1. Xuất xứ lễ Vu Lan
Vu Lan hay Vu Lan bồn có nguồn gốc từ
chữ phạn Ullambana, dịch sang tiếng Hán ngữ là Giải đảo huyền, tức là gỡ
khỏi nạn treo ngược–theo nghĩa tiếng Việt. Mà hiểu rộng ra là nhờ vào
sự thành tâm chú nguyện của Thập phương chư Tăng mà chúng ta có thể cứu
được cha mẹ, tổ tiên thoát khỏi cảnh tội đồ, cầu nguyện cho chúng sinh
được siêu thoát, khỏi vòng sinh tử luân hồi.
Theo Phật thoại: Tôn giả Mục Kiền Liên là một trong số 10 đại đệ tử của
Ðức Phật. Ngài có quyền pháp vô biên (Thần thông đệ nhất), nhưng không
vì thế mà Ngài quên đi nghĩa vụ của một người con đối với cha mẹ. Ngài
tưởng nhớ đến mẫu thân là bà Thanh Đề đã qua đời và muốn biết bây giờ mẹ
như thế nào nên dùng tuệ nhãn quan sát khắp “bốn phương tám hướng” để
tìm. Thấy mẹ mình, vì gây nhiều nghiệp ác nên phải sanh làm ngạ quỷ,
thân thể gầy héo, xanh xao, bị đói khát hành hạ khổ sở, chỉ còn da bọc
xương, khổ đau khôn xiết. Dù biết đó là do kết quả của thói tham lam,
độc ác, sự dối trá từ thuở sinh thời mẹ đã gây nên, nhưng Ngài vẫn không
khỏi thương xót. Dùng thần thông của mình, Tôn giả Mục Kiền Liên đã đem
cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ. Tuy nhiên do đói ăn lâu ngày nên mẹ
của ông khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình đi tranh không cho
các cô hồn khác đến tranh cướp, vì nghiệp quá lớn nên thức ăn khi đưa
lên miệng đã hóa thành than đỏ. Chứng kiến cảnh tượng ấy, Ngài rất đau
lòng, về bạch lại với Phật, mong Ðức Phật cứu vớt để linh hồn mẹ mình
được siêu thoát. Cảm động trước tấm lòng hiếu nghĩa của Tôn giả Mục Kiền
Liên, Ðức Phật đã chỉ cách để Ngài có thể cứu vớt được mẹ ra khỏi cảnh
đoạ đầy. Ðức Phật nói: “Ông tuy quyền phép vô biên, lại hiếu thảo hơn
người, tấm lòng của ông làm cảm động cả trời đất nhưng tội ác của mẹ ông
quá nặng, một mình ông không thể cứu được mẹ. Ðến ngày rằm tháng bẩy,
Chư Phật hoan hỉ, Chư Tăng tự tứ, hãy sửa soạn lễ vật cúng dường, thành
tâm thỉnh cầu Chư Tăng chú nguyện thì mẹ ông mới có thể siêu thoát
được”.
Theo lời Phật dạy, nhằm ngày Rằm tháng Bảy, Tôn giả Mục Kiền Liên lập
bồn Vu Lan (chậu đựng đồ lễ cúng dàng), thỉnh mời Chư Tăng đến chú
nguyện. Nhờ đó bà Thanh Ðề mới được siêu thoát. Các vong linh khác cũng
nhờ phúc lành của Chư Tăng mà được siêu thoát. Phật cũng dạy rằng chúng
sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu Lan Bồn Pháp).
Từ đó ngày lễ Vu Lan ra đời.
Noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên, hàng năm, cứ đến ngày Rằm
tháng Bảy các tín đồ, Phật tử khắp nơi lại tưng bừng tổ chức ngày lễ Vu
Lan với tín tâm cầu cha mẹ, ông bà, tổ tiên mình sẽ được thoát khỏi tội
đồ.
