Vài người vẫn nghĩ rằng tu niệm là công chuyện làm có tính
cách huyền bí, dành riêng cho một hạng người đặc biệt nào. Thật ra
"niệm" là một việc hết sức đơn giản, hết sức phổ thông.
Tất cả chúng ta đều có niệm, mặc dầu chúng ta niệm trong hình thức sơ
khai nhất và chúng ta gọi đó là chú tâm, hay lưu ý đến, nghiã là hướng
tâm về đối tượng.
Tâm hay biết này, nếu ta giữ được bền lâu trên đối tượng thì đó là
niệm. Tâm có chiều hướng phóng ra và luôn luôn chao động. Kéo tâm lại và
đặt nó vào một đối tượng, chỉ hay biết đối tượng đó thôi, tức là niệm.
Danh từ Pãli mà do đó ta phiên dịch là niệm, chữ "sati", sanscrit là
smrti, có nghĩa là trí nhớ, hay sự hồi nhớ. Tuy nhiên, sati không chính
xác giống như quan niệm về trí nhớ của người Tây phương.
Sati, niệm là trạng thái chú tâm, sự hiện hữu của tâm trên đối tượng.
Ðôi khi sati được xem như sự hay biết đối tượng, nhưng ở đây cũng vậy,
sati, niệm, không phải là sự hay biết như thường được hiểu, ít nhiều bao
hàm những ý nghĩ, những cảm tưởng v.v... mà là sự hay biết suông, trơ
trọi, hoàn toàn tách rời xa khỏi mọi suy tư, tưởng tượng hồi nhớ.
Ngoài đối tượng hoàn toàn không hay biết gì khác xảy ra bên trong hay
bên ngoài ta. Niệm là sự hay biết không có lựa chọn, chỉ ghi nhận đối
tượng mà không vướng víu vào màn lưới của tư tưởng.
Như thế, hành chú niệm không phải là vấn đề "làm một điều gì" mà thật
sự là "không làm": Không suy tư, không xét đoán, không liên tưởng,
không sắp xếp kế hoạch, không tưởng tượng, không ước muốn.
Chỉ có sự ghi nhận, quan sát, chú tâm nhìn vào đối tượng. Trong khi
hành Chính Niệm tâm thức tỉnh quan sát điều gì đang xẩy ra một cách rõ
ràng, an tĩnh. Chỉ ghi nhận rồi buông bỏ cho nó trôi qua, không xét đoán
hay diễn dịch. Sự vật đến rồi đi, sinh rồi diệt, hành giả ghi nhận diễn
tiến trong thời điểm hiện tại, luôn luôn sống trong hiện tại.
Trong Bát Chính Ðạo, đi kèm danh từ sati có chữ sammã, có nghiã là
chính, đúng. Sammã Sati, là niệm hoặc có sự chú tâm hay biết chân chính,
ta gọi là Chính Niệm. Một cách rốt ráo, thực hành Chính Niệm là hành Tứ
Niệm Xứ.
Có bốn loại niệm chân chính là: Niệm thân, niệm thọ, niệm tâm và niệm
pháp, được gọi là Tứ Niệm Xứ (Satipatthãna). "Patthãna" hay "upatthãna"
là đem lại gần, kềm giữ chắc tình trạng hiện hữu, giữ tâm hay biết, hay
thiết lập cơ sở. Tứ Niệm Xứ là bốn xứ, hay bốn chỗ, chính yếu để hành
giả đặt sự chú tâm hay biết vào.
Kinh Tứ Niệm Xứ được Ðức Thế Tôn thuyết giảng cho người dân Kura tại
thị trấn Kammasadamma và được ghi chép ở hai nơi trong Tam Tạng kinh
điển. Một là bài kinh số 10 trong bộ Trung A Hàm, Majjhima NiKaya, dưới
tựa đề Satipatthana Sutta.
