA LA MẬT
DÀN BÀI
A.
MỞ ĐỀ:
Lòng từ bi được thể hiện trong sự bố thí.
B.
CHÁNH ĐỀ:
I. Định nghĩa về bố thí Ba la mật
II. Thành phần của bố thí Ba la mật
1. Tài thí: nội thí, ngoại thí.
2. Pháp thí
3. Vô uý thí
III. Phải bố thí như thế nào mới đúng chánh pháp?
1. Bố thí chấp tướng
2. Bố thí không chấp tướng
IV. Công đức của bố thí Ba la mật
1. Đối với người
2. Đối với mình
C. KẾT LUẬN:
A. MỞ ĐỀ:
Đạo Phật thường được gọi là Đạo Từ bi, vì tình thương trong Đạo Phật rất bao
la, sâu rộng. Đức Phật tổ vì từ bi mà xuất gia để tìm đạo cứu khổ cho
chúng sinh. Vậy người Phật tử, khi noi theo dấu chân Phật, cũng phải lấy từ bi
làm động tác chính cho sự tu hành của mình.
Nhưng làm thế nào để thể hiện được lòng từ bi và làm cho nó tăng trưởng? Phương
pháp mầu nhiệm nhất là thực hành pháp môn Bố thí Ba la mật, một trong sáu pháp
môn (lục độ) mà đức Phật đã chế ra cho kẻ tu hành có tâm trí rộng lớn thực hành
để độ mình và độ người ra khỏi biển sanh tử luân hồi và đến bờ giác ngộ.
B. CHÁNH ĐỀ:
I. ĐỊNH NGHĨA VỀ BỐ THÍ BA LA MẬT
Bố là cùng khắp; thí là cho, là trao tặng. Bố thí là cho cùng khắp, cho tất cả
mọi người, mọi vật, mọi nơi.
Ba la mật nguyên âm tiếng Phạn là Paramita. Người Trung hoa dịch nghĩa là
"Bỉ ngạn đáo", nói theo tiếng Việt là "đến bờ bên kia".
Bố thí Ba la mật, tức là một môn tu hành bằng phương pháp bố thí, có công năng
như một chiếc thuyền, đưa mình và người từ bờ mê lầm của chúng sinh sang bờ
giác ngộ của chư Phật.
II. THÀNH PHẦN CỦA BỐ THÍ BA LA MẬT
Bố thí Ba la mật gồm các loại sau đây: Tài thí, Pháp thí, Vô úy thí. Dưới đây
chúng ta lần lượt tìm hiểu ý nghĩa của các loại bố thí ấy:
1. Tài thí. Tài thí tức là đem tiền bạc, của cải, vật thực của mình ra
cho. Tài thí có hai loại.
a) Nội tài. Là những vật chí thân quí báu nhất của mình như thân
mạng, đời sống của mình. Thí nội tài ở đây tức là hy sinh thân mạng để cứu vớt
kẻ khác ra khỏi nguy nan. Trong các chuyện tiền thân của đức Phật Thích Ca,
chúng ta đã thấy nhiều gương thí nội tài, như câu chuyện người lái buôn kia,
trong khi đi biển bị thuyền chìm đã tự hy sinh thân mạng bằng cách buông tay
khỏi cột buồm mà mình đang bám vào, để nhường chỗ cho những hành khách xấu số
khác khỏi chết đuối.
Thí nội tài là một cử chỉ hy sinh cao đẹp nhất mà chỉ những người giàu lòng từ
bi, bác ái mới làm được. Nếu còn xem thân mạng mình là quý, là trọng hơn thân
mạng kẻ khác thì chắc chắn không bao giờ thực hiện được loại bố thí này.
b) Ngoài tài. Ngoại tài là những vật thường dùng của mình như thức
ăn đồ mặc, tiền bạc, xe cộ, ruộng vườn, nhà cửa v.v... Đem những vật ấy ra cho
những người túng thiếu, nghèo khổ thì gọi là thí ngoại tài.
2. Pháp thí. Đem lời hay, lẽ phải, những chân lý đúng đắn, những
lời dạy quí báu của đức Phật để chỉ bày, khuyên bảo người khác; hoặc y theo
giới luật của Phật tu hành thành thật để làm khuôn mẫu cho người bắt chước, bỏ
dữ theo lành, cải tà quy chánh đều là pháp thí. Pháp thí có một giá trị rất lớn
lao hơn cả tài thí, vì tài thí chỉ giúp người khác đỡ túng thiếu về phương diện
vật chất trong một thời gian, hay nhiều nhất là cứu giúp một đời người. Nhưng
pháp thí giúp đỡ người rất nhiều về phương diện tinh thần, không riêng gì đối
với người nghèo khó, mà cả người giàu sang, chức tước; không phải chỉ có ảnh
hưởng tốt trong một giai đoạn, mà gieo nhân lành cho nhiều đời kiếp về sau. Vì
những lẽ đó, nên người Phật tử chân chính, không bao giờ bỏ mất một dịp nào mà
không làm pháp thí, cả về phương diện khẩu giáo (dùng lời lẽ đúng Phật pháp để
chỉ dạy) lẫn phương diện thân giáo (dùng đời sống chân chính hợp đạo để chỉ
dạy).
