Tư tưởng chân chính bắt nguồn từ sự hiểu biết chân chính và
dẫn đến hành động chân chính. Người hiểu biết chân chính (Chính Kiến) ắt
suy tư chân chính (Chính Tư Duy).
Ðàng khác, người suy tư chân chính ắt cũng hiểu biết chân chính. Một
tri kiến thâm diệu về bản chất thật sự của kiếp sinh tồn được hoàn mãn
thành tựu nhờ suy tư sâu sắc và quán trạch tận tường sẽ đưa đến giá trị
tinh thần đạo đức hướng dẫn tâm đến hành động chân chính, tương xứng với
tri kiến.
Như vậy, hai chi đầu của Bát Chính Ðạo - Chính Kiến và Chính Tư Duy -
liên quan với nhau mặt thiết và ảnh hưởng với nhau rất chặt chẽ. Hai
chi này hợp thành giai đoạn "Tuệ" của Con Ðường Giải Thoát. Chính Tư Duy
nằm khoảng giữa và làm gạch nối liền, một bên là Chính Kiến và bên kia
là bộ ba Chính Ngữ, Chính Nghiệp, Chính Mạng.
Di hiểu biết chân chính phát sinh những tư tưởng chân chính, dẫn dến
hành động chân chính biểu hiện bằng lời nói chân chính, tạo nghiệp chân
chính và nuôi mạng chân chính. Ðiều này cho ta thấy rằng Chính Tư Duy
không phải chỉ là suy tư suông mà là suy tư bắt nguồn từ hiểu biết chân
chính và đưa đến hành động chân chính.
Chính Tư Duy, là có những tư tưởng chân chính, mà cũng có nghiã là
quyết định chân chính, tức có:
1. Những tư tưởng khước từ, buông bỏ, không luyến ái.
2. Những tư tưởng không thù hận và
3. Những tư tưởng không hung bạo.
Tư Tưởng khước từ
Luyến ái là một hình thức ái dục, mà ái dục là nguyên nhân sinh khổ.
Do đó, loại suy tư chân chính đầu tiên là không luyến ái mà buông bỏ,
khước từ. Danh từ Pali mà Ðức Phật dùng ở đây là nekkhama, Xuất gia, có
nghiã là khước từ những lạc thú trần gian để chọn lấy đời tu sĩ.
Dĩ nhiên, nhận thức rằng xa hoa vật chất là ảo huyền và thú vui vật
chất không tạo hạnh phúc thật sự vũng bền rồi tự nguyện lià bỏ tất cả sự
nghiệp trên đời để khoác tấm y vàng, làm người không nhà cửa, không của
tiền, không gia đình, tự ý cam khổ, nghèo nàn, đơn giản, để cố gắng
sống hoàn toàn trong sạch là hình thức khước từ cao thượng nhất.
Tuy nhiên, Ðức Phật không bao giờ khuyên dạy tất cả mọi người đều nên
ly gia cắt ái. Ngài chỉ dạy rằng dầu xuất gia hay cư sĩ, chúng ta nên
thận trọng nhận thức mối nguy hại của nhục dục ngũ trần mà Ngài ví như
cục xương khô, như ngọn đuốc mà ta cầm đi ngược chiều giáo, như một hầm
than đỏ, như một giấc mơ, như vật vay mượn v.v... Ngài dạy:
"Này chư Tỳ Khưu, thú vui của nhục dục ngũ trần quả thật là tạm
bợ, vô thường, là trống rỗng, là giả tạo, là không thực..."
Có những tư tưởng buông bỏ, từ khước những dục vọng trần tục, không
luyến ái vị kỷ vào tài sản sự nghiệp, xa lánh cuộc đời phồn hoa đô hội
và khoái lạc vật chất, không triù mến, luyến ái cái "Ta" , không bám
chặt, đeo niú đời sống, là loại Chính Tư Duy đầu tiên.
Ðức Phật mô tả giáo lý của Ngài là con đường ngược chiều với thời
gian.