Bài kinh kia là số 22 trong Trường A Hàm, Dĩgha Nikaya, dưới tựa đề
Maha Satipatthana Sutta. Ðiểm khác biệt giữa hai bài là trong Kinh Ðại
Niệm Xứ (Maha Satipatthana) của Trường A Hàm phần Tứ Diệu Ðế dược giải
thích dài dòng và đầy đủ chi tiết hơn trong đoạn Niệm Pháp. Cả hai bài
đều bắt đầu như sau:
"Có con đường duy nhất này để chúng sinh tự thanh lọc, để diệt trừ
đau khổ, để thành đạt trí tuệ và để chứng ngộ Niết Bàn -- Ðó là Tứ Niệm
Xứ."
Tứ Niệm Xứ là thế nào? -- là Niệm Thân, Niệm Thọ, Niệm Tâm và Niệm
Pháp.
Niệm Thân: là chú tâm hay biết vào những hiện tượng
vật chất trong cơ thể. Pháp niệm thân có 14 phần gồm :
1- Chú tâm vào hơi -thở-vào-thở ra. Ðây là
pháp hành rất phổ thông và mọi người có thể áp dụng làm nền tảng cho
công phu hành thiền.
Không nên lầm hiểu rằng đây chỉ là lối tu tập cho người sơ cơ vì pháp
niệm hơi thở chính nó có thể dẫn hành giả đi dài theo con đường, suốt
qua tất cả những giai đoạn khác nhau của Con Ðường đến tận điểm cùng tột
là hoàn toàn giác ngộ.
Lại nữa, tiến trình hơi thở theo dính liền với ta cho đến lúc lià đời
và do đó luôn luôn hiện hữu, lúc nào ta cũng có thể xử dụng để chú tâm
hay biết vào. Hành giả không cố ý kiểm soát, làm cho nó phải như thế
nào, dài hay ngắn, mạnh hay yếu, mà để cho nó trôi chảy tự nhiên và theo
dõi chú tâm hay biết.
2- Chú tâm hay biết mọi cử động của thân như đi đứng,
nằm, ngồi v.v... Hành giả chú tâm hay biết vào mọi tác
động của thân. Khi đi, hay biết mình đang đi, khi đứng, hay biết mình
đang đứng, khi nằm, hay biết mình đang nằm, khi ngồi, hay biết mình đang
ngồi, khi dổi tư thế, hay biết mình đang chuyển mình đổi tư thế.
3- Có sự hay biết rõ ràng về mục đích và
về tính cách thích nghi của hành động bằng thân như khi nhìn về phiá
trước hay nhìn quanh, khi co hay duỗi tay, chân, khi đắp y mang bát, khi
ăn, uống, nhai, nếm, khi đi đại tiện hay tiểu tiện, khi đi, khi đứng,
khi nằm, khi ngồi, khi ngủ, khi thức, khi nói và khi giữ im lặng.
Phần này cũng đưa đến trạng thái định tâm và hiểu biết thấu đáo và
tường tận rằng không có một "người" mà chỉ có những cử động sinh khởi do
nhân duyên.
4- Quán tưởng tính cách ô trược của thân.
Quan sát thâm sâu vào thực tướng của thân này để nhận thức rằng nó không
có chi là hấp dẫn để ta luyến ái. Ðức Phật dạy rằng ham mê nhục dục ngũ
trần là một hình thức của ái dục, tức là nguyên nhân sinh khổ, và như
vậy phải cố gắng giảm bớt và tiêu trừ.
Khi nhìn bề ngoài ta thấy rằng thân này đẹp đẽ và hấp dẫn rồi ngưng
tại đó, không nhìn và quan sát ở một từng lớp sâu hơn. Pháp hành này mổ
xẻ, phân tách, nghiên cứu từng bộ phận và thấy rằng cái mà ta gọi là sắc
đẹp chỉ là một ảo ảnh, chỉ sâu dầy như một lớp da. Dưới lớp da mỏng
manh ấy thì không có gì là hấp dẫn.
