Các học giả ngày nay đều công nhận rằng tất cả các tôn giáo trên thế giới
đều phát sinh từ sự sợ hãi. Vào những thời kỳ xa xưa, con người rất khiếp sợ sấm
sét, bóng tối và các hiện tượng mà họ không đủ sức để hiểu hoặc khắc phục được.
Nhằm mục đích mong cầu tránh được hiểm nguy, họ tìm mọi cách để biểu lộ thân phận
nhỏ bé và sự ngoan ngoãn của họ và đồng thời tôn vinh những thứ ấy. Sau đó, khi
kiến thức và sự hiểu biết của con người phát triển hơn, sự sợ hãi trước đây đối
với các hiện tượng thiên nhiên lại chuyển thành một thứ sợ hãi khác khó nhận biết
hơn. Các tôn giáo đã được phát sinh bằng sự sùng bái các hiện tượng thiên
nhiên, thần linh và các nhân vật trên trời ngày càng trở nên khôi hài, vì sự sợ
hãi đã trở thành tinh tế hơn nhiều: đấy là sự sợ hãi trước những khổ đau, và đối
với sự sợ hãi này thì lại không có một phương tiện vật chất nào có thể làm cho nó
giảm bớt đi được. Con người bắt đầu cảm thấy sợ hãi trước sinh, lão, bệnh, tử, kể
cả những mối thất vọng và lo buồn khác bắt nguồn từ sự thèm muốn, giận dữ và vô
minh - và đấy là những thứ mà không một quyền lực hay một sự giàu có nào có thể
làm cho nguôi ngoai được.
Cách nay đã lâu lắm tại
Ấn Độ, nơi đã cho ra đời nhiều nhà tư tưởng và học giả cao thâm, con người không
còn tìm cách sùng bái các nhân vật siêu nhiên nữa mà ngược lại chỉ dồn mọi nỗ lực
tìm kiếm các phương pháp giúp mình tìm hiểu thế nào là sự sinh, sự già nua, bệnh
tật và cái chết, và cả các phương pháp giúp loại trừ sự thèm muốn, hận thù và vô
minh. Chính những cố gắng truy tầm ấy đã đưa đến sự ra đời của Phật Giáo, một
phương pháp thực dụng do Đức Phật khám phá ra nhằm loại bỏ khổ đau và chấm dứt hoàn
toàn mọi sự sợ hãi của con người.
"Phật Giáo"
có nghĩa là "Giáo Huấn của một Con Người Giác Ngộ". Mỗi vị Phật là một
con người "Giác Ngộ", một con người đã thấu hiểu được sự thật về các
sự vật, vị ấy hiểu được một cách chính xác bản chất đích thật của tất cả mọi sự
vật và nhờ đấy mà vị ấy biết ứng xử thích nghi với tất cả mọi cảnh huống xảy ra.
Phật Giáo là một tôn giáo xây dựng trên trí thông minh, khoa học và sự hiểu biết.
Mục đích của tôn giáo ấy là để giúp loại trừ khổ đau và các nguyên nhân mang lại
khổ đau. Tất cả mọi hình thức tôn thờ hướng vào các vật thể thiêng liêng bằng lễ
lạc, nghi thức cúng bái hay sự cầu xin đều chẳng có gì gọi là Phật Giáo cả. Đức
Phật gạt ra ngoài các nhân vật ngụ ở trên trời mà một số giáo phái xem đấy là
các vị sáng tạo ra mọi sự vật, và cũng gạt bỏ cả các vị thần linh mà người ta
nghĩ rằng trú xứ của họ là các vì sao. Trái lại, người ta cho biết là Đức Phật từng
khuyên rằng: "Sự hiểu biết, khôn
khéo và tài năng là những gì sẽ mang lại thành công và những hậu quả lợi ích; tự
chúng là những điều tốt, hoàn toàn không liên hệ gì với sự chuyển động của các
vật thể trên trời. Nhờ vào những điều xứng đáng đạt được từ các phẩm tính ấy, một
cá thể có thể vượt xa hơn gấp bội so với những người dại dột chỉ biết ngồi yên để
lo chuyện bói toán". Đức Phật lại còn nói thêm: "Nếu nước sông, chẳng hạn như nước của con sông Hằng này, thật sự
có thể rửa hết tội lỗi và tẩy xóa hết khổ đau, thì các con rùa, con cua, con cá
và sò ốc sống trong các con sông thiêng liêng tất phải được tẩy xóa hết mọi tội
lỗi và khổ đau chứ". Ngài cũng đã nói thêm như sau: "Nếu một người nào đó có thể loại được
khổ đau của mình bằng cách cúng dường, bằng sự tôn kính và cầu nguyện, thì sẽ
chẳng còn ai trong thế gian này phải gánh chịu khổ đau cả, bởi vì có ai mà lại
chẳng biết bày tỏ sự tôn kính và cầu nguyện. Dù cho họ có tỏ ra thật ngoan
ngoãn, biết tôn kính và thực thi nghi lễ đều đặn, thế nhưng trên thực tế thì họ
vẫn cứ phải gánh chịu khổ đau, vì thế thật hết sức hiển nhiên là những thứ ấy nhất
định không phải là giải pháp hữu hiệu giúp họ tìm thấy sự giải thoát khỏi những
khổ đau của chính họ".