2. Ý nghĩa của ngày Vu lan
- Ngày lễ Vu Lan là dịp “nhắc nhở” các thế hệ con cháu chúng ta nhớ tới
công ơn dưỡng dục sinh thành của cha mẹ, ông bà, tổ tiên cũng như những
đóng góp to lớn của các anh hùng dân tộc, những người có công với đất
nước. Ðồng thời giúp chúng ta tiếp cận được những ý nghĩa giáo dục đầy
nhân bản của văn hoá Phật giáo đó là “Từ, bi, hỷ, xả”, “vô ngã, vị tha”,
“uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”...
- Không riêng gì với mỗi Phật tử chúng ta, lễ Vu Lan mở ra cả một mùa
báo ân, báo hiếu. Báo hiếu ở đây là báo hiếu đối với cha mẹ, không chỉ ở
kiếp này mà còn ở nhiều kiếp khác, bởi Phật giáo luôn nhìn nhận con
người trong mối tương quan nhân quả, trong vòng nghiệp báo luân hồi. Và
cũng chính vì nhìn nhận dưới góc độ đó mà hết thảy mọi chúng sinh trong
xã hội đều có mối quan hệ với nhau. Ðiều này dẫn đến việc chúng ta phải
mở rộng phạm vi báo hiếu ra tất cả chúng sinh. “Phổ độ chúng sinh”, “cứu
nhân, độ thế”, “xá tội vong nhân” nhờ vậy mà được hình thành.
- Người Việt cử hành lễ Vu Lan nhằm giải tội cho người chết, cầu phúc
cho người sống. Ngoài việc cầu siêu cho gia tiên, người Việt còn có lễ
cầu siêu cho các vong linh đã khuất, cô hồn, u hồn của người khi tại thế
đã thất cơ lỡ vận, phiêu bạt bơ vơ, không nơi nương tựa để sớm thoát
khỏi kiếp khổ đau. Vậy là tục cúng các cô hồn của người Việt đã giao hoà
với tinh thần cứu khổ cứu nạn, cứu nhân, độ thế của nhà Phật làm cho lễ
Vu Lan thêm phần phong phú và sống động”(1)
3. Chữ Hiếu trong đạo Phật:
- Ðạo Phật là đạo hiếu, lấy tình thương yêu con người (và cả muôn loài)
làm đầu. Tình thương này bắt nguồn từ tình thương cha mẹ, sau đó mới mở
rộng ra thành tình người, tình nhân loại. Chính vì vậy, trong các kinh
điển của mình Ðức Phật dạy về đạo hiếu nhiều không kể xiết. Nào đời nay
đã có hiếu. Nào kiếp trước cũng đã có hiếu. Nào hiếu về cung dưỡng cha
mẹ. Nào hiếu về độ siêu cho cha mẹ.... Do đó, muốn tu theo Phật giáo
phải lấy chữ hiếu làm đầu bởi vì kinh Phật đã dạy: “Phụng thờ cha mẹ là
phụng thờ Ðức Phật”. Cụ thể hơn, Ðức Di Lặc đã có bài kệ rằng:
Trên nhà có
hai pho tượng Phật
Thương cho người đời không biết mà.
Tượng ấy chẳng dùng vàng son phủ
Cũng chẳng phải gỗ mít tạc ra.
Tượng ấy chính là cha với mẹ
Chính là Di Lặc và Thích Ca
Nếu cúng dàng được hai tượng ấy
Còn phải cầu công đức đâu xa
Và vì cha mẹ là người sinh ra ta, nuôi nấng dạy dỗ chúng ta từ thuở ấu
thơ cho đến khi về già. Công lao đó của cha mẹ thật bao la, tựa non, tựa
bể. Chính vì vậy, để phần nào đền đáp lại cái ơn nghĩa đó, chúng ta
“Một lòng thờ mẹ, kính cha; Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Ở đây sở
dĩ nói phần nào bởi vì theo kinh Phật: “Trên thế gian này, công ơn cha
mẹ là điều to lớn nhất”(4). Chính Đức Phật đã từng nhiều lần dạy: “Này
các Tỳ kheo, có hai người mà ta không thể trả ơn đó là chính là cha và
mẹ”(5). Với ơn nghĩa sinh thành ấy, chúng ta dù có “trăm nghìn muôn kiếp
tán xương róc thịt ra để phụng dưỡng cha mẹ cũng vẫn chưa đền đáp
được”.