Tuy nhiên ta không nên nghĩ rằng pháp hành này làm cho ta nhờm gớm
hay bất mãn với cơ thể mà giúp ta thấy đúng sự thật rồi buông bỏ, không
luyến ái, không bám níu vào thân, nghiã là từ từ dập tắt lửa tham dục
bằng cách giảm dần nhiên liệu
5- Quán tưởng về bốn Thành Phần Chính Yếu (Tứ đại) cấu
thành cơ thể này. Thông thường ta có khuynh hướng xem thân
này là chính mình, là của mình nhưng khi mổ xẻ và phân tách tận tường
ta nhận thức rằng nó chỉ là sự cấu hợp của những nguyên tố đất, nước,
lửa, gió luôn luôn biến đổi, cũng như những gì vật chất ở quanh ta, thì
có gì là "Ta", như một đơn vị nguyên vẹn, thường còn không biến đổi, có
gì đặc biệt là "Của Ta".
6- Quán tưởng chín loại tử thi , tức suy niệm về chín
giai đoạn tan rã của xác chết. Hành giả tưởng tượng một
xác chết lần lần xình thúi và trải qua những giai đoạn tan rã rồi liên
tưởng đến thân mình. Giờ đây khỏe mạnh, đầy sinh lực nhưng một ngày nào
rồi cũng chịu chung một số phận, xuôi chiều theo định luật thiên nhiên: "Thật
vậy, thân này cũng cùng một bản chất như vậy, cũng trở thành như vậy và
sẽ không thể tránh khỏi trạng thái như vậy."
Một lần nữa, ta không nên hiểu lầm tác dụng của pháp hành này.
Ðây không nhằm làm chúng ta lo sợ chết hay sợ xác chết mà giúp chúng
ta suy niệm rõ ràng thực tế của sự vật là vô thường là buông bỏ, không
núm niú vào kiếp sinh tồn. Tử thi ở đây là vị thầy dõng dạc nói lên một
cách hùng hồn, khẳng định rằng: "Tất cả các pháp hữu vi thật không
bền vững. Nó có tính sinh diệt là thường vì nhân sinh rồi diệt, diệt rồi
sinh... "
Niệm Thọ: là chú tâm hay biết vào những cảm giác
hạnh phúc hay đau khổ, hoặc vô ký (không hạnh phúc không đau khổ) khi
những cảm giác ấy vừa sinh khởi.
Thọ là một tâm sở. Theo Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) tâm sở thọ là một
trong bẩy tâm sở phổ thông (biến hành), có mặt trong tất cả các loại
tâm. Như vậy mỗi khi chứng nghiệm một loại tâm nào đều có tâm sở thọ,
mạnh hay yếu, rõ ràng rành mạch hay mù mờ, nhưng có sự hay biết là có
thọ.
Thí dụ như có một hình thể (sắc trần), có mắt (nhãn căn). Khi sắc
trần tiếp xúc (xúc) với nhãn căn là có nhãn thức. Nhãn thức là sự hay
biết về hình thể, một loại tâm vương, thì trong đó có tâm sở thọ, mạnh
hay yếu. Có sáu căn: Nhãn , nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Tức có sáu loại thọ
khác nhau, tùy theo "xúc" ở căn nào.
Thọ rất quan trọng vì do thọ sinh ái, và từ đó liên tục diễn tiến
vòng quanh những kiếp sống khổ đau. Thọ có thể phát sinh rõ ràng, dễ
nhận ra, có khi kín đáo và mù mờ, tế nhị đến độ có đó mà ta không nhận
diện.
Thọ lạc thì ta luyến ái rồi thì chấp thủ, một loại tâm tham. Thọ khổ
thì ta bất mãn, buồn phiền, một hình thức của tâm sân. Thọ vô ký thì ta
buông trôi, để cho nó mặc tình lôi cuốn, tức ít nhiều có tâm si.
