Tiết mục:
I. Ý nghĩa Tiểu-thừa, Đại-thừa
II. Khởi nguyên phân biệt giữa hai phái
III. Những điểm sai biệt của hai phái
IV. Dung hội các thừa
Kinh sách tham khảo:
Kinh Diệu-Pháp-Liên-Hoa, Kinh Văn-Thù-Bát-Nhã, Kinh Tạp-A-Hàm,
Trí-Độ-Luận, Nhập-Đại-Thừa-Luận, Ấn-Độ-Phật-Giáo-Sử Lược,
Phật-Giáo-Khái-Luận.
Đề yếu: Ý nghĩa Đại,
Tiểu-thừa và sự sai biệt giữa đôi bên, đã thường gây nhiều thắc mắc cho
người sơ cơ học Phật. Để giải thích phần nào mối hoài nghi ấy, trong
tiết thứ nhất thuộc bản chương đưa ra ba sự kiện: pháp môn, tế độ, quả
vị để lược bàn về quan điểm hơn kém của song phương. Hai tiết kế, tiếp
tục nói qua nguyên nhân phân biệt và sự sai khác giữa Tiểu-thừa,
Đại-thừa, mà yếu tố chính không ngoài cảnh duyên và sự nhận thức của cá
tính. Tiết sau cùng, trích dẫn kinh Tạp-A-Hàm và đại ý phẩm Phương-Tiện
trong kinh Pháp-Hoa, chỉ rõ các thừa đều là những nấc thang phương tiện
để đi đến Phật-thừa, trong một đời thuyết giáo, Ðức Thế-Tôn duy nói
Nhất-thừa-pháp mà thôi.
Thể nhận nghĩa nầy, người học Phật sẽ tự giải thích được tâm niệm phân vân, chia rẽ.
Tiết I: Ý Nghĩa Tiểu Thừa, Đại Thừa
Khi
đức Phật còn ở đời, vì tùy trình độ của mọi người, mà Ngài thuyết pháp
có cạn sâu, cao thấp. Lại đôi khi, thính chúng tuy cùng nghe một giáo
lý, nhưng sự lĩnh hội của mỗi người có thấp cao, rộng hẹp không đồng.
Nhân đó, về sau mới nảy sanh ra sự phân biệt giữa Đại-thừa (Mahàyàna) và
Tiểu-thừa (Hìnayàna).
Đại-thừa là gì? Một lời tổng quát, đó là
“giáo pháp dạy tất cả hữu-tình thành Phật”. Đứng về phương diện phân
tích, chữ “Thừa” là vận tải, vận độ, nghĩa là chuyên chở. Giáo lý của
Phật dạy có đủ công năng, phương pháp, dắt đường chỉ lối, chuyên chở
chúng-sanh từ cõi trần lao phiền não đến cảnh thanh tịnh an vui, từ biển
sống chết luân-hồi đến bến Niết-bàn giải thoát, nên gọi là “Thừa”.
Trong danh từ Tiểu-thừa, chữ “Tiểu” có những nghĩa: hẹp, nhỏ, thấp.
Nghĩa “hẹp” của Tiểu-thừa, là chỉ cho quan niệm của người tu duy lo tự
độ, tự đưa mình đến chỗ giải thoát, không đoái hoài đến bao nhiêu
chúng-sanh khác đang ở trong biển trầm luân. Có điều nên phân biệt, nếu
người nào có hoài bão lòng tha thiết độ sanh, tuy dùng pháp Tiểu-thừa để
giáo hóa, song thật ra lại thuộc về tâm niệm Đại-thừa. Và những kẻ tuy ở
nơi non cao rừng thẳm, không tiếp xúc với đời, nhưng có bi nguyện tự độ
để độ tha, cũng thuộc về tâm niệm Đại-thừa. Nghĩa “nhỏ” của Tiểu-thừa,
là chỉ cho giáo pháp cạn cợt, chỉ thích hợp, hóa độ được một hạng người,
không thích hợp hóa độ được mọi tầng lớp chúng-sanh. Điểm cạn cợt nầy
là sự chấp nhận trong phạm vi giáo pháp Tứ-đế, Thập-nhị-nhân-duyên. Một
điều nên nhận định, tiểu pháp không thể bao hàm đại pháp, nhưng trái lại
đại pháp bao hàm tiểu pháp; vì thế Tứ-đế, Thập-nhị-nhân-duyên cũng là
một phương tiện trong sự độ sanh của Đại-thừa. Nghĩa “thấp” của
Tiểu-thừa là chỉ cho giáo pháp đưa người đến quả vị thấp của Thanh-Văn,
Duyên-Giác, không đưa đến quả vị cao siêu cứu cánh của Phật-Ðà. Giáo
pháp nầy cũng chính là Tứ-đế, Thập-nhị-nhân-duyên. Tóm lại “Tiểu-thừa”
có ba ý nghĩa: “sự vận tải hẹp, nhỏ, thấp”, như trên.