Nếu muốn đạt được sự giải
thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta,
hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng, và sau đó thì căn cứ vào sự hiểu
biết ấy mà ứng xử một cách thích nghi. Đấy chính là căn bản giáo huấn của Phật
Giáo, và đấy cũng là những gì mà chúng ta phải tìm hiểu và ghi khắc trong tâm...
Phật giáo không chủ trương tìm hiểu các giả thuyết hay các định đề mà ngược lại
chỉ khuyến khích chúng ta phải hành động như thế nào cho phù hợp với trực giác
sâu kín trong mỗi con người của chúng ta. Đấy không phải là cách chấp nhận mù
quáng tất cả những gì được nghe thấy. Nếu có một người nào đó quả quyết về một
điều gì, thì ta phải lắng nghe và xét đoán quan điểm của người ấy với một cách
hết sức khách quan. Nếu nhận thấy quan điểm ấy hợp lý thì ta có thể tạm thời chấp
nhận và sau đó thì tìm cách để kiểm chứng lại. Chính đấy là một trong các đặc điểm
của Phật Giáo, và đấy cũng là những gì cho thấy Phật Giáo khác hơn với các tôn
giáo khác trên thế giới.
Tôn giáo nào cũng đều hàm
chứa nhiều khía cạnh khác nhau và do đó cũng mang nhiều sắc thái khác nhau, chẳng
qua đấy là do các góc nhìn khác nhau mà ra. Nhiều người nhìn tôn giáo qua những
góc cạnh sai lầm và Phật giáo không phải là một ngoại lệ. Phật giáo cũng là một
tôn giáo như các tôn giáo khác, và vì thế cũng đã được nhìn dưới nhiều góc cạnh
khác nhau, do đó cũng hiện ra dưới nhiều thể dạng thật khác biệt nhau. Lý do là
vì mỗi người trong chúng ta đều có một quan điểm riêng, sự thật của mình phù hợp
với sự hiểu biết và quan điểm riêng của mình. Tóm lại là "sự thật"
thay đổi tùy theo từng người. Chúng ta quán xét các vấn đề theo các cấp bậc hiểu
biết chênh lệch nhau, bằng các phương tiện khác nhau và qua các mức độ thông
minh khác nhau. Do đó rất khó cho chúng ta chấp nhận là đúng những gì vượt cao
hơn trí thông minh, kiến thức và sự hiểu biết của mình. Ngay cả trường hợp mà chúng
ta có vẻ như chấp nhận ý kiến của người khác đi nữa, thế nhưng chúng ta cũng cứ
tiếp tục nghĩ rằng đấy không phải cái "sự thật" theo đúng như chúng
ta đã nghĩ. Quan niệm về sự thật của chúng ta sẽ được cải thiện phù hợp với cấp
bậc thăng tiến tuần tự của trí thông minh, với kiến thức và khả năng hiểu biết của
mình, để rồi đến một lúc nào đó thì chúng ta sẽ đạt được "sự thật tối hậu".
