NSGN
- Trên cửa miệng, hàng ngày, chúng ta thường nghe nói đến cụm từ “quỷ
Dạ Xoa” trong các cuộc khẩu chiến. Lại nữa, thế nhân cũng có thêm cụm từ
“bà chằn”, “bà La Sát”... Phổ biến là vậy nhưng nguồn gốc và hình tướng
của Dạ Xoa, La Sát lại rất mơ hồ. Ở bài viết này xin truy cứu đôi điều
về “quỷ Dạ Xoa”. Và La Sát sẽ đề cập trong một dịp khác.
Dạ Xoa trong các ngôn ngữ có nhiều tên gọi khác nhau: Yaksha
(Sanskrit), Yakkha (Pali), Hoa:Yecha, Nhật: Yasha, Tạng: Gnod-shyin,
Khmer: Yăk (được gọi theo tiếng Việt là Chằn), Thái:Yak/ Nhak
(1) . Trong kinh văn Hán ngữ, Yasha được phiên âm là Dược-xoa (dịch
ý: chiến thắng bệnh tật, uy đức), Duyệt-xoa, Dã-xoa và được dịch: Khinh tiệp,
Dũng kiện, Năng đạm, Quý nhân, Oai đức, Từ tế quỹ, Tiệp tật quỷ. Ý của từ Dạ
Xoa là Quỷ Năng Đạm (Quỷ cám dỗ), Quỷ Tiệp Tật (Quỷ thoắt hiện thoắt ẩn),
Khinh Tiệp (nhanh như chớp), Dũng Kiện (khỏe mạnh)(2) . Về giới
tính, bên cạnh Dạ Xoa còn có Dạ Xoa nữ (Phạn: Yaksi hoặc Yakshini;
Yakshini cũng gọi là Yaksini hay Yaksi và Yakkhini trong tiếng Pali).
1. Yaksha vốn là tên gọi chỉ một loại
nhiên thần, thường là nhân từ, là kẻ trông coi kho tàng châu báu tự nhiên ẩn
giấu trong đất hay rễ cây. Chúng thường xuất hiện trong các thần thoại Hindu
giáo lẫn Kỳ-na giáo và Phật giáo.
Trong thần thoại Hindu, Kỳ-na
(Jainism) và Phật giáo, yaksha/yakshini có tính cách hai mặt. Một mặt, yaksha
là vị tiên xinh đẹp vô thưởng vô phạt, được nối kết với rừng, núi. Nhưng bên
cạnh đó cũng tồn tại một kiểu yaksha nham hiểm, cay độc, đôi khi giống ma quỷ
(bhuta) ở những nơi hoang vu vắng vẻ, thường rình rập để ăn tươi nuốt sống/ngấu
nghiến những lữ khách tương tự như La Sát (raksasa).
Trong bài thơ Kalidasa
Meghaduta, cho thấy yaksha là một nhân vật lãng mạn: yaksha mòn mỏi/khát
khao yêu thương vì nỗi nhớ mong người yêu dấu. Ngược lại, trong đối thoại giáo
khoa Hindu “Câu hỏi của yaksa” của Yaksaprasnah, yaksha là một thần bảo
hộ cho một hồ nước, thách thức Yudhisthira. Khởi phát yaksha có thể là những vị
thần bảo vệ rừng và làng mạc; sau đó, được quan niệm như các vị thần thống quản
trần gian và của cải dưới đất.
Yakshini và Yaksha, cả hai đều là
người hầu cận của Kubera, vị thần Tài cổ xưa của xứ Ấn Độ. Trong kinh Vệ Đà,
Kubera (còn viết là Kuvera) là vị thống quản cả quỷ hoặc thần linh sống
trong bóng tối, tức một loại Diêm vương và được gọi tên theo cha là Vaisravana.
Về sau, Kubera được hiểu theo nghĩa khác: thần Tài/ thần của cải và là chủ
tướng của chúng Dạ Xoa và Guhyaka (âm thần ẩn hình, canh giữ kho báu bí mật).
