Từ
khi đức Phật xác lập: “
Mọi vật đều vô thường,
mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả
với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không). Trong những
lời dạy của Ngài, thì sau đó, giữa các nhà Tiểu thừa
và Đại thừa có sự tranh luận sôi nổi gay gắt về vấn
đề này và ngày càng thêm quyết liệt hơn trong cung cách chấp
nhận và giải thích theo quan điểm của mỗi bộ phái. Các
nhà Tiểu thừa chỉ chấp nhận và bằng lòng với lối giải
thích giản dị là: “Vì thế giới không có tự ngã và những
sở hữu của ngã nên được gọi là Sùnya” (yasmà ca sunnam
attena va atteniyena va tasmà sunno loko ti vuccati). Từ quan điểm
ấy, các nhà Tiểu thừa chỉ chấp nhận dành Sùnya cho các
pháp hữu vi và đặc biệt là Nhơn không (Pudgala sùnyatà) mà
thôi. Trong khi đó, các nhà Đại thừa, đặc biệt là các
nhà Madhyamikàs (Trung quán), không dừng lại nơi đây, ngược
lại còn tiến xa triệt để hơn trong cách giải thích của
mình về Sarvam sùnyam. Theo các nhà này, thì Sùnyatà không những
chỉ dành riêng áp dụng cho các pháp hữu vi, mà ngay đến
các pháp vô vi cũng được áp dụng một cách triệt để như
quan niệm về Niết bàn (Nirvana), Như Lai (Tathàgata) hay bất
cứ một khái niệm nào khác. Chính những quan niệm triệt
để này đã làm lung lay tận nền tảng tri thức của các
nhà Tiểu thừa về những quan niệm mà họ đã thủ đắc
được từ những lời dạy của đức Phật về Tứ đế (àryasatyas),
lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàda) cùng tất cả những giáo
lý khác. Từ những hụt hẫng này, các nhà Tiểu thừa đã
phản bác lại bằng những nạn vấn sắc bén. Mà theo đó,
những nạn vấn này, chúng vừa củng cố cho lập trường
hữu lý của họ, vừa đánh đổ những phi lý của các nhà
Đại thừa và Trung quán đã phạm phải, theo quan điểm và
lập trường của họ. Ở đây, chúng tôi sẽ trình bày những
nạn vấn này, cùng những quan điểm của Bồ tát Long Thọ
(Nàgàrjuna) về Tứ Đế.
Theo
quan
điểm và lập trường của các nhà Tiểu thừa thì: Nếu
tất cả thế gian đều không, không có sở hữu thì sẽ không
có hiện tượng sanh diệt. Khi đã không có hiện tượng sanh
diệt hiện hữu, thì tất cả mọi hiện tượng theo đó không
hiện hữu và ngay đến cả nhân quả Tứ đế: “Thấy khổ,
đoạn tập, chứng diệt và tu đạo” cũng không luôn. Do đó
pháp bảo cũng không có. Từ không này dẫn đến Bốn quả
Sa môn, Bốn hướng, Bốn đắc cũng không. Từ đó Bát hiền
thánh cũng không hiện hữu. Khi Bát hiền thánh đã không hiện
hữu thì không có Tăng bảo. Tóm lại, nếu Pháp bảo đã không,
Tăng bảo đã không thì làm gì có Phật bảo? Do đó ngài đã
phá hoại Tam bảo. Không những chỉ phá hoại Tam bảo thôi
mà còn phá hoại luôn cả nhân quả tội phước cùng tất
cả các pháp đang hiện hữu trên thế gian này. Từ những
phân tích trên cho thấy các ngài đã quá sai lầm trong nhận
thức về các pháp. Ở đây, các pháp chỉ thực hữu chứ
không phải không thực hữu như các ngài đã quan niệm.
Để
trả lời những nạn vấn này, ngài Long Thọ thấy rằng đối
phương đã không nắm được ý nghĩa Không (Sùnyatà), tướng
Không cùng nhân duyên Không, nên có những tưởng tượng sai
lầm về chúng. Do đó, trước hết, ngài muốn vạch ra những
sai lầm của đối phương về Sùnyatà:
- Sùnyatà
không phải là Nàsstitva (Đoạn diệt) cũng không phải là Abhàva
(khiếm diện một cái gì) như họ tưởng, mà Sùnyatà cần
phải nhận thấy qua các đặc tướng trong việc giải thích
nó.