Tham, sân, si là căn bản từ đó xuất phát tất cả những loại tâm bất
thiện. Nhìn theo Thập Nhị Nhân Duyên là: Do lục căn có xúc, do xúc có
thọ, do thọ có ái, và từ đó thủ, hữu v.v...
Thông thường, nếu người ta không kiểm soát, tiến trình của luyồng tâm
diễn tiến như thế. Những sự ưa thích hay ghét bỏ của ta phần lớn tùy
thuộc nơi tính cách đáng ưa hay đáng ghét của ngoại cảnh và phát sinh
hầu như máy móc, một cách tự động.
Chúng ta thường không chủ dộng mà chỉ phản ứng ngoại cảnh. Một cảnh
đẹp làm cho ta muốn thưởng ngoạn. Một bản nhạc hay làm cho ta muốn nghe.
Một thức ăn ngon khiêu gợi lòng muốn ăn v.v...
Trong quyển The Simpler Side of The Buddhist Doctrine, Ðại
Ðức Kassapa viết : "... Từ lâu, giác quan ta đòi hỏi được thỏa mãn.
Ðã lâu rồi, giác quan ta được phụng sự đầy đủ và sẽ còn được phụng sự
cho đến khi trở thành qúa dỗi khó chịu.
Cái gì phụng sự giác quan? - Chính cái tâm phải phụng sự giác
quan như người nô lệ phục vụ cùng một lúc năm vị hoàng đế khó tính. Tâm,
vị chúa tể, đã bị truất phế và chính năm tên quân hầu, năm giác quan,
soán ngôi.
Người Phật Tử chúng ta có bổn phận phục hồi ngôi vị lại cho tâm,
vì tâm là nguồn lực duy nhất có thể giúp ta vạch ra và khai triển con
đường."
Làm cách nào kềm chế những dòi hỏi của giác quan? Nơi đây là vai trò
của "Niệm Thọ". Thọ lạc không đương nhiên dẫn đếm tâm tham cũng như thọ
khổ không nhất thiết phải dẫn đến sân và thọ vô ký đến si.
Ðôi khi, bằng cách vận dụng ý chí, ta có thể quyết định loại thọ mà
không bị dối tượng chi phối. Khi nhờ niệm thọ, ta hay biết kịp thời,
nhìn, hiểu biết và điều khiển nó, mà không để nó dẫn đi.
Như có người kia mà từ lâu ta hằng có cảm tình và giúp đỡ, bỗng nhiên
một ngày nọ trở mặt mắng nhiếc ta thậm tệ. Lời thô lỗ đến tai, có nhĩ
thức. Thông thường, nếu niệm không đủ bén nhạy, không hay biết kịp thời,
tức nhiên có thọ khổ.
Tâm sân liền phát khởi, đưa đến những hành động hay lời nói kém thanh
lịch. Nếu có niệm thọ, và nếu niệm đủ bén nhạy, vừa hay có thọ khổ và
tâm bất mãn ta liền kịp suy tư như sau:
- Lời nói thô lỗ cộc cằn là xấu và sẽ tạo bất thiện nghiệp. Nó là của
ai?
- Không phải của ta. Của người kia. Vậy, của họ thì để họ lo, tội gì
mình phải gánh chịu.
- Bây giờ, cái gì là của ta?
- Phản ứng của ta như thế nào đối với lời nói ấy sẽ là của ta. Trong
trường hợp này có thể có ba cách phản ứng.
Một là ăn miếng trả miếng. Họ mắng chửi mình thì mình mắng chửi lại.
Ðó là phản ứng tự nhiên, dễ dàng, thông thường nhất và đương nhiên đưa
đến tâm sân, tức đau khổ.
Hai là nhịn. Ta suy nghĩ rằng lời nói chỉ là những âm thanh, nếu để
những âm thanh ấy lọt vào tâm thì nó sẽ gây phiền giận, đau khổ mà không
lợi ích gì. Hãy để cho nó qua như gió thoảng qua màn lưới. Ý tưởng ấy
sẽ đưa đến tâm Xả, quân bình, bình thản.