Cung điện của Kubera là Alaka trên dãy Himalaya
và khu vườn Chaitra-ratha ở Madrara, một trong các đỉnh của ngọn núi trung tâm
vũ trụ Meru/ Tudi sơn. Theo sử thi Ramayana (và cả Mahabharata),
Pulastya được sinh ra từ ý tưởng của thần Brahman. Vaisravana/ Kubera là con
của Pulastya. Thế nhưng, Vaisravana rất gắn bó, dành trọn tình thương và tôn
kính với ông nội. Điều đó đã khiến Pulastya rất đố kỵ. Brahman luôn khen ngợi
Vaisravana và đã ban cho đứa cháu cưng đặc ân bất tử, cắt cử Vaisravana làm
chúa tể tất cả các kho báu của cải quý giá trong thế gian và bổ nhiệm cho
Vaisravana làm vua xứ Lanka (được đoán định là Tích Lan/ Sri Lanka). Giận dữ
tột cùng, Pulastya tự phân thân mình sinh ra đứa con thứ hai là Vaisravas – một
đứa em căm ghét anh mình không thua kém người cha. Để làm dịu lòng cha,
Vaisravana đã dâng cho cha ba cô La Sát nữ Rakshasi xinh đẹp. Một cô sinh ra
Ravana và Kumbhakarna; một cô khác sinh ra Vibhishana; và cô thứ ba sinh ra Rapa, Khara và Surpanakha. Những người con này của
Pulastya cũng rất đố kỵ với sự giàu có của người anh Vaisravana. Do vậy, họ
kiên trì thực hành việc khổ hạnh và nhận được đặc ân thần thánh của ông nội
Brahman. Với sức mạnh có được từ đặc ân thần thánh này, họ chống lại
Vaisravana. Ravana tấn công Vaisravana và trục xuất Vaisravana ra khỏi Lanka(3).
Trên đây là những nét chính yếu về
dòng dõi của các Yaksha. Đối với các quốc gia “Ấn hóa” ở Đông Nam Á, tín niệm
về Yaksha thậm nhập sâu sắc bắt nguồn từ sự lưu truyền của sử thi Ramayana.
Sử thi này được coi là sáng tác văn học nền tảng, chiếm vị trí đặc biệt quan
trọng trong văn hóa Sri
Lanka, Miama, Lào, Cambốt, Thái Lan... Các
dị bản Ramayana của từng quốc gia (Phra Lak - Phra Lam của Lào; Riêm
Kê của Cambốt, Rama Kiên của Thái Lan...) không chỉ là các sáng tác
văn học để kể/ đọc mà còn từ đó tạo ra các sản phẩm sân khấu, các hình thức
diễn xướng dân gian và vô vàn các tác phẩm điêu khắc, trang trí, hội họa. Theo
đó, các tín niệm và hình tướng Yaksha thâm nhập vào tâm thức cộng đồng một cách
rất sâu đậm(4).
2. Trong
thần thoại Hindu, Yaksha là loại sinh linh siêu nhiên, thuộc hạ của thần
Tài Kubera. Tuy nhiên, một số nguồn dữ liệu khác không thừa nhận nguồn gốc này.
Chẳng hạn, loại Dạ Xoa nữ/Yakshi được xác định là thuộc hạ của nữ thần Durga -
vợ của thần Shiva; hoặc truy nguyên về xa xôi hơn: Yaksha là con của Kasyapa và
các bà vợ, vốn là con gái của Daksha - một hiền triết thời Vệ Đà - được tôn là
Praja-pati/cha của nhân loại(5). Chúng không có thuộc tính đặc biệt
nào, nhưng nói chung chúng được coi là vô hại, và vì vậy được gọi là Punya-janas,
tức “người tốt”; song có lúc chúng xuất hiện như một loại yêu tinh với hình
tướng dữ dằn, đáng sợ.
Trong nghệ thuật Ấn Độ, Yaksha được
thể hiện có khi như những chiến binh rụt rè, có lúc lại bệ vệ, kiên cường/to
khỏe nhưng thấp lùn.