- Sùnyatà
là Aparapratyaya (không thể dạy cho người khác) chỉ có tự
mình chứng ngộ nội tâm, không thể nghe người khác giảng
dạy mà hiểu được.
- Sùnyatà
là Sànta (an tịnh), không bị sinh diệt chi phối.
- Sùnyatà
là Prapancairaprapancitam (không thể nghĩ bàn).
- Sùnyatà
là Nivirkalpa (không thể giải ngộ), vượt ngoài vọng tưởng.
- Sùnyatà
là Anànàrtha (không có nhiều nghĩa khác nhau). Ngài tiếp tục
giải thích Sùnyatà là Prtìtyasamutpada (duyên khởi).
Sẽ
không có bất cứ giá trị tương đối nào thực hữu tồn
tại về một thế giới mà ở đó, mọi vật được coi như
là thật hiện hữu, mà chúng chỉ là một giả định về
mặt hiện tướng khi duyên hợp đủ, để nói lên cái hiệu
quả bất toàn cho cái duyên biến đủ theo sau chúng. Đó chính
là cái Tánh Không (sùnyatà) của các pháp được soi sáng bởi
cái nhìn sâu, thâm hiểu qua mọi sự kiện, mà qua đó, chúng
không có một sự kiện sai khác nào giữa sanh tử và Niết
bàn. Thế giới chỉ hiện hữu tương đối giả tạm, nhưng
chúng sẽ trở thành hình như thật có đối với một tâm
hồn mê mờ. Do đó, cần phải đập tan mọi quan niệm sai
lầm về một thế gian chân thật ở bên ngoài thế gian này,
theo quan điểm của các nhà Tiểu thừa. Theo đó, họ sẽ loại
bỏ Tục đế (sanh tử) để chứng Chân đế (Đệ nhất nghĩa
hay Niết bàn). Nghĩa là các vị ấy đi từ trạng thái thế
gian (laukika) đến trạng thái xuất thế gian (lokuttara).
Vì
tất cả những quan niệm sai lầm như trên, nên đã dẫn các
nhà Tiểu thừa đến một thứ cực đoan không thể chấp nhận
được, trong việc cố biến giáo lý Tứ đế và lý Duyên
khởi thành mô? thứ chân lý thực hữu thuộc về Đệ nhất
nghĩa đế (Paramattha) chứ không phải Tục đế (Samvrti), và
cứ ôm chặt vào đó, cho là một thứ cứu cánh thực hữu
cần phải đạt đến. Cho nên họ đã hiểu một cách sai lạc
về quan điểm Sarvam sùnyam chính đức Phật nói ra. Từ đó,
họ đẻ ra những nạn vấn mà chính họ sẽ tự hại họ
trong cuộc thử thách này.
Tiếp
đến, ngài Long Thọ muốn làm sáng tỏ lập trường của mình
về Dharmasùnyatà qua nạn vấn này. Trước hết, ngài không
phủ nhận Nhị đế mặc dù ngài đã liệt nó vào hàng Tục
đế trên phương diện mê. Song không thể không chấp nhận
giáo lý này trên cái nhìn của bậc Thánh, vì giữa sanh tử
và Niết bàn không có sự sai khác. Vì khi mê Nó là tục, khi
ngộ Nó là chơn; chỉ khác nhau ở chỗ mê nó và ngộ nó,
như bài kệ ngài viết:
Nếu
chẳng y vào Tục đế
Chẳng
được
Đệ nhất nghĩa
Không
được
Đệ nhất nghĩa
Thời
không
đạt được Niết bàn.
Ở
đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục
đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì
chính ba cái sai biệt đó không khác nhau. Vì những lý do đó
cho nên ngài Long Thọ không phủ nhận giáo lý Nhị đế trong
quan điểm của mình, và chỉ coi nó như là một phương tiện
cần cho giai đoạn chuyển mê khai ngộ. Theo ngài, nếu không
nhờ những ngôn thuyết của Tục đế thời Đệ nhất nghĩa
không nói được, và nếu không đạt được Đệ nhất nghĩa
thì làm sao chúng ta có thể đạt được Niết bàn? Vì vậy,
nó được coi như là một phương tiện chuyên chở cho sự
thành công của một cứu cánh. Nhưng khi cứu cánh đã đạt
được, và nó nhìn lại chính nó, thì chính nó là phương
tiện chứ không gì khác. Từ những lập luận này cho chúng
ta thấy rằng: quan điểm Sùnyatà của ngài Long Thọ không
phủ nhận giáo lý Nhị đế.