Ba là nghĩ rằng tội nghiệp anh ta, tội cho cái nghiệp của anh, anh
tạo nhân xấu mà không biết. Rồi ta rải tâm từ đến anh. Hành động vậy thì
chính ta hưởng thọ lạc.
Lẽ dĩ nhiên, thái độ thứ nhất là thấp kém và thái độ thứ ba là cao
thượng hơn hết, nhưng ít khi ta làm được. Tại sao? - Vì niệm của ta chưa
đủ bén nhạy để hay biết kịp thời và tâm từ của ta còn yếu, để cơn giận
nổi lên như ngựa chạy điên, có đụng đâu đó rồi mới chịu ngừng. Nếu niệm
của ta đã được rèn luyện thuần thục ắt bén nhạy hơn và sẽ hay biết kịp
thời.
Lúc đầu trong pháp niệm thọ là chú tâm hay biết những cảm giác vừa
phát khởi và rõ ràng phân biệt bản chất của nó là lạc, khổ hay vô ký.
Ghi nhận loại thọ, nhưng không tự đồng hóa mình với nó, không xem nó là
"Ta", hay "Của Ta", hoặc là cài gì xảy đến cho "Ta". Thọ chỉ là cảm giác
suông.
Sự hay biết được giữ ở tầng lớp chỉ ghi nhận thọ, không có lẫn lộn
với bất luận cảm xúc buồn vui hay ưa thích ghét bỏ nào. Ðó là ý nghĩa
của đoạn "niệm thọ trong thọ" trong câu kinh, chỉ ghi nhận loại thọ -
lạc, khổ hay vô ký - Hành giả chỉ hay biết có sự hiện hữu của thọ và
giác tỉnh theo giõi, nhìn nó tan biến.
Lâu ngày tự rèn luyện như thế sẽ đến lúc hành giả có thể ghi nhận
từng thọ cảm của mình, sinh khởi và hoại diệt, diệt rồi sinh. Chỉ có một
luồng những thọ cảm diễn tiến vô cùng nhanh chóng.
Trong tiến trình sinh diệt ấy không có cho tồn tại và không có chi có
thể là một cái "Ta" đơn thuần, nguyên vẹn, tồn tại trong hai khoảnh
khắc kế tiếp. Không có chi để tham, để sân, hay để si. Không có chi đáng
được ưa thích hay ghét bỏ. Không có chi đáng bám níu hay xua đuổi. Ta
hoàn toàn buông bỏ.
Cùng lúc ấy, niệm của ta sẽ bén nhạy thêm dần và có thể, dễ dàng hơn,
ngưng lại kịp thời những cảm xúc, những ý nghĩ và những tác ý. Ta tinh
tiến ngăn ngừa không để cho cảm xúc khởi sinh mà buông bỏ, chận đứng ái
ngay tại đây.
Niệm Tâm: là chú tâm hay biết về những tư tưởng của
mình. Thí dụ như có những tư tưởng của mình. Thí dụ như có những tư
tưởng tham ái phát sinh, hành giả hay biết có tâm tham; có tâm quảng
đại, thiên về bố thí, hành giả hay có tâm bố thí v.v... Khi những tư
tưởng này phát hiện hành giả nhận thức sự phát hiện. Khi nó tan biến
hành giả cũng hay biết nó tan biến.
Theo Phật Giáo, tâm không phải là một thực thể đơn thuần và nguyên
vẹn, không biến đổi, mà là những chập tư tưởng nối tiếp trôi chảy. Ðại
Ðức Nãrada giải thích : "Theo triết học Phật Giáo, không có một
khoảnh khắc nào mà tâm có thể trống rỗng, nghiã là không có lúc nào mà
không có một loại tâm duyên theo một đối tượng vật chất hay tinh thần.