Ở Nhật Bản, nói chung, những vị bán thần này được biểu
thị như là những nam tử hảo hán cường tráng to khỏe, chắc nịch, thường chỉ mặc
một mảnh vải khoác sơ sài. Họ thường được miêu tả với râu ria rậm rạp dựng lên
tua tủa, mắt lồi như ốc nhồi. Đôi khi họ được trình bày mang mũ miện và vòng
hoa tai, nhưng nói chung họ không có tùy khí đặc biệt nào. Hình tướng Yaksha Ấn
Độ và Nhật Bản về tổng thể có sự tương đồng. Yaksha tuồng như đã sáp nhập với
những linh vật thần thoại của văn hóa dân gian bản địa Nhật Bản(6).
Ở Đông Nam Á, đặc biệt là ở Java, Yaksha đảm nhận vai
trò những thần canh giữ đền chùa. Yaksha (Thái Lan: Yak) là một yếu tố quan
trọng trong mỹ thuật và kiến trúc đền chùa Thái Lan. Yaksha phổ biến như là
người gác cổng trong khắp điện thờ Phật ít nhất là từ thế kỷ thứ 14. Những
tượng gốm Yaksha được sản xuất ở Thái Lan trong suốt thời kỳ Sukhothai và
Ayutthaya, giữa thế kỷ XIV và XVI, tại dăm ba lò nung phức hợp tọa lạc ở Bắc
Thái Lan. Yaksha được mô tả phần lớn chú trọng vào đặc điểm khuôn mặt dữ dằn
với cặp mắt tròn lồi/phồng lên và răng nanh lòi ra ngoài, cũng như nước da xanh
lục. Tương tự, chùa tháp Khmer, Yaksha (được gọi là Yăk) cũng là những thần
canh giữ. Thường được tạo hình từng cặp đôi, bố trí hai bên cửa, cổng và bậc
cấp. Ngoài khuôn mặt “chằn” dữ dằn với cặp nanh ngoặt ra hai bên mép, hình
tướng cơ bản được tạo tác dưới dạng võ tướng: trang phục bó chẽn vào thân, vũ
khí là chiếc chày vồ, dựng đứng giữa hai chân, hai tay khuỳnh ngang rốn nắm lấy
cán chày.
Nói chung, hình tướng của Yaksha trong mỹ thuật chùa
tháp Phật giáo Nam
truyền có phần trang nghiêm hơn so với các Yaksha trên sân khấu cổ điển của các
quốc gia Đông Nam Á này. Đặc điểm khác biệt là ở bộ mặt nạ sân khấu, tùy theo
thứ bậc của từng vai diễn, Yaksha có thể có từ 5, 3, 2 hay một tầng đầu, có một
hay 4 mặt khác nhau. Số lượng tầng đầu và mặt biểu thị tài phép của từng loại
Yaksha. Điểm khác biệt chính ở đây là Yaksha canh gác chùa tháp là loại Dạ Xoa
đã quay đầu hướng thiện, chí nguyện hộ pháp. Còn các Yaksha trên sân khấu (chủ
yếu là các trích đoạn từ những dị bản của sử thi Ramayana) là loại chằn
ác, thuộc phe phản diện, đối tượng khuất phục của phe chính diện - đại biểu cho
chính nghĩa và cái thiện.
Đạo Kỳ-na chủ yếu thờ tượng thần
Arihant và Tirthankara, kẻ chế ngự những đam mê bên trong và đạt được địa vị
thần thánh. Một vài tín đồ đạo này cũng tin rằng Yaksha và Yakshini chăm lo sự
hạnh phúc và sức khỏe cho Tirthankara. Thông thường, chúng được tìm thấy đâu đó
bên cạnh tượng thần, gồm một cặp tượng Yaksha và Yakshini. Đó là những vị thần
bảo vệ/canh gác. Yaksha thông thường đứng ở bên phải tượng thần Jina và
Yakshini ở bên trái. Ở những thời kỳ sớm hơn, Yaksha và Yakshini được xem là những
tín đồ sùng đạo của tôn giáo này và có sức mạnh/năng lực siêu nhiên. Yaksha
cũng lang thang trong suốt chu kỳ sinh tử giống như người trần tục, nhưng chúng
có sức mạnh siêu nhiên. Do đó, những Yaksha và Yakshini này cũng bắt đầu được
thờ cúng .