Cũng
đứng trên lập trường này, ngài cảnh cáo các nhà Tiểu
thừa rằng: Nếu hiểu Sùnyatà sai lầm như những nạn vấn
trên thì chính mình tự hại mình. Bởi vì cái nghĩa Không
này, nó quyết định sự thành tựu của các pháp thế gian
và xuất thế gian. Ngược lại, nếu không có nó, thì các
pháp thế gian bất thành. Theo pháp Thực-Hữu của các nhà
Tiểu thừa thì chúng đối lập với cái Không Thực Hữu của
các pháp. Nhưng Sùnyatà không phải là cái Không Thực Hữu
như các nhà Tiểu thừa quan niệm. Do đó, Sùnyatà này, nó
vượt ra khỏi quan niệm có-không của Tiểu thừa và nhờ
vậy mà nó quyết định được sự thành bại của các pháp.
Ngược lại, chính các pháp Hữu, theo quan niệm của các nhà
Tiểu thừa, là pháp sai lầm, rơi vào thường kiến. Nó sẽ
trở thành kẻ phá hoại Tam bảo qua sự soi sáng của Sùnyatà.
Ở đây, chúng ta sẽ thấy một cách rõ ràng hơn, những phản
bác mà ngài Long Thọ đã dùng phương pháp “Gậy ông đập
lưng ông”, do chính các nhà Tiểu thừa đập lại chính họ,
sau khi ngài đã chỉ rõ những hiểu biết sai lầm về Sùnyatà
mà cho là cái đoạn diệt, cái không thực hữu, trong khi Sùnyatà
không can hệ gì tới chúng cả.
Ngài
Long Thọ bảo: nếu các nhà Tiểu thừa bảo rằng tất cả
các pháp trong đó kể cả Tứ thánh đế, tự chúng đã có
thực hữu định tánh của nó, thì các pháp này không nhân,
không duyên. Chỉ vì tánh kiên trì của nó cho nên chúng sẽ
không sanh diệt. Như vậy, rõ ràng sự thành tựu của các
pháp đâu cần đến nhân duyên? Nhưng trong thực tế, các pháp
từ duyên sanh và chúng diệt đi cũng từ duyên diệt. Vậy,
nếu bảo các pháp đã có sẵn định tánh nơi tự tánh của
chúng thì điều này hoàn toàn không đúng. Vì nếu đã có
tánh quyết định nơi tự tánh của chúng rồi, thì theo đó
nhân quả cũng sẽ bị phá luôn, vì không nhân thì làm gì
có quả theo sau đó để thể hiện cái tướng vô thường
của các pháp. Đằng này, các pháp như ngài Long Thọ nói:
Các
nhân duyên sanh pháp
Ta
nói
tức là không
Đó
cũng
là giả danh
Cũng
là
nghĩa Trung đạo
Chưa
từng
có một pháp
Chẳng
từ
nhân duyên sanh
Cho
nên
tất cả pháp
Không
phải
chẳng là không.
Ở
đây, chúng ta thấy mọi sự hiện hữu của mọi sự vật
luôn luôn tùy thuộc vào các duyên. Do đó, chúng không có tự
tánh, chỉ vì muốn hướng dẩn chúng sanh nên phải dùng giả
danh để nói. Không ở đây xa lìa, không lệ thuộc vào có-không
như các nhà Tiểu thừa đã tự hiểu, nên chúng được gọi
là Trung đạo. Vì pháp này không có tánh nên không được
bảo là có, cũng không có không, nên không được bảo là
không. Nếu pháp tự nó đã có tánh tướng thì dứt khoát
không cần lệ thuộc vào các duyên mà hiện hữu. Nhưng ở
đây, nếu muốn có pháp mà không nhờ các duyên thì điều
đó sẽ không xảy ra. Do đó, có-không của các vị không phải
là pháp Không (Dharmasùnyatà) của đức Phật.
Ngài
Long Thọ lập luận tiếp: Như trên, các vị bảo rằng quan
điểm về Dharmasùnyatà của chúng tôi có những lỗi như vậy.