Như đã nói đến trên
đây, Phật Giáo là một phương pháp thực dụng nhằm mục đích giải thoát chúng ta
khỏi mọi khổ đau bằng cách giúp chúng ta nhìn thấy bản chất đích thật của mọi sự
vật, và đấy cũng là những gì mà chính Đức Phật đã thực hiện cho mình. Tất cả
kinh sách của các tôn giáo đều không tránh khỏi sự thêm thắt, Tam Tạng Kinh (Tripitaka) của chúng ta cũng không phải
là một ngoại lệ. Theo dòng thời gian, nhiều đoạn được thêm vào để thích nghi với
các trào lưu tư tưởng đương thời, hoặc vì muốn chinh phục lòng tin của quảng đại
quần chúng mạnh mẽ hơn, hoặc chỉ vì lòng nhiệt tâm quá đáng đối với tôn giáo của
mình. Tiếc thay, lễ lạc và nghi thức được phát triển thêm và ngày nay thì tất cả
các thứ ấy lại được xem là Phật Giáo. Người ta lập ra nghi lễ cúng dường, hiến
dâng bánh trái, hoa quả lên "hương linh" của Đức Phật giống như là hiến
dâng thực phẩm cho các vị tỳ kheo đang còn sống, làm như thế quả thật không phù
hợp chút nào với giáo lý Phật Giáo. Thế nhưng một số người lại xem đấy là cách
tu tập Phật Giáo đích thật, rồi cứ đúng
như thế mà mang ra thuyết giảng và tu tập
Các nghi thức và lễ lạc
đại loại như vừa kể đã phát triển rất mạnh và làm che khuất đi căn bản Phật
Giáo đích thật và cả mục đích nguyên thủy của Phật Giáo. Hãy nêu lên một thí dụ,
chẳng hạn như lễ đưa tiễn một người vào chùa lại biến thành một nghi lễ tặng
quà cho vị tân tỳ kheo. Khách khứa được mời thì mang theo thực phẩm để cùng
tham gia vào cảnh vui nhộn của buổi lễ, có khi buổi lễ chấm dứt với cảnh náo
nhiệt và mọi người đều say khướt. Quang cảnh lễ lạc như thế chẳng những xảy ra ở
chùa mà còn cả tại nhà nữa! Về phần người tân tỳ kheo thì vài hôm sau lễ xuất
gia cũng có thể sẽ rời bỏ tăng đoàn và lại còn có thể trở thành một người chán ghét
chùa chiền hơn trước nữa. Chúng ta nên nhớ rằng những chuyện như thế không hề xảy
ra trong thời kỳ của Đức Phật; các buổi lễ lạc như thế chỉ phát triển về sau
này mà thôi. Vào thời kỳ của Đức Phật, xuất gia chỉ có nghĩa là từ bỏ tổ ấm và
gia đình với sự đồng ý của cha mẹ. Đấy là cách đánh dấu sự chấm dứt cái quá khứ
của mình trong gia đình để trước hết bước theo chân của Đức Phật và tăng đoàn gồm
các vị tỳ kheo, và sau đó khi thuận tiện thì xin thụ phong và rất có thể sẽ
không còn dịp nào quay về để gặp lại gia đình nữa. Trong vài trường hợp hiếm
hoi, vài vị có thể trở về thăm cha mẹ, thế nhưng đấy là các trường hợp ngoại lệ.
Trong giới luật có một điều khoản cho phép người tỳ kheo được về thăm nhà nếu
có một lý do chính đáng, thế nhưng vào thời kỳ của Đức Phật thì điều khoản này
không mấy khi được áp dụng. Tóm lại, vào thời bấy giờ người tu tập được thụ
phong tỳ kheo không cần phải có cha mẹ chứng kiến, cũng không cần đến lễ lạc, và
người tỳ kheo sau khi được thụ phong cũng không rời bỏ tăng đoàn vài ngày sau
đó.
Tiếc thay, ngày nay các
hình thức "Tân Phật giáo" như trên đây đang bành trướng trên toàn cầu.
Đạo Pháp (Dhamma), tức căn bản giáo
huấn đích thật và tối thượng của thời xưa giờ đây đã phải đảm đang thêm cái
gánh nặng của lễ lạc, khiến cho chủ đích của Phật Giáo bị che khuất đi, bị đánh
đổi hay biến dạng đi. Việc xuất gia đã trở thành một phương tiện giúp cứu vãn
danh dự cho một thanh niên bị người ta chê trách chẳng hạn, hoặc để giúp mình dễ
tìm vợ hơn, bởi vì khi đã xuất gia thì được xem như đã trở thành một người chín
chắn. Đối với một số người khác thì đấy còn là một cơ hội để gom góp tiền bạc -
luôn luôn có người tình nguyện đứng ra đảm trách công việc này - tức có nghĩa
là để làm giàu. Chuyện như thế mà cũng cứ gọi đấy là "Phật Giáo", và
nếu có ai phản đối thì sẽ bị gán ngay là người ngu dốt chẳng biết tí gì, hoặc
là người chống báng tôn giáo!