Phái Som của đạo Kỳ-na chú trọng
vào hiệu quả tức thì khi cúng tế nên đặt Yaksha và Yaksani trong điện thờ của
họ. Một vài Yaksha được biết sẽ ban cho thịnh vượng và giàu có cho người sùng
tín họ. Do đó, các Yaksha này trở nên rất phổ biến: những tượng Yaksha được đặt
trong các điện thờ đạo Kỳ-na và thờ cúng thường xuyên. Những tín đồ đạo Kỳ-na
cũng dâng cúng họ để cầu xin các Yaksha ban ân huệ tốt đẹp cho đứa trẻ, sự giàu
có hay sự giải thoát khỏi sợ hãi, đau ốm, bệnh tật(7).
Khác với hình tướng dữ dằn của
Yaksha, Yakshi được mô tả với đặc trưng của một người phụ nữ trẻ khỏa thân có
khuôn mặt tròn, mỉm cười, hông rộng, eo thon, vai rộng và ngực tròn đầy. Yakshi
thường được miêu tả cường điệu hóa - theo trường phái nhục cảm - để tăng vẻ
uyển chuyển, quyến rũ của người phụ nữ nhằm liên kết họ với sự sung mãn và phì
nhiêu. Trong Uddamareshvara Tantra, 36 Yakshi được miêu tả bao gồm cả
những câu thần chú và những quy định lễ nghi. Tương tự danh sách Yaksha, Yakshi
cũng được nêu ra trong Tantraraja Tantra. Cuốn sách này cũng nói rằng
những sinh vật này là những kẻ ban tặng mọi thứ mà thế nhân mong cầu.
Ba di tích nổi tiếng của Phật giáo
Ấn Độ, Bharhut, Sanchi và Mathura,
đã tạo tác một số lượng lớn những mẫu trang trí Yakshi. Chúng phổ biến trên hầu
hết những cột trụ rào chắn của tháp. Yakshi thường được thể hiện với cánh tay
vươn lên chạm vào một nhánh cây và thân hình uốn éo uyển chuyển (Phạn: tribhanga
có nghĩa là 3 điểm uốn cong); vì vậy, một vài tác giả cho rằng người phụ nữ trẻ
đứng tại gốc cây này là dựa vào vị thần cây cổ đại(8).
Cây ashoka thường được kết nối với
sinh vật thần thoại Yakshi. Đây cũng là một trong những yếu tố thường lặp lại
trong mỹ thuật Ấn Độ. Loại tượng này thường thấy ở cổng nhiều điện thờ Phật
giáo và Hindu: Yakshi đứng trên thân cây/vòi voi vói tay nắm nhánh cây hoa
ashoka nở cách điệu hay ít phổ biến hơn lá cây với hoa và quả. Như một yếu tố
mỹ thuật, cây và Yakshi là những chủ thể hướng tới sự cách điệu hóa triệt để.
Một số tác giả cho rằng người phụ
nữ trẻ đứng tại gốc cây là xuất phát từ biểu tượng cây cổ thụ xum xuê của tiểu
lục địa Ấn Độ. Yakshi là yếu tố trang trí quan trọng ở các công trình kiến trúc
Phật giáo buổi đầu và chúng được tìm thấy ở các di chỉ khảo cổ học Phật giáo cổ
xưa. Yakshi trở thành Salabhanjika (thiếu nữ/trinh nữ cây chai); trải qua nhiều
thế kỷ, đây là yếu tố trang trí chuẩn mực của điêu khắc/tượng và kiến trúc điện
thờ Ấn Độ.
