1.Tại sao gọi là xuất gia
Xuất gia,
tiếng Phạn là Pravrajya, là để chỉ người theo Phật giáo, từ bỏ gia
đình, sống đời phạm hạnh, không màng danh lợi hay dục lạc, chỉ mong cầu
giải thoát; họ ở trong rừng hay những nơi thanh tịnh, xa rời đời sống
thế tục. Ở Ấn Độ thời cổ đại, cũng có những đạo sĩ Bà –la-môn tu theo
hạnh xuất gia, tuy có hình thức tương tự , nhưng chính Đức Thích Ca Mâu
Ni đã mang lại cho đời sống của người xuất gia theo đạo Phật một ý nghĩa
đầy đủ và thực tiễn hơn. Kinh Tăng Nhứt A-hàm có dạy: ”người xuống tóc
xuất gia học đạo thì phải có niềm tin kiên cố, nếu không đủ ý nghĩa như
tên gọi này thì chớ nên xưng là đệ tử của Đức Thích Ca “.
Thật vậy, sau khi xuất gia, Sa- môn Cồ-Đàm đã phát bốn lời hoằng nguyện,
đó là nguyện cứu các khổ nạn của chúng sanh, nguyện trừ các chướng hoặc
của chúng sanh, nguyện đoạn các tà kiến của chúng sanh, và nguyện độ
chúng sanh ra khỏi vòng sanh tử . Sau sáu năm tìm kiếm, Ngài xác định
con đương để thành tựu những lời hoằng nguyện ấy, được loài người tôn
xưng là bậc giải thoát, là Phật.Như thế, xuất gia theo đạo Phật không
chỉ để giải thoát cho chính mình mà còn vì lợi ích cho hết thảy mọi
loài chúng sanh. Đã làm người xuất gia thì phải luôn luôn tự kiểm điểm
mình bằng bốn lời hoằng nguyện trên.
a. Thân và tâm đều xuất gia: Xuất gia
là do mỗi cá nhân tự nguyện, không ai và cũng không quyền lực nào có thể
buộc một người xuất gia. Khi người xuất gia đã rời nhà vào ở trong chùa
thì gọi là thân xuất gia. Khi tâm ngườii đó không còn hướng ra bên
ngoài tham muốn các thú vui của năm dục, không còn màng đến danh lợi
được mất, thì đó là tâm xuất gia. Thân và tâm của một người xuất gia đã
đồng nhất, an bần lạc đạo, nên gọi là thân và tâm đều xuất gia. Đây
chính là trường hợp lý tưởng nhất đối với một hành giả và cũng là bổn
phận của người xuất gia.
b. Thân xuất gia mà tâm không xuất
gia: Đây là trường hợp những người gởi thân trong chùa nhưng tâm của họ
vẫn còn vọng tưởng, chạy đuổi theo cái vui của năm dục. Ngườii như vậy
chỉ xuất gia vì cuộc sống hưởng lạc, vì tiếng thơm để người khác ngưỡng
mộ. Đức Phật đã cho biết, vào thời mạn pháp thường thấy nhiều hạng
người xuất gia như vậy.
c. Tâm xuất gia mà thân không xuất
gia: Đây là hình thức xuất gia của các bậc thánh hay các vị Bồ-tát.Những
vị này hoặc vì sợ lộ hình tướng khiến chúng sanh ngưỡng mộ mà trở nên
mê tín, hoặc vì họ không còn chấp vào hình tướng mà chỉ chú trọng vào
việc tu hành thực tiễn. Thân của họ không cần ở chùa, nhưng tâm của họ
không còn ham thích các thú vui của năm dục và cũng không màng danh lợi.
Hình thức này rất đặc biệt, người phàm phu không thể thực hành được, vì
vậy không thể làm mô phạm cho người xuất gia thông thường.
Ở đây chỉ đề cập đến hình thức xuất gia lý tưởng nhất, đó là hình thức thứ nhất, thân và tâm đều xuất gia.
2. Xuất gia là trực tiếp đối mặt với sinh tử luân hồi
Cái mà chúng ta gọi là” nhà”t hì các
bậc thánh gọi đó là lao ngục rang buộc. Kinh Niết-bàn có dạy: ” sống
trong nhà thì bị bức bách rang buộc như lao tù, nó là nhân phát sinh ra
các loại phiền lão. Người ra khỏi nhà thì thoải mái như hư không, nó là
nhân làm tăng trưởng tất cả các thiện pháp”.Sự thể hiện rất rõ của việc
xuất gia là việc từ bỏ đời sống trong ngôi nhà;cạo bỏ râu tóc,mặc áo cà
sa, dùng tâm thành kính mà thọ trì giới luật Đức Phật đã chế.Nhưng đây
chỉ mới là nghĩa đen, còn nghĩa bong của nó là nhờ vào việc thành kính
thọ trì giới luật của Đức Phật mà có thể ra khỏi ngôi nhà phiền não, ra
khỏi ngôi nhà năm uẩn, ra khỏi ngôi nhà ba cõi, được giải thoát khỏi
sanh tử luân hồi, chứng đắc giác ngộ; như thế mới gọi là xuất gia đúng
nghĩa.