Việc hiến dâng vải vóc
trong dịp lễ Kiết Hạ (Kathina) cũng lại cho thấy thêm một sự thoái hóa khác nữa.
Mục tiêu ban đầu của Đức Phật trong việc hiến dâng vải vóc là vừa tập cho tăng
đoàn biết sống tập thể và cũng để giúp cho họ may mặc. Đấy là cách tạo dịp cho
các vị tỳ kheo họp lại với nhau để cùng cắt may hầu khỏi phí phạm thì giờ lắt
nhắt. Trong trường hợp nếu chỉ đủ vải để may được một chiếc áo duy nhất thì
không nhất thiết sẽ dành riêng chiếc áo ấy cho vị có tuổi đạo cao nhất, mà phải
dành cho vị nào xứng đáng nhất hoặc vị nào cần đến nhất (vì áo của người này đã
rách nát chẳng hạn), và chiếc áo ấy thì phải được hiến dâng với danh nghĩa của
toàn thể tăng đoàn. Ý định của Đức Phật là tinh thần tập thể đó sẽ giúp cho các
vị tu hành không tự đánh giá mình quá cao. Vào thời bấy giờ, dù tuổi đạo nhiều
hay ít thì vị nào cũng phải giữ sự khiêm tốn, tất cả đều ngang hàng nhau và
cùng nhau họp lại để may cắt, giặt, nhuộm - bằng cách nấu các loại cây cỏ cho
ra màu - và cả các việc linh tinh khác nữa với mục đích là phải hoàn tất việc
may mặc trong vòng một ngày. Đấy là cách giúp cho người tỳ kheo ý thức được sự
hợp tác và tương trợ lẫn nhau, chính đấy là chủ đích mà Đức Phật mong muốn, tức
có nghĩa là người tu hành không được hoàn toàn nhờ vả vào người thế tục. Ngày
nay, người ta lợi dụng dịp này để bày thêm ra đủ mọi thứ, nào là nghi lễ, các
trò vui chơi, để tạo dịp mà cười nói ồn ào. Tệ hại hơn nữa là đối với một số
người thì đấy còn là một cơ hội để kiếm thêm tiền. Người ta xem đấy là một dịp để
cùng ăn uống ngoài trời với nhau, thế rồi những gì gọi là tốt lành và công đức mà
đáng lý ra mỗi người sẽ được hưởng, thì lại chẳng tìm thấy đâu cả.
Sự thoái hóa ấy cũng chẳng
khác gì những thứ ung nhọt hoành hành trong cơ thể của Phật Giáo, mang lại những
tàn phá không nhỏ. Các thứ ung nhọt ấy hiện ra dưới hàng trăm thể dạng khác
nhau, không sao kể hết được. Đấy là những loại ung bướu độc hại và nguy hiểm dần
dần che lấp và phủ kín nền tảng tinh khiết của Phật Giáo và những gì thật sự Phật
giáo, khiến cho Phật Giáo phải bị biến dạng đi. Một trong số các hậu quả mang lại
là sự xuất hiện của vô số giáo phái lớn nhỏ đủ loại, mà một số còn dính líu cả với
vấn đề dâm ô! Thật hết sức quan trọng phải phân biệt cho được đâu là Phật Giáo
nguyên thủy và đâu là các thứ hình thức lệch lạc như vừa kể. Chúng ta không nên
bám víu một cách ngu xuẩn vào cái vỏ bọc bên ngoài ấy tức là các thứ nghi thức
và lễ lạc ấy đến độ có thể đánh mất đi mục tiêu đích thật của Phật Giáo.
Đối với Phật Giáo thì chủ
đích của việc tu tập đích thật là tinh khiết hóa cách hành xử của mình liên
quan đến thân xác và ngôn từ, và tiếp theo đó là tinh khiết hóa tâm thức, và
khi tâm thức đã được tinh khiết hóa thì nó sẽ mang lại một sự quán nhận sâu xa và
một sự nhận thức đúng đắn. Không bao giờ nên nghĩ rằng nếu là Phật Giáo thì phải
như thế này hay như thế kia, bằng cách viện cớ là tất cả mọi người đều bảo như thế.