Cây chai (shorea robusta) thường bị
nhầm với cây ashoka (saraca indica) trong văn học cổ của tiểu lục địa Ấn Độ.
Kiểu thức Salabhanjika cũng được xác định là hình mẫu của tư thế hoàng hậu Maya
khi bà sinh Thái tử Siddhārtha dưới cây asoka trong vườn ở Lumbini. Hoàng hậu
vói tay nắm lấy cành cây vô ưu asoka và Thái tử sinh ra từ hông...(9) (10).
Tuy được gắn với tín niệm phồn
thực, biểu thị sự phong nhiêu của cây trồng, song ở Nam Ấn Độ, Yakshi không được xem là
sinh vật nhân từ. Chúng được cho là kẻ rình rập những người đàn ông, quyến rũ
họ bằng vẻ đẹp của chúng để uống máu họ. Như vậy, tính chất hai mặt của loại
sinh linh này luôn được bảo lưu trong tâm thức văn hóa-tín ngưỡng của người Ấn.
Điều đó, tuồng như cũng xảy ra tương tự trong kinh văn Phật giáo.
3. Trong tín niệm Phật giáo, Dạ Xoa/Yaksha là loài quỷ ở
trên mặt đất hoặc trong hư không, dùng oai thế não hại người, hoặc dùng oai thế
giữ gìn Chánh pháp; là một trong 8 bộ chúng. Về chủng loại, loài chúng sanh Dạ
Xoa được nêu ra gồm 3 thứ: 1/ Địa hành Dạ Xoa: có phước báu hưởng thụ âm
nhạc, thức uống ăn và các sự vui sướng khác; 2/ Hư không Dạ Xoa: có sức
mạnh và đi nhanh như gió; 3/ Cung điện phi hành Dạ Xoa: có được đầy đủ
tiện nghi và hưởng được sự sung sướng (theo Dạ Xoa luận Đại trí độ, 12)(11).
Như vậy, tính cách hai mặt cố hữu
của Dạ Xoa được bảo lưu trong tín niệm Phật giáo và biểu hiện cụ thể trong kinh
văn có những tình tiết đặc biệt đa dạng.
a) Ở đây đó trong kinh văn Phật
giáo, chúng ta thấy việc bảo lưu tín niệm về sự thống quản Dạ Xoa của Tỳ-sa-môn
Thiên Vương/Vaisravana. Theo kinh Đại hội, trong Trường A-hàm 12
(luận Đại tỳ-bà-sa 133, luận Thuận chánh lý 31...): Dạ Xoa chịu
sự thống lãnh của Tỳ-sa-môn Thiên vương (Vaisravana) và bảo vệ chư thiên các
cõi trời như Đao Lợi,... hưởng được các sự vui sướng và có oai thế. Theo Đại
nhật kinh sớ 5 ghi: trong Kim cang bộ ngoài Mạn-đồ-la Thai Tạng
giới, ở cửa Bắc thờ trời Tỳ-sa-môn, hai bên vị trời này có vẽ 8 vị đại tướng Dạ
Xoa: Ma-ni Bạt-đà-la, Bố-lỗ-na-bạt-đà-la, Bán-chi-ca, Sa-đa-kỳ-lý,
Hê-ma-phược-đa, Tỳ-sái-ca, A-tra-phược-ca và Bán-già-la (12) .
Tín niệm Dạ Xoa là tùy tướng/thuộc
hạ của Tỳ-sa-môn Thiên Vương - vị thần Hộ quốc và là thần Tài Lộc - xuất hiện ở
xứ ta thông qua truyền thuyết Thánh Gióng/Phù Đổng Thiên Vương với nhiều tình
tiết “lịch sử hóa” đã làm khuất lấp đi tín niệm nguyên bản. Theo ghi chép trong
Việt điện u linh, vị Thiên vương này được/bị thờ làm thần Thổ Địa chùa
Kiến Sơ; và sau đó, được Lý Thái Tổ sai thợ đắp tượng thần và lại “sai đắp 8
pho tượng đứng hầu”(13). Đây chính là 8 đại tướng Dạ Xoa, bộ hạ
lưu xuất của Vaisravana đã nói trên(14). Nói cách khác, đây là chứng
tích về sự có mặt của tín niệm Dạ Xoa – thuộc hạ của Tỳ-sa-môn Thiên Vương ở xứ
ta vào trước thời nhà Lý.