"Chắc như vậy, con đường dẫn đến lợi lộc của trần gian là một, và
con đường dẫn đến Niết Bàn là con đường khác. Thông hiểu như vậy, thầy
Tỳ Khưu đệ tử Phật không nên thỏa thích trong mùi danh bả lợi của thế
gian mà phải trau giồi hạnh buông bỏ." (Kinh Pháp Cú , câu 75)
Con đường của thế gian là con đường tham ái, dục vọng. Con người thế
gian đi dài, thuận chiều theo con đường ấy, mưu tìm hạnh phúc trong sự
thỏa mãn tham dục của mình. Giáo Huấn Buông Bỏ mà Ðức Thế Tôn ban truyền
kháng cưỡng chống lại sức lôi cuốn như thác lũ của tham vọng, đi dần
đến mức chấm dứt ái dục và tìm hạnh phúc, không phải trong sự thỏa mãn,
mà trong sự dứt bỏ, từ khước ái dục.
Dầu là bậc xuất gia hay hành tại gia cư sĩ, nguyên tắc chỉ đạo chính
yếu vẫn được ghi nhận là phải hoàn toàn tận diệt mọi hình thức ái dục
mới có thể thành tựu giải thoát trọn vẹn. Từng bước một càng xa lià ái
dục là càng đến gần giải thoát.
Biết rằng ái dục là nguồn cội phát sinh đau khổ và biết rằng chấm dứt
hay giảm suy đau khổ đến mức độ nào là tùy thuộc ở sự chấm dứt hay mức
độ giảm suy ái dục, người Phật Tử thuần thành cố gắng phát triển tâm
buông bỏ.
Nhưng chính tại điểm này ta gặp phải sức kháng cự mạnh mẽ từ bên
trong. Từ lâu, tâm chúng sinh đã quen thâu đạt, cố bám, nắm giữ và tích
trữ. Thói quen ấy đã trở thành bản tính tự nhiên, không dễ gì dùng ý chí
mà thay đổi.
Dầu lý trí có ưng thuận buông bỏ nhưng tâm, vị ảnh hưởng của ái dục ,
vẫn còn khư khư chấp thủ, không khứng chịu khước từ. Do đó, vấn đề bây
giờ là làm thế nào để gỡ cái tâm ra khỏi sự chi phối của ái dục.
Ðức Bổn Sư không dạy phải đè nén hay cưỡng bách, xua đuổi ái dục ra
khỏi tâm, vì đó chỉ là giải pháp tạm thời. Công cụ mà Ðức Thế Tôn trao
truyền để diệt trừ ái dục là tri kiến, hiểu biết chân chính bản chất của
sự vật.
Dứt bỏ, từ khước, thật sự không phải là vấn đề tự ép buộc mình cố
gắng buông bỏ nhưng gì mà sâu kín trong lòng mình vẫn còn tưng tiu, ôm
ấp, mà là vấn đề tự mình thay đổi quan kiến của mình, nhìn sự vậy dưới
ánh sáng trí tuệ. Khi chúng ta quán trạch tận tường và thấu triệt đầy đủ
bản chất thật sự của ái dục và những đối tượng của nó thì chính nó sẽ
tan biến mà không cần phải chiến đấu.
Một em bé đang say mê giữa đám đồ chơi của em. Nếu có ai đến xin hoặc
dựt của em một món ắt là em khóc la và tranh đấu giành lại cho kỳ được.
Nhưng em bé lớn dần. Ðến một ngày nào em sẽ không còn bám niú vào những
đồ chơi ấy nữa mà để mặc tình ai lấy đi hay làm gì cũng được. Tại sao?
-Vì em đã trưởng thành.
Cũng dường thế ấy, ngày nào ta nhận thức rằng ái dục là nguồn gốc của
khổ đau, và đau khổ luôn luôn dính liền với ái dục, bởi vì ái dục là
khát khao và bám chặt vào một cái gì không ngừng biến chuyển, một cái gì
không thật sự có thì làm sao tránh khỏi sầu muộn, đau buồn, thất vọng.