Nhưng rõ ràng, cái lỗi sai lầm đó, chính các vị vấp phải
chứ không phải chúng tôi. Vì sao? Vì nếu bảo rằng tất
cả các pháp vốn tự chúng đã có tánh, chẳng phải không
tánh thì sẽ rơi vào không sanh diệt. Nhưng nếu mà không sanh
diệt thì sẽ không có Tứ thánh đế. Tại sao vậy? Vì Dukkha
(khổ) không từ duyên sanh nên sẽ không có khổ. Nhưng theo
kinh thì “Vô thường là khổ”. Vậy khổ đã có định tánh
của riêng nó rồi thì làm gì có vô thường, vì chúng không
bỏ tự tánh riêng của chúng.
Lại
nữa, nếu Dukkha đã có định tánh rồi thì không cần phải
sanh trở lại, vì trước đó đã có Dukkha rồi cần gì phải
từ Tập sanh ra. Do đó không có Samudaya (Tập đế). Mặc khác,
nếu Dukkha đã có định tánh của nó rồi thì cũng chẳng
cần Nirodha (Diệt), vì tánh Dukkha đã định rồi nên không
thể mất được.
Lại
nữa, pháp nếu đã định có thì sẽ không có tu Đạo (magga),
vì nếu là thật pháp thì phải là thường hằng. Nhưng đã
thường hằng rồi thì không tăng không giảm, đã không tăng
không giảm thì cần gì phải tu đạo? Đạo, nếu đã tu được
thì không có định tánh. Do đó, khi trước đó, các pháp đã
quyết định có tánh của chúng rồi thì không thể có Khổ
đế -Tập đế -Diệt đế. Vậy thì con đường diệt khổ
hiện tại nên đi đến chỗ nào để diệt khổ ?
Lại
nữa, nếu Dukkha đã là định tánh, mà trước khi chưa làm
phàm phu chưa thấy chúng, thì trong hiện tại vẫn không thể
thấy được, và trong cả tương lai nữa. Vấn đề đoạn
Tập, chứng Diệt và tu Đạo cũng như vậy. Nếu từ trước
đến nay chẳng đoạn, chẳng chứng, chẳng tu thì trong hiện
tại cũng chẳng đoạn, chẳng chứng, chẳng tu; vì từ trước
tới nay chưa từng đoạn, chưa từng chứng, chưa từng tu.
Cho nên bốn hành trong Tứ thánh đế, tất cả đều không
hiện hữu. Khi bốn hành đã không hiện hữu thì bốn đạo
quả cũng không luôn, vì định tánh của các pháp cho nên từ
trước đến nay chưa đạt được, và trong hiện tại cũng
thế. Ngược lại, điều này có thể xảy ra, với điều kiện
tánh của chúng không định thì khả dĩ đạt được. Nhưng
điều này sẽ không xảy ra với quan điểm của các nhà Tiểu
thừa đối với các pháp. Do đó, cái hậu quả tất yếu sẽ
xảy ra theo đó đối với vấn đề đạt Hướng, Bát hiền
thánh, Tăng bảo, Pháp bảo cho đến Phật bảo. Tất cả đều
bị phá, đều bị đẩy lùi vào trong đoạn diệt, không hiện
hữu như chính quan điểm của các nhà Tiểu thừa đã hiểu
về Dharmasùnyam, mà các vị đó đã gán cho các nhà Đại thừa
và Trung quán chủ trương, để đối nghịch lại cái Hữu
của họ.
Ở
đây, dù là hữu hay là vô mà hiểu theo các nhà Tiểu thừa
cũng rơi vào hai bên, chấp thủ thiên kiến. Nếu hiểu theo
cách mà quan điểm các nhà Tiểu thừa về hữu và vô như
vậy, thì cho dù chúng ta có nổ lực siêng năng tu hành để
đạt được quả vị Phật, sẽ không thể nào thực hiện
được. Bởi vì muốn đạt được quả vị Phật phải thực
hành Tứ thánh đế. Nhưng nếu thực hành theo đường lối
của các nhà Tiểu thừa, như những phân tích trên của ngài
Long Thọ thì làm sao đạt được? Đó là những quan điểm
mà ngài Long Thọ đưa ra để phản bác lại những lập luận
rơi vào tà kiến của các nhà Tiểu thừa. Chính lối dùng
“Gậy ông đập lưng ông” này đã đưa các nhà Tiểu thừa
vào tuyệt lộ.
Và
sau đây là những vấn nạn cuối cùng về Tứ đế của các
nhà Tiểu thừa đưa ra, sau khi họ đã được nghe giải thích
về Dharmasùnyatà sai lầm theo quan điểm chính họ:
Ngài
tuy đã phá các pháp, nhưng cứu cánh của con đường đi đến
A-nậu đa-la tam-miệu tam-bồ-đề (Anuttarasamyuak-Sambodhi) buộc
phải có. Nhân vào con đường này để gọi là Phật?