Dựa vào nhân xuất gia mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và ba đời chư Phật đều
đã chứng thành Phật quả. Kinh Hoa Nghiêm dạy:”Người đời thường không
hiểu biết gì về pháp của người xuất gia, chỉ ham thích cái vui rồi rơi
vào sanh tử mà không biết cầu mong thoát khỏi. Còn Bồ-tát thì xả bỏ hết
thảy thành quách tài sản, làm người xuất gia cầu mong giác ngộ”.Như vậy,
xuất gia không phải là việc làm tiêu cực; mà ngược lại, đó chính là
việc trực tiếp đối mặt với sanh tử luân hồi, tìm ra con đường giải
thoát, gánh vác một sứ mệnh cao cả tự độ và độ tha, lợi lạc hữu tình
không bao giờ mệt mỏi.
3. Xuất gia là tích cực đối diện với cuộc đời
Xuất gia là ra khỏi sự ràng buộc của
đời sống gia đình. Xưa kia, khi còn thị hiện làm Thái tử Tất-đạt –đa,
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thấy được cái khổ sanh già bệnh chết của
cuộc đời; thế rồi Ngài quyết tâm từ bỏ ngai vàng điện ngọc, vợ đẹp con
thơ để xuất gia tìm cầu chân lý. Trải qua biết bao khổ hạnh để theo đuổi
tất cả những phương pháp tu tập đương thời mà không kết quả, cuối cùng
Ngài tự mình xác định một con đường của mình và chứng đắc giác ngộ vô
thượng.
Như vậy, xuất gia không phải là một việc dễ làm, càng không đơn giản để
cả thân lẫn tâm đều cảm nhận được pháp lạc; cho nên, xuất gia là việc
khó, phải trải qua nhiều công đoạn tu tập thực hành mới thành tựu được;
là việc làm của bậc xuất trần thượng sĩ, không phải người có quyền uy
hoặc giàu có là có thể làm được.
Xuất gia là
ra khỏi ngôi nhà đang bốc cháy của ba cõi, là ra khỏi ngôi nhà luân
hồi sanh tử; muốn làm được điều này người xuất gia cần phải chuẩn bị cho
mình một chí nguyện vững chãi, một tấm lòng thành kính để trau dồi
phước huệ, nâng cao tính thiện trong con người; tinh tấn thực hành từ bi
và hỷ xả để bước vào cảnh giới giác ngộ viên mãn.
|
Ảnh minh họa |
Người xuất gia phải tự mình tháo gỡ rang buộc, dần dần thoát ly
biển khổ, xả bỏ lợi danh cám dỗ, chỉ một lòng tầm cầu chân lý giải
thoát tối thượng. Xuất gia là việc làm siêu trần thoát tục, luôn luôn
phải tỉnh thức nội tâm, tham học cầu tiến, giải trừ cho được cái khổ
sanh già bệnh chết, tiêu trừ cho được mê hoặc, thăng cao quả vị chứng
đắc.Làm được như thế thì việc xuất gia mới tích cực đối diện với cuộc
đời.
Người xuất gia phải luôn tâm niệm rằng xuất gia là để vượt ra khỏi ngôi
nhà phiền não sanh tử, ra khỏi ngôi nhà tà tri tà kiến, ra khỏi ngôi nhà
tự tư tự lợi, để rồi hoàn thiện nhân cách, liễu ngộ cuộc đời tạm bợ vô
thường, lợi lạc quần sanh. Bài kệ Thế phát(Xuống tóc) viết:”Cạo bỏ râu
tóc, nên nguyện chúng sanh, xa rời phiền não, liền đắc tịch tịnh”. Kinh
Phước Điền trong Tỳ- ni Nhật dụng Thiết yếu cũng nói về năm đức tính của
một người xuất gia:” một là phát tâm xuất gia, vì cảm bội Phật pháp;
hai là hủy bỏ hình đẹp, vì thích ứng pháp y; ba là cát ái từ thân, vì
không còn thân sơ; bốn là không kể thân mạng, vì tôn sung Phật pháp; năm
là chí cầu đại thừa, vì hóa độ mọi người”.
Nhiều người sai lầm khi cho rằng chùa
chiền là nơi trốn tránh trách nhiệm xã hội hoặc vào chùa thì liền được
thanh tịnh giải thoát. Nghĩ như vậy thì quá ư nông nổi. Vào chùa, ngoài
công việc bửa củi gánh nước, tụng kinh niệm Phật hàng ngày, người xuất
gia còn phải biết tự câu thúc từng hành vi cử chỉ, từng lời ăn tiếng
nói, trì nghiêm ngặt các nguyên tắc của thiền môn. Nếu người không đủ
phước báo, thiếu quyết tâm hạ thủ công phu, hoặc không đủ thời gian tu
tập và rèn luyện ngay từ đầu thì sẽ dễ dàng thất bại. Khi đó còn nói chi
đến chuyện ngồi thiền, tĩnh tọa, kinh hành, nghiên cứu giáo nghĩa,
thông thạo kinh điển, thuyết giảng độ sanh. Hoặc có người cho rằng vào
chùa là trốn tránh được sự đời, có ngờ đâu trong tâm còn phiền não thì
dù ở chùa, phiền não lại càng tăng them.