Sự hiếu nghĩa của con cái đối với cha mẹ không chỉ được thể hiện trong
sự cung phụng về vật chất mà còn trong lĩnh vực tinh thần. Cha mẹ cần
tình cảm và sự chăm sóc của con cái: “Trẻ cậy cha, già cậy con”. Vì thế,
bên cạnh việc lo chu đáo “miếng cơm, manh áo” cho cha mẹ, chúng ta cần
phải “sớm viếng, tối thăm”, trò chuyện, vấn an cha mẹ để cha mẹ thật sự
vui vẻ an hưởng tuổi già. Nhất là khi cha mẹ đau yếu, phải “rước thầy,
đổi thuốc: hết lòng chăm sóc từ miếng ăn, nước uống, trên sắc mặt lúc
nào cũng vui tươi, cầu cho bệnh chóng khỏi. Bổn phận làm con, làm được
như thế, gọi là báo hiếu trong muôn một”.
Cùng một quan điểm như vậy, từ hơn 2500 năm truớc Ðức Khổng Tử cũng đã
từng dạy: “Ðời nay thấy ai nuôi dưỡng được cha mẹ thì khen là có hiếu.
Nhưng chó, ngựa cũng được nuôi dưỡng. Vì thế nếu nuôi cha mẹ mà không
kính trọng thì khác gì nuôi thú vật”.
Hoặc như kinh Lễ cũng có đoạn viết: “Khi cha mẹ còn sống mà chỉ chăm chú
vào việc làm giàu, không phụng dưỡng cha mẹ là không tròn đạo hiếư”.
Ðức Khổng Tử còn dạy tiếp: “Có việc thì mình giúp, có rượu, thức ăn ngon
mời cha mẹ là hiếu chăng? Giữ được sắc mặt vui vẻ khi ở chung với cha
mẹ mới thật khó”.
Tuy nhiên, cũng đừng vì đặt quá chữ hiếu lên đầu mà chúng ta làm những
điều “bất nhân, thất đức” hay hùa theo cha mẹ làm những điều ác, điều
xấu để làm hại người khác. Hiếu như thế là “ngu hiếu”. Mà phải “Phát tâm
học Phật, tu Phật rồi khuyên cha mẹ biết ăn chay niệm Phật, làm các
phúc thiện thì mới có thể báo đền cân xứng với công sinh nuôi của cha mẹ
như lời Phật đã dạy”(10). Bên cạnh đó, cũng phải sáng suốt để vừa hiếu
thuận với cha mẹ lại vừa “lợi lạc, quần sinh”, vừa kế thừa và phát huy
được những đức tính tốt của cha mẹ lại vừa biết khuyên can cha mẹ rời xa
những điều không tốt(11), ấy mới là “chân hiếu”(12), là “trí hiếu”(13),
là hiếu đễ thực sự như mọi người hằng ngưỡng mộ...