Thời gian tồn tại của một loại tâm như vậy gọi là một chập tư
tưởng, hay sát na tâm. Khi một chập tư tưởng diệt, tức khắc có một chập
mới phát sinh. Như vậy, những chập tư tưởng liên tục nối tiếp, và thời
gian tồn tại của một chập tư tưởng thật ngắn, khó mà quan niệm được.
"Mỗi chập tư tưởng gồm ba giai doạn: sinh, trụ và diệt. Ngay khi
một chập tư tưởng vừa trải qua giai đoạn diệt, tức khắc giai đoạn sinh
của chập tư tưởng kế nổi lên. Trong tiến trình luôn luôn biến đổi của
đời sống, mỗi chập tư tưởng khi diệt, chuyển tất cả năng lực và tất cả
những cảm giác thâu nhận cho chập tư tưởng kế tiếp.
Một chập tư tưởng mới gồm những tiềm năng do chập tư tưởng trứơc
trao lại và thêm vào đó có cái gì khác nữa. Như vậy, có sự luân lưu
không ngừng của tâm. Luồng tâm như một dòng suối luôn luôn trôi
chảy .
Chập tư tưởng mới không hoàn toàn giống như chập tư tưởng trứơc
bởi vì thành phần cấu tạo đã đổi mới, mà cũng không hoàn toàn là khác,
bởi vì cả hai đều cùng nằm trong một luồng sống, một dòng đời.
"...hạng phàm nhân còn lúng túng trong ảo mộng, lầm nhận sự liên
tục giả tạo bên ngoài như cái gì vững bền, vĩnh viễn, không đổi thay, và
còn đi xa đến đỗi đưa một linh hồn trường tồn bất biến - giả định là
người vừa hành động vừa quan sát hành động - vào trong cái tâm luôn luôn
biến đổi."
Khi niệm thọ, ta chú tâm hay biết vào một tâm sở đặc biệt, tâm sở
thọ. Niệm tâm, ta chú tâm hay biết vào tâm vương. Tâm vương gồm 52 tâm
sở trong đó thọ là một. Trong pháp niệm tâm, do những tâm sở liên quan
Ðức Phật chỉ dạy 16 loại tâm để hành giả chú niệm là: Tâm có tham và tâm
không có tham, tâm có sân và tâm không có sân, tâm có si và tâm không
có si, tâm uể oải, liên hệ đến dã dượi hôn trầm, tâm loạn động, tâm phát
triển cao thượng (tức các loại tâm thuộc Sắc Giới và Vô Sắc Giới), tâm
không phát triển cao thượng (tức các tâm thuộc Dục Giới), tâm hữu hạn
(tức còn có thể hơn), tâm vô thường, tâm định, tâm không định, tâm giải
thoát và tâm không giải thoát.
Dầu là tâm trong sạch hay ô nhiễm, ta nên giữ chỉ có sự hay biết rõ
ràng mà không phấn khởi kích thích cũng không chán nản ngã lòng. Chỉ ghi
nhận loại tâm rồi để cho nó qua, không luyến ái bám niú cũng không ghét
bỏ đuổi xua mà hoàn toàn buông bỏ.
Niệm Pháp: là chú tâm hay biết vào những đối tượng
của tâm.
Trong Kinh Tứ Niệm Xứ, phần niệm pháp chia làm năm phần: Năm Pháp
Triền Cái, Ngũ Uẩn Thủ, Sáu Nội và Ngoại Xứ, Thất Giác Chi và Tứ Diệu
Ðế.
Năm pháp triền cái hay năm chướng ngại làm trở ngại con đường hành
đạo là: Tham dục, oán ghét, hôn trầm dã dượi, phóng dật lo âu và hoài
nghi.
Trong bộ Tạp A Hàm, Samyutta Nikãya, Ðức Phật dạy: "Có năm trở
ngại ;làm hoen ố tâm. Do các trở ngại này tâm không ôn thuận, không mềm
dẻo, không sáng suót, không thể được phân tách dễ dàng, cũng không thể
được cấu hợp hoàn bị để tiêu trừ ô nhiễm."