Một lời cảnh báo cho thấy” khi chưa khoác áo cà sa rồi thì chuyện càng
nhiều”.Thật ra đây là một bài học hai mặt, khi tâm tịnh thì thế giới
tịnh và khi tâm an thì thế giới an. Khi cái thấy biết của mình đã không
đúng thì tâm làm sao mà tịnh; đức hạnh tu tập chưa thuần thì thân làm
sao mà an. Nếu không hiểu giáo lý thì cho dù có xuất gia đi chăng nữa
tâm cũng không thể nào thanh tịnh; đó mới chỉ là hình thức thân xuất
gia mà tâm không xuất gia. Mặt khác, xuất gia là một chí nguyện, như
người lập chí cho sự nghiệp của mình mà ra sức và tập trung học hỏi trau
dồi. Việc xuất gia mang ý nghĩa tiếp tục gánh vác trọng trách của Đức
Phật, nối tiếp dòng thánh, duy trì huệ mạng. Muốn được như vậy thì
người xuất gia phải phát tâm dũng mãnh, trên cầu Phật đạo dưới cứu chúng
sanh, giúp chúng sanh rời khổ được vui, chứng ngộ chân lý, giải thoát
sanh tử luân hồi.
4. Xuất gia là đại báo hiếu
Nếu bảo rằng chữ hiếu của đời thường
là hiếu thuận cha mẹ, phụng dưỡng cha mẹ thì đạo hiếu của người xuất gia
còn hơn thế, vì xuất gia là một nghĩa cử cao đẹp hơn cả, chứ không như
mọi người vẫn tưởng rằng xuất gia là đoạn tuyệt thân bằng quyến thuộc.
Thật ra, Đức Phật dạy chúng ta đoạn có nghĩa là đoạn trừ chấp trước hoặc
chấp thủ, nghĩa là không khởi vọng niệm về chấp thủ tình cảm, chứ
không phải là đoạn trừ thâm ân cha mẹ; thay vào đó, người xuất gia đem
cái tình cảm bình thường thăng hoa thành đại từ đại bi. Nếu đoạn trừ
theo cách nghĩ thông thường thì thành pháp tiêu diệt thì tu hành không
có ích gì, như cây khô thì không còn ý nghĩa.
Đức Phật dạy chúng ta phải tôn trọng
hết thảy chúng sinh,cảm ơn hết thảy chúng sinh, lấy sự tu tập giải thoát
mà báo đáp thâm ân cha mẹ. Sau khi Đức Phật thành đạo. Ngài trở về
thành Ca-tỳ-la-vệ báo hiếu cho cha mẹ kế. Khi vua cha lâm bệnh thì ngài
nói cho vua cha nghe Phật pháp, đến lúc vua cha lâm chung thì Ngài tự
vai mình gánh thi hài vua cha đi mai táng.Tăng sĩ Phật giáo báo đáp thâm
âncha mẹ bằng cách dùng năng lực cầu nguyện và hướng dẫn cha mẹ đi theo
Chánh đạo, làm lành lánh dữ, tạo phước tích đức. Chỉ có người không
hiểu đạo lý mới nghĩ là Phật giáo không tôn trọng đạo hiếu. Trong Phật
giáo nhấn mạnh”tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật”, người xuất
gia luôn lấy từ bi làm bản hoài, phát Bồ-đề tâm, hành Bồ- tát-hạnh, lợi
mình lợi người, cứu độ chúng sanh, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ
muôn loài, thương yêu cả những côn trùng nhỏ bé. Người xuất gia dùng
năng lực tu hành của mình để báo hiếu, nếu cha mẹ khó khăn, giới luật
của Phật giáo cũng cho phép cúng dường cha mẹ, thậm chí có thể đem cha
mẹ vào chùa để phụng dưỡng. Chúng ta nhiều kiếp luân hồi trong lục đạo
thì cũng có rất nhiều cha mẹ, nếu kiếp này được may mắn xuất gia thì
phải tinh tấn tu hành, hóa độ chúng sanh hữu duyên, trợ duyên hồi hướng
cho cha mẹ nhiều đời.
Người xuất gia phải biết cầu tiến,
vượt ra khỏi ba cõi, dùng trí huệ liễu ngộ của mình mà phục vụ chúng
sanh, làm cho chúng sanh được lợi ích thiết thực, từ vô minh mà đi vào
giác ngộ. Dùng Phật pháp để hướng dẫn chúng sanh, lấy Lục độ để giáo hóa
muôn loài; do đó, người xuất gia trước hết phải vì lợi ích cho chúng
sanh, thành tựu Phật đạo, chỉ như thế mới là một người xuất gia chân
chánh, không trốn tránh cuộc đời, không rời thế gian.