Đấy cũng là một sự sai lầm mà những người theo các tôn giáo khác thường hay phạm
vào khi họ cho rằng các thứ ung nhọt đáng hổ thẹn ấy là Phật Giáo; quả thật là
không đúng như thế vì đấy chỉ là những thứ ung bướu của Phật Giáo mà thôi. Những
ai trong chúng ta vì lợi ích cho riêng mình và cho người khác mà quyết tâm quảng
bá Phật Giáo, thì cũng nên hiểu rằng chính mình cần phải nắm vững phần tinh anh
đích thật của Phật Giáo và không nên bám víu vào những thứ dư thừa không mang một
ý nghĩa nào cả.
Đến đây chúng ta hãy
tìm hiểu xem tại sao tính cách đa dạng của Phật Giáo, kể cả đối với căn bản Phật
Giáo đích thật, lại có thể đưa đến một sự hiểu biết sai lầm. Thí dụ như qua góc
nhìn của một triết gia về đạo đức thì Phật Giáo sẽ hiện ra như là một tôn giáo của
"luân lý", vì người ta sẽ thấy đề cập đến các vấn đề liên quan đến những
gì xứng đáng và những gì thiếu đạo đức, đến cái tốt và cái xấu, đến sự lương
thiện, lòng biết ơn, sự hài hòa, lòng ngay thật, v.v... Tam Tạng Kinh đầy ắp những
lời giáo huấn trong lãnh vực luân lý ấy. Những người mới khởi sự tu tập thường
nhìn Phật Giáo qua góc cạnh này, có nghĩa là họ thường bị thu hút bởi những gì
thuộc về đạo đức.
Nếu nhìn Phật giáo dưới
khía cạnh của sự thật, thì chúng ta sẽ nhận thấy hiển hiện ra một thể dạng sâu
xa hơn, đấy là một thứ sự thật bị vùi lấp thật sâu mà người thường không thể nhận
thấy được. Khi nào nhận ra được sự thật đó thì cũng có nghĩa là đã hiểu được bằng
lý luận về tính cách hư ảo của tất cả mọi sự vật, biểu trưng bởi hiện tượng vô
thường, sự bất toại nguyện và tính cách vô-ngã; và cũng có nghĩa là đã hiểu được
bằng trí thức bản chất của khổ đau, sự loại bỏ hoàn toàn khổ đau; và sau hết
cũng có nghĩa là nhận thức được tất cả những thứ ấy dưới khía cạnh của sự thật
tuyệt đối, một sự thật không bao giờ thay đổi mà tất cả chúng ta phải nắm vững.
Đấy là Phật Giáo nhìn dưới khía cạnh của sự thật.
Nếu nhìn Phật Giáo dưới
khía cạnh một tôn giáo thì Phật Giáo sẽ cho thấy là một phương pháp thực dụng,
được xây dựng trên đạo đức, sự tập trung tâm thần và sự hiểu biết, và đỉnh cao
nhất của phương pháp này là mở ra một sự quán thấy sâu xa mang tính cách trực
giác. Nếu tu tập đúng theo phương pháp đó một cách tích cực và đến cùng thì sẽ nó
sẽ giúp giải thoát khỏi mọi khổ đau. Đấy
là Phật Giáo nhìn dưới khía cạnh của tôn giáo.
Sau đó là cách nhìn Phật
Giáo như là một ngành tâm lý học, đúng với những gì được trình bày trong phần
thứ ba của Tam Tạng Kinh, và trong phần này thì bản chất của tâm thức được mô tả
một cách vô cùng chính xác. Kể cả ngày nay, tâm lý học Phật Giáo vẫn còn là một
nguồn cung ứng những hiểu biết lợi ích và kỳ thú cho những nhà nghiên cứu về
tâm thần, bởi vì tâm lý học Phật Giáo sâu xa hơn rất nhiều so với những hiểu biết
do ngành tâm lý học hiện đại mang lại.
Thế nhưng lại vẫn còn một
khía cạnh khác nữa để nhìn vào Phật Giáo, ấy là khía cạnh triết học. Đối với
triết học, sự hiểu biết có thể đạt được được bằng lý luận và bằng sự hợp lý (lôgic), thế nhưng sự
hiểu biết này không thể chứng nghiệm được bằng các phương pháp thực nghiệm. Sự
hiểu biết ấy đi ngược lại với khoa học bởi vì sự hiểu biết khoa học được khám
phá ra nhờ vào cách quan sát bằng mắt, bằng các thí nghiệm vật lý và bằng các
thử nghiệm, kể cả cách "nhìn vào bên trong" nhờ vào trực giác. Thí dụ
một khái niệm thuộc loại thật sâu xa chẳng hạn như "tánh không" (vô thường) sẽ chỉ là một thứ triết học đối với những người chưa đủ
sức lắng sâu vào sự thực, thế nhưng lại là một thứ khoa học đối với những người
đã hiểu thấu được nó, tức là những người đã đạt được sự hoàn thiện và được gọi
là A-la-hán, đấy là những người đã nhìn thấy tánh không một cách minh bạch và bằng
trực giác.