Trong kinh Dược Sư Như Lai bổn
nguyện công đức, chúng ta tuồng như nhận ra dị bản motif Tỳ-sa-môn Thiên
Vương và tùy tướng Dạ Xoa: 12 vị Dạ Xoa thần tướng thệ nguyện ủng hộ những
người trì kinh Dược sư. Mười hai vị ấy có bạch Phật rằng như có ai bệnh
thì nên tụng kinh Dược sư, kế lấy sợi tơ ngũ sắc mà kết danh hiệu 12 vị
ấy vào đàn, khi lành bệnh thì lấy ra. Mười hai vị Dạ Xoa ấy là: 1/ Cung-tỳ-la
đại tướng, 2/ Phạt-chiết-la đại tướng, 3/ Mê-xí-la đại tướng, 4/ An-để-la đại
tướng, 5/ Át-nễ-la đại tướng, 6/ San-để-la đại tướng, 7/ Nhơn-đạt-la đại tướng,
8/ Ba-di-la đại tướng, 9/ Ma-hổ-la đại tướng, 10/ Chơn-đạt-la đại tướng, 11/
Chiêu-đổ-la đại tướng, 12/ Tỳ-yết-la đại tướng.(15)
b) Một trong sự tích bản sinh của
Phật giáo đề cập đến Dạ Xoa là truyện có tựa đề là Cù Lâu vương nghe kệ cho
vợ, rằng: Cù Lâu vương chí nguyện cầu pháp. Tỳ-sa-môn Thiên Vương bèn hóa
thành Dạ Xoa đến thử lòng nhà vua. Thiên Vương đặt điều kiện: ăn thịt vợ con
của vua rồi mới thuyết pháp, nói kệ cho nghe. Cù Lâu vương đồng ý. Dạ xoa ăn
thịt vợ con của vua xong, liền vì vua thuyết kệ cho vua nghe. Xong đâu đó,
Tỳ-sa-môn làm phép: vợ và con vua được sống lại(16).
Trong câu chuyện trên, đằng sau nội
dung khuyến đạo, khuyến tu là việc ăn thịt người của Dạ Xoa. Thuộc tính ác của
Dạ Xoa cũng được xác định trong kinh Đại cát nghĩa thần chú 3: Các thứ
quỷ Dạ Xoa, La Sát thường biến ra các hình tượng như sư tử, voi, cọp, nai,
ngựa, trâu, lừa, lạc đà, dê... hoặc đầu to mà thân nhỏ, hoặc bụng lớn có một
đầu mà hai mặt, ba mặt,... tay cầm dao, giáo, kiếm... tướng trạng đáng sợ,
khiến người kinh hãi, có thể làm cho người trông thấy bị mất vía rồi hút lấy
tinh khí(17).
Chính vì tính hung ác làm hại
chúng sanh nên trong phẩm Phổ môn (kinh Diệu pháp liên hoa) có ghi việc
xưng tụng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát để ngăn “bọn quỷ Dạ Xoa, La Sát” hãm
hại.
c) Nói chung, tính chất hai mặt của
Dạ Xoa được bảo lưu trong tín lý Phật giáo nên trong từng bản kinh, Dạ Xoa được
biểu hiện là thiện hay ác khác nhau. Một trong kiểu mẫu tiêu biểu, điển hình
cho tính cách chủng loài là chuyện Dạ Xoa Alavaka trong kinh Tương
ưng X.12, ghi lại cuộc đối thoại giữa Đức Phật và Alavaka:
“Một thời Thế Tôn trú ở Alavi,
tại trú xứ của dạ xoa Alavaka. Rồi dạ xoa Alavaka nói với Thế Tôn: Này Sa-môn,
hãy đi ra!