Người hành thiền phải hay biết rõ ràng mỗi khi nó phát sinh và khi nó
hoại diệt. Ðể vững vàng kiểm soát hành giả phải hiểu rõ năm chướng ngại
tinh thần khởi phát như thế nào, phải làm thế nào cho nó tan biến và
làm thế nào để ngăn ngừa không cho nó sinh khởi trong tương lai.
Ngũ uẩn thủ là chấp thủ rằng Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là "Ta" là
"Của Ta" rồi cố bám vào. Hành giả chú tâm hay biết vào sự khởi sinh và
sự phân tán của từng uẩn và nhận thức rằng nó luôn luôn biến đổi, không
có thực chất và không có uẩn nào là "Ta" hay "Của Ta".
Trong bộ Tạp A Hàm, Samyutta Nikãya, có ghi lại lời Ngài Sãriputta
khuyên dạy cụ già Nakulapitã: "Người không phân biệt Giáo Pháp rõ
ràng, không tu tập theo lời dạy của Giáo Pháp, xem thân (sắc) này là tự
ngã của mình, thấy tự ngã của mình nằm trong thân, thân trong tự ngã.
Người ấy nói, "Tôi là thân này, thân này là của tôi", và ý tưởng ấy thâm
nhiễm lâu ngày nhiều kiếp như vậy. Ðến khi thân thể biến đổi, tàn tạ và
ngày càng trở nên tồi tệ thêm, theo định luật vô thường, bất ổn định,
dính liền với mọi sự vật, mọi kiếp sinh tồn, thì cảm nghe buồn rầu, âu
sầu, đau khổ. Người ấy ta thán, than van, tuyệt vọng.
"Người ấy xem thọ, tưởng, hành, thức là tự ngã, xem chính mình
nằm trong thọ, tưởng, hành, thức, hoặc xem thọ, tưởng, hành, thức nằm
trong chính mình và nói " chính ta là ngũ uẩn, ngũ uẩn là ta, cái này là
thọ, tưởng, hành, thức của ta" Và cứ như thế, ý niệm tự đồng hóa với
ngũ uẩn thâm nhiễm nguời ấy. Do đó, khi thọ, tưởng, hành, thức biến đổi,
thì người ấy buồn rầu ta thán, âu sầu và tuyệt vọng..."
Và ngài tiếp :
"... Người được giáo dục đầy đủ, người có tu tập thuần thục trong
Giáo Pháp của bậc Thánh Nhân, người ấy không xem sắc, thọ, tưởng ,hành,
thức là chính mình, cũng không xem tự ngã mình nằm trong năm uẩn ấy.
Người ấy không bị ý niệrm kia thâm nhiễm và không nói sắc, thọ,
tưởng, hành, thức là tôi, tôi là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Vì không
thâm nhiễm những ý nghĩ sai lạc ấy khi sắc, thọ, tưởng , hành, thức biến
đổi, người ấy không âu sầu, phiền muộn v.v..."
Sáu nội xứ và Sáu ngoại xứ tức là lục căn và lục trần. Hành giả chú
niệm và hiểu biết nhãn, nhĩ tỷ, thiệt, thân, ý , hiểu biết sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp và hiểu biết dây trói buộc nào trong mười thằng
thúc phát sinh tùy thuộc nơi nội và ngoại xứ nào; hành giả hiểu biết một
thằng thúc chưa phát sinh sẽ phát sinh như thế nào; hành giả hiểu biết
sự dứt bỏ một thằng thúc đã phát sinh như thế nào; và hành giả hiểu biết
sự không phát sinh trở lại trong tương lai một thằng thúc đã bị dứt bỏ
là như thế nào.
Thất giác chi là niệm, trạch pháp, tinh tiến, phỉ, an, định và xả.