Rất nhiều khía cạnh của
Phật Giáo, nhất là Bốn Sự Thật Cao
Quý (Tứ Điệu Đế), tỏ ra thật hết sức khoa học bởi vì những Sự Thật ấy có
thể kiểm chứng được bằng các kết quả thử nghiệm minh bạch nhờ vào phương pháp nội
quán (instrospection). Bất cứ ai có khả năng quan sát và hằng quan tâm đến việc nghiên cứu và
tìm tòi đều có thể nhận thấy tính cách có thể kiểm chứng được về mối tương quan
giữa nguyên nhân và hậu quả, tương tự như trong lãnh vực khoa học. Thật thế, Phật
Giáo không phải là một thứ gì mơ hồ và tối tăm, cũng không phải là một ngành triết
học đơn thuần tương tự như những ngành triết học khác do con người sáng chế.
Một vài người khác xem
Phật Giáo như một thứ văn hóa. Thật vậy, một số chuyên gia uyên bác tìm thấy
trong Phật Giáo một số khía cạnh phản ảnh chung cho tất cả các nền văn hóa, thế
nhưng cũng có những khía cạnh đặc thù chỉ có trong Phật Giáo mà thôi.
Dù sao thì trong số tất
cả các khía cạnh thật đa dạng trên đây của Phật Giáo vẫn có một khía cạnh mà
người Phật tử chân chính phải xem trọng hơn cả, đấy là khía cạnh tôn giáo của
Phật Giáo. Phải hiểu rằng trước hết Phật Giáo là một phương pháp thực dụng và
trực tiếp, giúp đạt được sự hiểu biết về bản chất đích thật của mọi sự vật, một
sự hiểu biết giúp từ bỏ tất cả mọi hình thức của sự ham muốn, bám víu, vô minh và
bế tắc, nhằm giúp mình tìm thấy sự tự do. Đấy cũng chính là cách giúp chúng ta đi
sâu vào tâm điểm của Phật Giáo. Phật giáo nhìn dưới khía cạnh đó sẽ tỏ ra hữu
ích hơn nhiều so với các cách nhìn Phật Giáo như một hệ thống luân lý đơn thuần,
hoặc như là một sự thật giới hạn bằng một sự hiểu biết sâu xa nhưng chỉ mang
tính cách lý thuyết; và cũng sẽ ích lợi hơn nhiều so với cách nhìn Phật giáo
như một triết học, vì đấy cũng chỉ là một cách tự biện và lý luận, không giúp cho
tâm thức tẩy xóa được mọi thứ ô nhiễm; và nhất định cũng sẽ ích lợi hơn nhiều
so với cách nhìn Phật Giáo như một truyền thống văn hóa, tức một thứ sinh hoạt
ngoạn mục chỉ lôi kéo được sự quan tâm của các nhà xã hội học.