Ngài
Long Thọ cũng đứng trên lập trường Pháp-Hữu của chính
họ để trả lời câu hỏi này. Ngài bảo: Theo như các vị,
thì các pháp đã có định tánh rồi, cần gì phải nhân nơi
Bồ đề để có Phật; hay ngược lại, nhân nơi Phật đạo
để có Bồ đề, vì hai định tánh này là hai định tánh
của riêng chính nó. Cho dù chúng ta có nổ lực tinh cần tu
hành đến muôn kiếp đi nữa, mà trước kia chúng ta không
có tánh Phật, thì làm sao hiện tại có thể thành Phật được?
Cũng như thiếc không có tánh vàng, dù dùng đủ mọi cách
để rèn dũa nung đúc, cuối cùng cũng không thành vàng.
Lại
nữa, nếu các pháp đã có định tánh mà không phải không,
thì rốt cùng cũng không có người tạo ra tội phước, vì
tánh tội phước đã quyết định trước rồi, kể cả hành
động tạo tác và người tạo tác cũng không. Do đó, dù chúng
ta có ở trong nhân duyên tội phước mà vẫn không có quả
báo, và quả báo có thể có được khi lìa xa nhân duyên tội
phước đi nữa, thì quả báo vẫn không cần đợi có nhân
mới xuất hiện.
Lại
nữa, lìa tội phước có thể không có quả báo thiện ác,
nhưng từ tội phước thì có quả báo thiện ác?
Để
trả lời nạn vấn này, ngài Long Thọ bảo dù có lìa tội
phước hay không lìa tội phước, có quả báo hay không có
quả báo, thì tất cả đều rơi vào lỗi có-không như đã
nói ở trước.
Lại
nữa, nếu các nhà Tiểu thừa vì không nắm bắt được nghĩa
Không và nhân duyên của nó nên có những quan điểm sai lầm
như vậy, thì đã vô tình phá Đệ nhất nghĩa Không. Đệ
nhất nghĩa Không mà bị phá, tức là phá tất cả pháp thế
tục.
Hơn
nữa, nếu chúng ta quan niệm tất cả các pháp-hữu đều có
định tánh của chúng, thì theo đó, các hiện tướng có được
trên thế gian này đều không thể sanh ra và không thể diệt
mất, mà chúng phải luôn luôn thường trụ, vĩnh viễn không
biến mất. Vì chúng đã có thật tánh của chúng rồi, nên
không thể biến khác được. Nhưng muôn vật giữa thế gian
này, hiện bày ra trước mắt chúng ta, luôn luôn ở trong chiều
hướng sanh diệt, biến dịch trong từng sát na một, trong từng
hơi thở. Những hiện tướng này luôn tùy thuộc vào các duyên
hợp-biến mà hiện khởi. Vì vậy, chúng không có định tánh.
Nếu chúng đã có định tánh thì như chúng ta đã biết: một
là thường, hai là đoạn diệt. Do vậy, nếu không có cái
KHÔNG (Sùnyatà) thì những việc này có thể xảy ra đối với
chúng ta: chưa được không cần được phiền não cũng không
đoạn - việc khổ cũng không hết.
Để
kết luận phẩm Tứ đế này, ngài Long Thọ đã dẫn lời
dạy của đức Phật trong kinh:
Cho
nên trong kinh nói
Nếu
thấy
pháp nhân duyên
Thời
có
thể thấy Phật
Thấy
Khổ
-Tập -Diệt -Đạo.
Ở
đây, nếu người nào thấy tất cả pháp từ các duyên sanh
ra, thì người này có thể thấy được pháp thân của đức
Phật, tăng trưởng trí tuệ đạt mọi lợi ích, và có thể
thấy được Khổ-Tập-Diệt-Đạo của Tứ thánh đế. Vì
thấy được Tứ thánh đế cho nên đạt được Tứ quả,
diệt trừ tất cả mọi phiền não. Bởi vậy, chúng ta cần
phải thấu đạt nghĩa KHÔNG này, nếu không sẽ đi vào con
đường vô minh tà kiến như các nhà Tiểu thừa vấp phải.
Ai phá nghĩa KHÔNG tức là phá pháp nhân duyên, phá pháp nhân
duyên tức là phá Tam bảo. Nếu phá Tam bảo tức là chính
mình tự phá mình.