Mỗi khi một trong bảy yếu tố của giác ngộ này khởi phát hành giả liền
ghi nhận rồi quán trạch, khảo sát khám phá xem nó khởi phát như thế nào
và trở nên lớn mạnh như thế nào. Khi mới phát sinh giác chi niệm còn yếu
ớt.
Dần dần, nhờ công phu tu tập của hành giả, niệm trở nên vững mạnh.
Khi niệm kiên cố vững mạnh giác chi trạch pháp hoạt động, khảo sát, tìm
hiểu. Trạch pháp làm khởi dậy tinh tiến, tinh tiến đưa đến phỉ, phỉ đến
an, an đến đinh và định đưa đến xả. Toàn thể tiến trình đưa đến giác ngộ
bắt đầu bằng niệm, và niệm là năng lực hỗ trợ trên suốt con đường.
Tứ diệu đế: Nơi đây hành giả hiểu biết tùy theo thực tại, " Ðây là
Khổ", tùy theo thực tại hiểu biết, "Ðây là nguồn gốc của Khổ"; tùy theo
thực tại hiểu biết " Ðây là sự chấm dứt Ðau Khổ"; và tùy theo thực tại
hiểu biết, "Ðây là con đường để chấm dứt Ðau Khổ".
Tâm chứa đựng những tiềm năng vô cùng hùng mạnh, những xu hướng thiện
cũng như bất thiện mà khi hội đủ cơ duyên, có thể bộc phát một cách bất
ngờ, bất luận lúc nào. Chính Tinh Tiến là nỗ lực ngăn chặn và diệt trừ
ác pháp.
Tuy nhiên, cho được nỗ lực hữu hiệu, tâm phải hay biết kịp thời tư
tưởng thiện hay bất thiện sắp sửa hoặc vừa phát hiện. Ðó là nhiệm vụ của
Chính Niệm. Như tên lính canh từng phút, từng giây, từng khoảnh khắc
trong cái hiện tại vĩnh cửu, luôn luôn canh phòng nghiêm ngặt quân thù
cũng như bạn lành có thể xuất đầu lộ diện bất cứ lúc nào.
Canh phòng và phát giác ra bạn hay thù là Chính Niệm. Ngăn chặn quân
gian không cho vào thành, hay đánh đuổi những kẻ thù đã lọt được vào
thành và đàng khác, mời bạn lành vào hay cố giữ bạn trong thành là Chính
Tinh Tiến.
Ðại Ðức Khantipalo có lời khuyên nhủ như sau: "Ðiều cần thiết ở
đây là Niệm (Sati) vì nếu không có niệm thì không Giáo Pháp nào có thể
thực hành. Và trong lúc không thực hành Giáo Pháp chúng ta sẽ bị sức
mạnh của thói quen quá khứ lôi cuốn đi.
Cùng lúc ấy ái dục và vô minh tiếp tục tăng trưởng bên trong
chúng ta. Khi giữ tâm niệm ta có khả năng và phương tiện để hiểu biết
"đây là cảm giác vui thích","đây là cảm giác đau khổ", "đây là cảm giác
không đau khổ, không vui thích".
Quan sát và suy niệm như thế những thọ cảm sẽ giúp ta thấu hiểu và
hay biết lúc nào có tham, san, si liên hợp với các cảm giác ấy. Với sự
thấu hiểu và hay biết như thế ta có thể phá vỡ bánh xe sinh tử và thoát
ra khỏi vòng luân hồi.
Nhưng nếu ta không thực hành Giáo Pháp, chắc chắn những thọ cảm kia
sẽ tiếp tục dẫn dắt chúng ta đến các ái dục khác và quay cứng ta theo
bánh xe dẫy đầy đau thương, như Ngài Nagarjuna (Long Thọ ) dạy: "Ái
dục chỉ ngọt ngào ở lớp mặt, bên trong thì khô cứng, đắng cay."