Ðến chừng ấy ta sẽ không còn luyến ái và cố bám, cố giữ những gì mà
lúc nào tưởng chừng như đó là nguồn hạnh phúc duy nhất trên đời
Ta có thể tưởng tượng rằng từ bỏ ham muốn để vượt đến buông bỏ là một
hình thức khổ hạnh, là từ sung sướng trở thành gian khổ, từ phong phú
dồi dào trở nên nghèo nàn thiếu thốn, từ hạnh phúc thành sầu muộn.
Nhưng thật sự, đó là đi từ thỏa thích thô kịch đến hạnh phúc tinh vi
tế nhị, êm dịu và thâm trầm, từ những thú vui đầy phiền lụy và cạm bẫy
đến an lạc, thanh bình và thật sự châu toàn... từ nô lệ đến tự do.
Chuyển biến này sẽ không xảy điễn nhanh chóng hay một cách dột ngột.
Nhưng nếu ta chuyên cần tu niệm ắt một ngày nào nó sẽ đến... như một
ngày nào em bé trưởng thành.
Tư tưởng không thù hận: hàm ý là tâm từ
Tâm từ trong Phật giáo là tình thương rộng lớn bao la, không có bất
luận giới hạn hay sự phân biệt nào mà cũng thâm diệu đậm đà như tình
thương của một bà từ mẫu đối với người con duy nhất của bà.
Có những lời dạy nên thương người láng giềng, người đồng đạo, người
đồng chủng, người đồng hương, người đồng chí, người đồng loại v.v... Tất
cả những tình thương ấy đều trong sạch, tốt đẹp và cần thiết trong xã
hội.
Nhưng đó không phải là tâm từ trong Phật Giáo vì có sự phân biệt và
có giới hạn trong tình thương. Ðó là tình thương giới hạn trong cái
"đồng" Ðây là "Ta".
Giữa đây và chúng sinh nào có một điểm gì chung, một cái gì "đồng"
với cái "Ta" ấy thì có tình thương. Ðồng thời có sự phân biệt với những
người khác, những người không có gì "đồng".
Thương người láng giềng "Của Ta", người chung một tôn giáo với "Ta" ,
cùng một chủng tộc với "Ta", một xứ sở với "Ta" v.v...
Lấy cái "Ta" làm trung tâm điểm rồi từ đó tình thương phát tủa ra như
ánh sáng một ngọn đèn trong căn phòng, giới hạn bên trong bốn vách. Ðó
là bản chất tự nhiên của con người. Tình thương vẫn là tình thương, với
tất cả những gì tốt đẹp, dịu hiền, dễ mến của nó. Xã hội không thể tồn
tại nếu không có những tình thương ấy.
Ở đây chỉ muốn nói rằng tâm từ của Phật Giáo không phải như vậy. Tâm
từ phải bao trùm toàn thể chúng sinh, toàn thể càn khôn vũ trụ, vô
lượng, vô biên, không có sự phân biệt nào.
Người có tâm từ phải vượt lên khỏi mọi hình thức chia rẽ, riêng tư,
không bị giam hãm trong những tư tưởng hẹp hòi, không chịu ảnh hưởng của
tinh thần đấu tranh giai cấp, quốc gia, chủng tộc, tôn giáo mà nhìn tất
cả thế gian là quê hương của mình, và mỗi người, mỗi chúng sinh, là bạn
đồng hành trong đại trùng dương mà ta gọi là đời sống của muôn loài vạn
vật.
Người có tâm từ hòa đồng với tất cả, tự mình chan hòa trong toàn thể,
xem vạn vật và mình là một.
Một loại tâm như vậy quả thật là cao thượng! Nhưng cũng rất khó thực
hành. Ðúng như vậy. Vì lẽ ấy chúng ta còn là phàm nhân. Chúng ta còn
phân biệt đây là "Ta", kia là cha, là mẹ, là vợ, là chồng, là con, là
cháu "Của Ta", cái này là tiền của, sự nghiệp, cái kia là danh vọng,
quyền thế "Của Ta" v.v...
Chư vị A La Hán đã tận diệt ngã chấp. Tâm từ của các Ngài như vừng
thái dương, bao trùm vạn vật mà không có sự phân biệt nào.