Ít nhất thì cũng nên
xem Phật Giáo như là một nghệ thuật, một thứ nghệ thuật sống. Thật vậy, Phật
Giáo tượng trưng cho một tiềm năng và một sự sáng suốt giúp một cá thể biết hành
xử với tư cách con người và biết sống thật gương mẫu, đáng kính và vượt cao hơn
những người chung quanh, khiến cho mọi người phải kính phục mình. Những gì cần phải
làm là trau dồi "ba đức tính": trước nhất là giữ gìn đạo đức thật
nghiêm túc (tu giới),
sau đó là mang lại sự tĩnh lặng và thăng bằng cho tâm thức hầu giúp cho nó hoạt
động một cách hữu hiệu hơn (tu định), và sau cùng là làm phát sinh một trí tuệ phong phú và một sự quán thấy
minh bạch về bản chất đích thật của mọi sự vật (tu tuệ), khiến cho chúng không còn khả năng nào gây ra khổ đau được nữa. Những ai
đã thực hiện được ba đức tính ấy để soi sáng cuộc đời mình thì cũng có nghĩa là
họ đã đạt được điểm cao nhất của nghệ thuật sống. Người Tây phương quan tâm và
nghiên cứu hăng say nhất về khía cạnh này của Phật Giáo. Thật thế đấy là khía cạnh
giúp cho ta thâm nhập thật sâu vào điểm tinh anh và đích thật nhất của Phật giáo
để biến nó trở thành một thứ kim chỉ nam hướng dẫn cuộc đời mình, hầu mang lại cho
mình niềm hân hoan, lòng thành kính, giúp mình loại bỏ được mọi thứ lo buồn và ảo
giác. Nó còn giúp đánh tan mọi sự sợ hãi, kể cả sự sợ hãi phải lìa bỏ những gì
làm cho tâm thức bị ô nhiễm, (là sự thèm muốn, tiêu cực và u mê) bởi vì nếu thiếu những thứ ấy thì sẽ khiến cho cuộc sống
này trở nên tẻ nhạt, vô vị, không còn gì hấp dẫn nữa, hoặc cái sợ phải hoàn
toàn từ bỏ tất cả sẽ ngăn chận mọi sự vận hành của tư duy và các hành động tích
cực. Thế nhưng trên thực tế thì lại không hẳn như thế vì những ai biết xây dựng
cuộc đời mình dựa vào nghệ thuật sống của Phật Giáo thì họ sẽ khắc phục được dễ
dàng những gì xảy ra chung quanh họ. Bất cứ gì dù đấy là súc vật, con người, của
cải vật chất hay những gì khác, nếu chúng tìm cách thâm nhập vào tri thức của họ
qua các cửa ngõ như thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác hay tư
duy, thì nhất định chúng sẽ bị đánh bại và không thể nào làm cho tâm thức họ bị
u mê được, không thể đánh lừa họ được và làm cho họ bị dao động. Chiến thắng được
tất cả những thứ ấy sẽ mang lại một niềm hân hoan trong sáng.
Những ai hằng quan tâm
đến "Đạo-Pháp của Đức Phật" (Buddha-Dhamma) thì đến một lúc nào đó sẽ nhận thấy tâm thức mình bừng
tỉnh dậy. Vì thế Đạo Pháp của Đức Phật cũng có thể xem như là một thứ thực phẩm
thật cần thiết. Thật vậy, những người bị các thứ ô nhiễm tâm thần chi phối thì luôn
luôn tìm cách nuôi dưỡng mình bằng những thứ thực phẩm mang lại từ mắt, tai,
mũi, lưỡi và thân xác, tuy thế nơi họ cũng vẫn có một thứ gì khác sâu xa hơn, không
thúc dục họ chạy theo các loại thực phẩm ấy: đấy là cái thể dạng tinh khiết và phóng
khoáng của tâm hồn họ, cái thể dạng đó hướng họ vào những gì hân hoan và ngọt ngào
mang lại từ những món ăn tinh thần, và trước hết là từ những món thơm ngon của
đạo đức tinh khiết. Những món ăn tinh thần ấy mang lại sự toại nguyện cho những
ai đạt được sự tỉnh thức, tạo được cho mình một sự tĩnh lặng nội tâm cao độ, hóa
giải được tác động của những thứ ô nhiễm thường làm cho tâm thức bị u mê, giúp
họ đạt được một sự quán thấy minh bạch về bản thể đích thật của mọi vật thể,
khiến họ không còn bám víu vào chúng nữa. Đấy là những sinh linh biết dừng lại,
không còn chạy ngược chạy xuôi giống như những người mà Đức Phật ví như những "đám
khói của ban đêm và ngọn lửa của ban ngày".