3. Vô úy thí. Vô úy nghĩa là không sợ. Vô úy thí là làm cho người
khác không sợ, hết sợ. Phép thí này mới nghe thì tưởng như là không quan trọng
gì cả. Nhưng nếu suy nghĩ một cách chín chắn, chúng ta sẽ thấy đức Phật thật vô
cùng thâm thúy khi chế ra pháp thí này.
Chúng ta hãy nghĩ lại mà xem, có phải trong một đời người, cái sợ đã chiếm nữa
cuộc đời rồi không? Khi nhỏ chúng ta sợ la rầy, sợ đánh đập, sợ ma quỉ... khi
tráng niên sợ thiếu ăn, thiếu mặc, sợ giặc, sợ thiếu công danh, sự nghiệp; khi
già sợ đau, sợ ốm, sợ già, sợ chết... Chỉ toàn sợ và sợ. Đó là chưa nói đến gặp
thời buổi loạn lạc, còn phải sợ sưu cao, thuế nặng, sợ quan tham, lại nhũng, sợ
trộm cướp, lưu manh, sợ tù, sợ tội, sợ chém, sợ giết... Bao nhiêu thứ sợ chồng
chất lên đầu người, làm cho đầu họ không dám ngửng lên, lưng họ còm xuống, đầu
gối họ sắp quỵ. Muốn có một hình ảnh tượng trưng cho sự sợ hãi, thì hãy lấy
hình ảnh của người dân quê Việt nam trong thời Pháp thuộc thì rõ: Hai tay họ
sẵn sàng chắp lạy, mắt không dám nhìn lên, lưng còng xuống và hai đầu gối sẵn
sàng để quỳ xuống mỗi khi nghe tiếng nạt của ông quan hay ông thực dân hống
hách.
Đời sống đã khổ, lại càng khổ thêm vì sợ. Cho nên làm cho người hết sợ, chính
là đã cứu cho họ bớt đi quá nửa khổ đau trong liếp sống. Lòng từ bi của đức
Phật nở thấy chúng sinh khổ sở vì sợ, nên đã chế ra phép thí vô úy.
Muốn thực hành pháp môn này, hành giả trước tiên phải luyện cho mình một đức
tính đừng sợ gì cả. Mà kẻ tu hành chân chính, hiểu rõ giáo lý của Phật, thì còn
sợ nỗi gì? Tiền của, họ không tham cho nên không sợ mất; danh lợi, họ không
màn, nên không sợ thiếu, sanh mạng, họ xem như giả tạm, nên không sợ chết. Do
cái tâm lý đó mà cõi lòng họ luôn luôn không xao động, nét mặt họ luôn luôn
bình tĩnh trước mọi sự đổi thay, gian nan nguy hiểm. Người tu hạnh thí vô úy
sẵn sàng để nhảy xuống nước vớt người sắp chết chìm, nhảy vào lửa để cứu người
sắp chết thiêu, xông vào đám cướp để cứu người lương thiện, đến gõ cửa công, để
minh oan cho người vô tội...
Tóm lại, người tu hạnh thí vô úy, hễ đi đến đâu thì đem đến đó một nỗi bình
tĩnh, an vui cho mọi người và mọi vật.
III. PHẢI BỐ THÍ NHƯ THẾ NÀO MỚI ĐÚNG CHÁNH PHÁP?
Chúng ta đã biết qua các lối Bố thí Ba la mật. Đến đây, chúng ta cũng cần biết
rõ thái độ của người tu hành bố thí phải như thế nào.
Sự bố thí như đã nói trên, thật ra không khó và không hiếm. Rất nhiều người có
thể làm được. Trong đời, chúng ta thường thấy có nhiều kẻ giàu có đem bạc ngàn
bạc vạn ra bố thí, có nhiều người bỏ cả tài sản ra lập nhà thương, ký nhi viện,
trường học, có nhiều người dám liều mạng xông vào lửa để cứu kẻ sắp chết thiêu,
nhảy xuống nước cứu người sắp chết đuối; có những kẻ anh hùng đem tài năng ra
bảo vệ kẻ yếu hèn, hay dám đương đầu với bọn xâm lăng để giữ gìn đất nước.
Về phương diện thí pháp, có nhiều người đi đâu cũng đem đạo lý ra giảng nói, đi
đâu cũng tỏ ra ta đây hiểu đạo, chứng quả.
Nếu nhìn bề ngoài, thì những hành động ấy đều là bố thí cả. Nhưng nếu xét về
tâm lý và động lực thúc đẩy bên trong, thì có thể có hai trường hợp khác xa
nhau.