Ðức Phật là kết tinh, là hiện thân của tâm từ vô lượng vô biên ở mức
độ cùng tột. Ðó là những gương lành trong sạch để ta noi theo, là lý
tưởng thanh cao tuyệt đỉnh để ta hướng tâm về. Những tư tưởng nào hướng
về tâm từ vô lượng ấy là Chính Tư Duy.
Tư tưởng không hung bạo
Hung bạo là gây đau khổ cho người khác mà không xót thương, không
động lòng trước tình trạng đau khổ của người khác. Nghịch nghĩa của hung
bạo là bi mẫn, động lực làm cho ta rung động trước cảnh khổ của người
khác, là cái gì thoa dịu lòng khổ đau của người, là thiện ý muốn giúp
người thoát một cảnh khổ. Tâm không hung bạo là tâm bi.
Cũng như tâm tư, tâm bi phải vô lượng, vô biên, không bị hạn dịnh
trong một gia dình, một xóm, một làng, một quốc gia, một tôn giáo, một
giai cấp hay một loại chúng sinh nào.
Ðối tượng của tâm từ là toàn thể chúng sinh - chúng sinh khổ và chúng
sinh không khổ - mà không có sự phân biệt. Ðối tượng của tâm bi là
những chúng sinh xấu số, đang ở trong cảnh khổ, và tác dụng của tâm bi
là gia công giúp người đang khổ thoát ra khỏi hoàn cảnh bất hạnh ấy.
Người có tâm bi chuyên lo nâng đỡ kẻ thấp hèn, nghèo đói, cô thân,
tuyệt vọng, chăm nom săn sóc người bệnh hoạn tật nguyền, khuyên nhủ dỗ
dành người thất bại, dẫn dắt và cứu độ người tội lỗi và soi sáng người
tối tăm lầm đường lạc nẻo.
Thấy người hoạn nạn rồi âu sầu ủ dột, phiền muộn khóc than. Ðó không
phải là tâm bi mà giống như người "thù mang lốt bạn" của tâm bi.
Tâm bi trong Phật giáo không phải là những giọt nước mắt chảy suông
trước sự đau khổ của kẻ khác. Ðặc tính của tâm bi là ý muốn giúp người
khác thoát khỏi một cảnh khổ chớ không phải là phiền não âu sầu với họ.
Thọ ưu (domanassa, cảm giác buồn khổ) thuộc về tâm sân (dosa, hay
patigha), một trong ba căn bất thiện.
Tâm bi giống như tình thâm của bà từ mẫu, thương xót đứa con đang lâm
bệnh. Bao nhiêu tâm trí, lời nói và hành động đều tập trung lại để
chuyên chú tìm phương thế làm cho con đỡ đau khổ.
Lòng người có tâm bi thật là mềm dịu, hơn cả những tai hoa mềm mại,
không bao giờ hành hung hay làm điều chi phương hại đến kẻ khác.
Chính nhờ tâm bi mà con người có thể phục vụ một cách hoàn toàn vị
tha. Người có tâm bi không sống cho mình mà sống cho kẻ khác và luôn
luôn tìm cơ hội giúp người, nhưng không bao giờ mong đợi được đền ơn đáp
nghiã. Có những tư tưởng hướng về tâm bi là Chính Tư Duy.
Bản chất của chúng sinh là tham lam, sân hận và hung bạo - hai hình
thức khác của ái dục - vì khư khư cố chấp đây là "Ta", cái này là "Của
Ta".
Chúng ta vui thích những gì vừa ý và ghét bỏ những gì phật lòng cái
"Ta". Vui thích thì đâm ra luyến ái, đeo niú, cố bám chắc, tức tham.
Phật lòng thì bất mãn, xua đuổi, giận dữ, oán ghét, tức sân, lắm khi đưa
đến hung bạo tàn ác.
Khi Chính Kiến và Chính Tư Duy dần dần phát triển, hiểu biết và suy
tư chân chính hỗ trợ lẫn nhau đưa đến nhận thức ngày càng rõ rệt bàn
chất rỗng không của cái gọi là "Ta" .
Chừng ấy tâm luyến ái, sân hận và hung bạo dần dần suy giảm, nhường
chỗ cho tâm buông bỏ, tâm từ và tâm bi.