Tiếc thay, trong xã hội chúng ta hiện nay do những ảnh hưởng tiêu cực
của nền kinh tế thị trường ít nhiều đã xuất hiện lối sống thực dụng,
chạy theo lợi ích vật chất tầm thường mà quên đi những giá trị truyền
thống của bản sắc văn hoá dân tộc, quên đi những nghĩa vụ thiêng liêng
của con cái đối với cha mẹ. Phải thừa nhận rằng, thực tế vẫn còn có
không ít những quan niệm về đạo hiếu thật đơn giản và lệch lạc. Do đó,
khi vận dụng vào cuộc sống đã không mang đầy đủ ý nghĩa đích thực của
nó, biến đạo hiếu trở thành một thứ hình thức, câu nệ tầm thường, dẫn
đến việc thực hành đạo hiếu chỉ còn là trách nhiệm, là nghĩa vụ mà không
xuất phát lừ đáy lòng, từ trong tâm. Hoặc nếu không gượng ép thì cũng
là thỉnh thoảng, không thường xuyên, mà nhiều khi còn mang tính thời
điểm, cơ hội, sử dụng cha mẹ như những “công cụ” để mang lại lợi ích cho
bản thân. Thật xót xa khi xã hội còn có những đứa con bất hiếu, những
“nghịch tử” đang hàng ngày, hàng giờ ruồng rẫy cha mẹ, coi cha mẹ như
gánh nặng bên mình. Ấy vậy mà khi cha mẹ chết đi thì lại tổ chức ma chay
linh đình những để người ngoài trông vào mà nghĩ đó là những đứa con
“hiếu để”. Những “tấm gương” tày liếp đó, thiết nghĩ báo chí đã tốn
không biết bao nhiêu giấy mực để lên án. Nhưng, dù có viết bao nhiêu đi
chăng nữa cũng vẫn là chưa đủ nếu như chúng ta chưa hình thành đủ các
chuẩn mực đạo đức cần thiết để có thể điều chỉnh được những hành vi “phi
nhân tính” đó. Hay như bản thân mỗi con người không tự tu dưỡng, rèn
luyện nhân cách, đạo đức để có thể có một cuộc sống lành mạnh, có ích,
dời xa những cám dỗ của dục vọng...
Ðức Phật cũng chính là một tấm gương sáng về đạo hiếu. “Ðạo hiếu này tức
như Ðức Thích Ca để phụ vương ở lại mà trốn vào rừng đi tu. Nhưng Ngài
cố tu học cho đến thành Phật. Ðến nay người ta sùng bái Ngài mà sùng bái
đến cả Tịnh Phạn vương. Ngôi vua nào tôn vinh, tràng viễn bằng”(. Hay
như khi Tịnh Phạn đại vương lâm chung. Ngài đã đứng ra lo liệu mọi việc,
quỳ lạy trước vong linh cha rồi cung kính nghinh tiễn kim quan cha về
nơi “an nghỉ cuối cùng” cho trọn đạo làm con. Như vậy, đã là tạo hiếu
thì các đấng toàn năng, các bậc thánh hiền, hay người phàm trần cũng đều
như nhau. Và dù có là Ðấng Giác Ngộ cao minh với quyền pháp vô biên hay
một người dân bình thường nhất, thì với cha mẹ con cái bao giờ cũng vẫn
là con cái, vì vậy, lo lắng hậu sự cho cha mẹ phải chăng là điều không
cần phải bàn cãi gì thêm nhiều nữa.
Bấy nhiêu chưa đủ để nói lên tất cả những điều muốn nói của bản thân
người viết cũng như của toàn xã hội, song, từ sự phân tích trên chúng ta
cũng đã phần nào thấy được những ý nghĩa giáo dục cao cả của văn hoá
Phật giáo trong tiến trình hình thành và phát triển bản sắc văn hoá dân
tộc Việt Nam. Nhân mùa báo hiếu chúng ta cũng nhận thức lại những ý
nghĩa đúng đắn của ngày lễ Vu Lan để có những hành động thiết thực hơn,
tích cực hơn cho gia đình và cho xã hội. Có làm được như vậy thì mới có
thể tự giải thoát được cho mình để rồi giải thoát cho người khác.
Phát huy truyền thống nhập thế của Phật giáo Việt Nam, chúng ta nguyện
tu tập theo gương hiếu đễ của người xưa để góp phần xây dựng một xã hội
tốt lành, thực hiện “tốt đời, đẹp đạo”.
Xin được thay cho lời kết, bằng việc mượn lời của Ni sư Thích Ðàm Hà
trong bài “Cảm nghĩ về chữ Hiếu trong đạo Phật”
Thân người gốc
ở mẹ cha
Trải bao cay đắng cũng là vì con
Công ơn như biển, như non
Ðạo làm con phải lo tròn hiếu tâm
Báo đền trả nghĩa ân thâm
Những điều hiếu nghĩa trọng tâm nghĩ bàn
Người ta sống ở thế gian
Bao nhiêu hưởng thụ bấy nhiêu ơn nhờ
Ơn dân, ơn nước, ơn người,
Ơn thày, ơn bạn, ơn đời giúp ta