Lành thay, hiền giả, Thế Tôn nói và
đi ra.
Này Sa-môn, hãy đi vào.
Lành thay, hiền giả, Thế Tôn nói và
đi vào.
Lần thứ hai, ... Lần thứ ba, dạ xoa
Alavaka nói với Thế Tôn: Này Sa-môn, hãy đi ra.
Lành thay, hiền giả, Thế Tôn nói và
đi ra.
Này Sa-môn, hãy đi vào.
Lành thay, hiền giả, Thế Tôn nói và
đi vào.
Lần thứ tư, dạ xoa Alavaka nói với
Thế Tôn: Này Sa-môn, hãy đi ra.
Này hiền giả, ta không đi ra. Hãy
làm gì ông nghĩ là phải làm.
Này Sa-môn, ta sẽ hỏi ông một câu
hỏi. Nếu ông không trả lời ta được, ta sẽ làm tâm ông điên loạn, hay ta làm ông
bể tim, hay nắm lấy chân, ta sẽ quăng ông qua bờ bên kia sông Hằng.
Này hiền giả, Ta không thấy một ai
ở thế giới chư Thiên, Ma giới hay Phạm thiên giới, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn,
với chư Thiên và loài Người có thể làm tâm Ta điên loạn, hay làm bể tim Ta, hay
nắm lấy chân, quăng Ta qua bờ bên kia sông Hằng. Tuy vậy, này hiền giả, hãy hỏi
đi như ông muốn.
Alavaka: Cái gì đối với người đời/
Là tài sản tối thượng?/ Cái gì khéo hành trì/ Đem lại chơn an lạc?/ Cái gì giữa
các vị/ Là vị ngọt tối thượng?/ Phải sống như thế nào/ Được gọi sống tối
thượng?
Thế Tôn: Lòng tin đối người đời/ Là
tài sản tối thượng/ Chánh pháp khéo hành trì/ Đem lại chơn an lạc/ Chân lý giữa
các vị/ Là vị ngọt tối thượng/ Phải sống với trí tuệ/ Được gọi sống tối thượng.
Alavaka:Làm sao vượt bộc lưu?/Làm
sao vượt biển lớn?/Làm sao siêu khổ não?/Làm sao được thanh tịnh?
Thế Tôn: Với tín, vượt bộc lưu/
Không phóng dật, vượt biển/ Tinh tấn, siêu khổ não/ Với trí, được thanh tịnh.
Alavaka:Làm sao được trí tuệ?/Làm
sao được tài sản?/Làm sao đạt danh xưng?/Làm sao kết bạn hữu?/Đời này qua đời
khác,/Làm sao không sầu khổ?
Thế Tôn: Ai tin tưởng Chánh pháp/
Của bậc A-la-hán/ Pháp ấy khiến đạt được/ Niết-bàn (chơn an lạc)/ Khéo học,
không phóng dật/ Minh nhãn khéo phân biệt/ Nhờ hành trì như vậy/ Vị ấy được trí
tuệ/ Làm gì khéo thích hợp/ Gánh vác các trách nhiệm/ Phấn chấn, thích hoạt
động/ Như vậy được tài sản/ Chơn thật đạt danh xưng/ Bố thí kết bạn hữu/ Đời
này qua đời khác/ Như vậy không sầu khổ / Tín nam gia chủ nào/ Tìm cầu bốn pháp
này/ Chơn thực và chế ngự/ Kiên trì và xả thí/ Vị ấy sau khi chết/ Không còn
phải sầu khổ/ Đời này qua đời khác/ Sau chết, không sầu khổ /Ta muốn ông đến
hỏi/ Sa-môn, Bà-la-môn/ Có những pháp nào khác/ Tốt hơn bốn pháp này: /Chơn
thực và chế ngự/ Xả thí và kham nhẫn.