1. Bố thí chấp tướng. Nghĩa là bố thí với một dụng tâm không trong
sạch. Chúng ta đã biết bố thí do từ tâm mà ra. Bố thí là một pháp môn để tự độ
và độ tha. Những nếu bố thí với một dụng tâm khác như cầu danh, cầu tài lợi
(cho ít mà cầu được trả nhiều), hoặc vì ganh đua, hoặc vì muốn làm nhục người
chịu ơn, hoặc vì bị ép buộc, hoặc cho với một tâm lý khinh rẻ, hối tiếc hoặc
cho với một tâm lý lừa lọc, bất công, thiên vị; nếu bố thí với một tâm lý, một
thái độ như thế, thì tất là bố thí chấp tướng.
Chẳng hạn đem tiền của ra lập nhà thương, trường học để được nêu trên báo, để
được nhắc nhở đến luôn; hoặc nhảy xuống sông cứu người chết đuối để được
"người đẹp" tán thưởng; hoặc giết giặc để mong được tấm huy chương,
hoặc giảng đạo lý để tỏ ra mình học rộng biết nhiều. Những hành vi bên
ngoài đẹp đẽ ấy, bên trong thật không có giá trị gì.
Bố thí với tâm lý, với động lực như thế, không phải là Bố thí Ba la mật; và
phước đức của những hành động ấy thuộc về hữu lậu rất mỏng manh, như mây nổi
giữa hư không, gặp gió thổi liền tiêu tan.
2. Bố thí không chấp tướng. Nghĩa là bố thí với một dụng ý trong sạch,
đúng với ý nghĩa của nó.
Trong khi bố thí, hành giả vì tâm từ bi bình đẳng, xem chúng sinh như con, nên
không sinh tâm vị kỷ, không phân biệt bỉ thử, thân sơ. Hành giả vì biết tài sản
cũng như thân mạng mình đều là giả tạm, vô thường, nên không tham lam, tiếc
nuối. Hành giả vì biết cái "ngã" không có thật, nên khi cho không
thấy có kẻ cho và người nhận, không tự cao, tự đại.
Bố thí với một tâm địa trong sạch như trên sẽ được phước vô lậu thanh tịnh, mới
đúng là Bố thí Ba la mật.
IV. CÔNG ĐỨC BỐ THÍ BA LA MẬT
Pháp bố thí là cái nhân lành của quả phúc ở thế gian và xuất thế gian. Trong
lục độ vạn hạnh, pháp bố thí đứng đầu, vì nó tương đối dễ làm hơn tất cả các
pháp, mà công đức lại lợi lạc được cả đôi bên người nhận và kẻ cho:
1. Đối với người nhận. Người đời không ai là đầy đủ. Kẻ được phần
này thì thiếu phần khác: kẻ được vật chất thì mất tinh thần, kể đầy đủ tinh
thần thì thiếu thốn vật chất.
Kẻ đang thiếu ăn mà được ăn, kẻ đang thiếu mặc mà được mặc, kẻ đang đau xót mà
được vỗ về, an ủi, kẻ đang lo sợ mà được đùm bọc che chở thì thật là may mắn
sung sướng vô cùng. Trong một xã hội có được nhiều người giàu lòng từ bi bác
ái, luôn luôn tìm cách giúp người, thì xã hội ấy chắc chắn sẽ được an vui thịnh
đạt.
2. Đối với người cho. Sự bố thí đã đành là lợi lạc cho người nhận,
nhưng đối với người cho cũng không kém phần quý báu. Ngoài sự sung sướng được
thấy mình làm việc phải, được thấy quần sinh sung sướng, vui mừng, hành giả còn
nhờ bố thí mà tiến mau, tiến xa trên đường đạo. Mỗi khi đem của cải ra cho, là
hành giả có một dịp để chiến thắng lòng tham lam, bỏn sẻn, ích kỷ và nới rộng
lòng từ bi; mỗi khi hy sinh tánh mạng để cứu giúp người, là hành giả có dịp để
thử thách lòng tham sống, sợ chết, và trau dồi đức tánh lợi tha, bình tĩnh. Mỗi
khi cho mà không kể kẻ thân người thù, là hành giả có dịp để chiến đấu với lòng
sân hận, và trau dồi thêm đức tính từ bi, bình đẳng. Mỗi khi cho mà không nghĩ
đến kẻ cho hơn người nhận, là hành giã có một dịp đễ chiến đấu với chấp ngã, ái
ngã, ngã mạn. Nếu hành giả thí pháp, thì đó là những cơ hội để mình tự nhắc
nhở, ghi nhớ những lời đức Phật dạy, những công đức mà Ngài đã làm để noi theo.
C. KẾT LUẬN:
Chúng ta đã thấy rõ giá trị của pháp Bố thí Ba la mật. Công đức của nó không
những chỉ riêng cho người nhận, mà lẫn cả người cho nữa. Nó vừa độ người mà vừa
độ mình. Nó công năng đưa mình và người từ bờ mê lầm đến bờ giác ngộ, từ địa vị
phàm phu đến quả vị Bồ Tát.
Vậy xin khuyên các Phật tử đều phát tâm Bồ đề, tu hạnh Bố thí Ba la mật, để
trên cầu thành quả Phật, dưới hóa độ chúng sinh, đền ơn Tam Bảo.