"Đám khói của ban đêm" có nghĩa là mất
ngủ, bồn chồn, những ai vướng vào căn bệnh ấy thì đêm đêm cứ vắt tay lên trán
mà lo nghĩ đến những gì phải làm, suy nghĩ tìm cách nào tốt nhất để trở nên
giàu có hầu cung ứng tất cả những gì mà mình ước mong. Tâm thức họ dầy đặc những
"đám khói". Thế rồi nào họ có biết làm gì khác hơn là nằm thẳng cẳng cho
đến sáng, để rồi lại phải đứng lên tiếp tục chạy ngược xuôi tìm cách thỏa mãn
những dục vọng của "đám khói" mà họ ấp ủ suốt đêm hôm qua - Đức Phật
gọi sự sinh hoạt cuồng nhiệt đó là "ngọn lửa của ban ngày". Các triệu
chứng ấy cho thấy một tâm thức bất an, thiếu hẳn những món ăn tinh thần, một
tâm thức phải chịu đựng những cái đói và cái khát bệnh hoạn phát sinh từ sự
thèm muốn. Suốt đêm, những nạn nhân đáng thương ấy ấp ủ cẩn thận các "đám
khói" để giữ hơi nóng, chờ đến sáng hôm sau sẽ làm cho chúng bùng lên
thành ngọn lửa để đốt cháy mình trong suốt ngày hôm ấy. Nếu trọn đời, ta chỉ biết
ban đêm thì ủ khói, ban ngày thì làm cho nó bùng cháy lên, thì làm thế nào mà
ta có thể tìm thấy được sự trong sáng và an bình? Cứ thử nghĩ lại xem có đáng
buồn hay không nếu suốt đời từ lúc mới sinh cho đến lúc cái chết xảy đến, chúng
ta phải chịu đựng cái cảnh đọa đày và khổ sở ấy, đơn giản chỉ vì không biết phát
huy một sự quán thấy sâu xa giúp dập tắt đi các "đám khói" và các "ngọn
lửa" ấy. Nếu muốn chữa trị chứng bệnh ấy thì phải cần đến sự hiểu biết - tức
là những "phương thuốc" - mà Đức Phật đã ban cho chúng ta. Khói và lửa
sẽ giảm bớt đi khi các mức độ hiểu biết về bản chất đích thật của mọi sự vật
gia tăng.
Như chúng ta đã thấy,
Phật giáo gồm có nhiều khía cạnh hay thể dạng khác nhau. Một quả núi sẽ hiện ra
dưới những hình thù khác nhau tùy theo các hướng nhìn khác nhau, đối với Phật
Giáo cũng thế, tùy theo cách nhìn của chúng ta mà Phật Giáo sẽ mang lại những lợi
ích khác nhau. Phật Giáo nào có khác gì với các tôn giáo khác, cũng sinh ra từ sự
sợ hãi của con người - thế nhưng không phải từ sự sợ hãi của những kẻ ngu đần chỉ
biết quỳ lạy dưới chân các vị thần thánh hay các hiện tượng thiêng liêng - mà đúng
hơn đấy là một thứ sợ hãi thật tinh tế, sợ hãi phải mãi mãi bị trói buộc trong sinh,
lão, bệnh, tử, sợ hãi không đủ sức vượt lên được những khổ đau đang phơi bày ra
trước mặt. Căn bản Phật Giáo đích thật không nằm trong các trang sách, không ẩn
chứa trong những lời tụng niệm bất tận, hoặc những gì được ghi chép trong Tam Tạng
Kinh, lại càng không phải là những gì phản ảnh từ các nghi thức và lễ lạc. Giáo
lý của Đức Phật đích thật là một phép tu tập giúp tẩy sạch những thứ "ô nhiễm"
thường mượn các cửa ngõ của thân xác, ngôn từ và tư duy để thâm nhập vào tâm
trí và làm cho nó bị u mê. Phép tu tập đó không cần đến kinh điển hay các tập sách
chỉ dẫn, cũng không cần đến nghi lễ hay bất cứ thứ gì từ bên ngoài, kể cả thần thánh
và các vị thiên nhân trên trời, mà nhất thiết chỉ cần trực tiếp tập trung và canh
chừng những gì phát sinh từ thân xác, ngôn từ và tư duy; nói một cách khác là
phải cố gắng và kiên trì loại bỏ những gì có thể làm cho tâm thức bị u mê, hầu giúp
cho sự quán thấy minh bạch và sâu xa có thể hiển hiện. Khi thực hiện được điều
đó thì đương nhiên chúng ta sẽ có đủ khả năng để hành động một cách thích nghi trong
bất cứ một bối cảnh nào. Và từ đấy cho đến cuối cuộc đời, chúng ta cũng sẽ tự
giải thoát cho mình khỏi mọi khổ đau. Đấy là căn bản Phật Giáo Đích Thật mà
chúng ta phải học hỏi.
Trích:
BUDDHADASA
QUYỂN SÁCH CHO NHÂN LOẠI
Tóm lược Đạo Pháp của Đức Phật
Hoang Phong chuyển ngữ
Nhà Xuất Bản Phương Đông 2012