Alavaka: Làm sao nay ta hỏi/
Sa-môn, Bà-la-môn/ Khi nay ta được biết/ Nguyên nhân của đời sau/ Phật đến
Alavi/ Thật lợi ích cho ta/ Nay ta được biết rõ/ Cho gì được quả lớn/ Nên ta sẽ
bộ hành/ Làng này qua làng khác/ Thành này qua thành khác/ Đảnh lễ Phật Chánh
giác/ Cùng đảnh lễ Chánh pháp/ Các vị chứng Pháp tánh.
(HT. Minh Châu dịch Việt).
*
Nói chung, Dạ Xoa có nguồn gốc là
những vị nhiên thần tiền Phật giáo của Ấn Độ thời viễn cổ. Chúng được thu nạp
vào thần điện Phật giáo như là những người hộ vệ cho Phật pháp và cũng được coi
là những tinh linh tự nhiên. Khi thuyết về địa ngục được lưu hành, Dạ Xoa với
thân phận là tiểu quỷ dưới âm quan lại có mặt ở các địa ngục làm nhiệm vụ của
tên quỷ sứ thi hành các hình phạt. Có thể do ảnh hưởng của thuyết về địa ngục
quá lớn, nên dân gian đồng nhất Dạ Xoa với chúng quỷ cõi âm: dữ ác và xấu xí mà
quên đi Dạ Xoa là một loài chúng sanh trong bát bộ chúng, trong đó lắm Dạ Xoa
phát khởi thiện tâm, quy y Phật, thường đến cung kính nghe Đức Phật thuyết
pháp.
Chú thích
(1) Xem Franklin Edgerton, Buddhist hybrid
Sanskrit grammar and dictionary, tập 2, Motilal Banarsidass, 1953.
(2) Xem Mã Thư Điền, Các vị thần trong Phật giáo
Trung Quốc, Nxb. Văn hóa Thông tin, 2002.
(3) Xem R. S. Gupte, Iconography of the Hindus,
Buddhists and Jains. D. B. Taraporevala sons & Co; Bombay, tr.51-52.
(4) Xem Huỳnh Ngọc Trảng, Chằn trong sân khấu
Khmer đồng bằng sông Cửu Long, trong kỷ yếu Về sân khấu truyền thống
Khmer Nam bộ, Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Sóc Trăng, Phân viện Văn hóa Nghệ
thuật tại TP.HCM, 1998, tr.117-128.
(5) Xem John Dowson, Classical dictionary of
Hindu mythology and religion... Rupa. Co.
2004; tr.76-79, 153.
(6) Xem Meher McArthur, Tìm hiểu mỹ thuật Phật giáo, Nxb.
Mỹ Thuật, 2005.
(7) Xem Pramodaben Chitrabhanu, Jain symbols,
ceremonies and practices.
(8) Xem Heinrich Zimmer, Myths and symbols in
Indian art and civilization, 1946.
(9) Xem Buddhistische Bilderwelt, Hans Wolfgang
Schumann, Ein ikonographisches hansbuch des Mahayana - und Tantrayana -
Buddhismus, Eugen Diederichs Verlag. Cologne.
(10) Xem Eckard Schleberger: Die indische Gotterwelt. Gestalt,
Ausdruck und Sinnbild, Eugen
Diederich Verlag. Cologne.
(11) (12) (17) Xem Từ điển Phật học Huệ Quang, tập 2,
tu viện Huệ Quang, 1995.
(13) Xem Việt điện u linh, bản dịch của Trịnh
Đình Rư, Nxb. Văn Học tb, H;
1972, tr.90-93.
(14) Xem thêm Huỳnh Ngọc Trảng, Nói thêm về Thánh
Gióng và hội Gióng, Tạp chí Văn hóa Phật giáo, số 36, 2007, tr.15-19.
(15) Xem Đoàn Trung Còn, Phật học từ điển, Nxb.
Tổng hợp TP.HCM, 2011.
(16) Xem Nguyễn Tuệ Chân (biên dịch), Tủ sách bách khoa Phật
giáo: Nghệ thuật Phật giáo, Nxb. Tôn Giáo...?
Huỳnh Thanh Bình (NSGN)