Phản ảnh lại, danh từ Đại-thừa cũng có ba nghĩa:
rộng, lớn và cao. “Rộng” là độ mình và tất cả chúng-sanh; “lớn” là đủ
các pháp môn thích hợp với mọi căn cơ; “cao” là đưa loài hữu-tình đến
quả vị Vô-thượng-chánh-giác. Cả hai danh từ Tiểu-thừa, Đại-thừa, nếu mỗi
bên thiếu một trong ba ý nghĩa trên, thì không thể thành lập.
Đại-thừa,
tiếng Phạm gọi là Ma-Ha-Diễn-Na (Mahàyàna). Đầu tiên, danh từ nầy không
có tính cách để đối chọi với Tiểu-thừa, đại ý của nó là chỉ cho những
giáo lý cao thâm, những pháp môn rộng lớn có công năng độ khắp
chúng-sanh mà thôi. Vì thế, trong kinh Đại-thừa vẫn có những danh từ
thuộc Tiểu-thừa, và trong kinh Tiểu-thừa ta cũng thường thấy những danh
từ thuộc Đại-thừa. Khi Ðức Thế-Tôn còn ở đời, giáo pháp của Ngài tuy hàm
ẩn cả Đại, Tiểu-thừa, nhưng trong giáo đoàn vẫn hòa hợp tu hành, không
có sự phân biệt lớn nhỏ, cao thấp. Khoảng thời gian 600 năm sau Phật
diệt độ, tuy chư Tăng chia thành nhiều bộ phái, song cũng không có sự
đối lập giữa Đại, Tiểu-thừa. Trong các chi phái thuộc ba hệ thống
Hữu-bộ, Đại-chúng và Độc-Tử, có nhiều vị nghiên cứu Kinh-luận Đại-thừa.
Như ngài Chân-Đế nói: “Giáo đồ của Đại-Chúng-bộ ở thành Vương-Xá cũng
học hỏi truyền bá những Kinh-điển Đại-thừa như Hoa-Nghiêm, Niết-Bàn,
Thắng-Man, Duy-Ma, Kim-Quang-Minh, Bát-Nhã...”
Nhưng từ 600 năm
sau Phật diệt độ trở đi, do tư tưởng tiến triển của quần chúng, do hoàn
cảnh, nhân duyên, sự phân biệt và đối lập giữa hai tập đoàn lớn trong
Phật-giáo lâm vào tình trạng không thể tránh khỏi.
Tiết II: Khởi Nguyên Phân Biệt Giữa Hai Phái
Nhân duyên phân biệt giữa Tiểu-thừa và Đại-thừa, đại ước có ba điểm:
1. Do hoàn cảnh:
Đại-thừa Phật-giáo bộc hưng, một phần do ảnh hưởng của hoàn cảnh bên
ngoài. Xét theo lịch sử, từ đời A-Dục-Vương về sau, quần chúng miền
Bắc-Ấn thường giao thiệp với dân tộc hai xứ Hy-Lạp, Ba-Tư. Những nhà học
Phật ở Bắc-Ấn lúc ấy càng ngày càng đông. Do sự tiếp xúc với ngoại
nhân, họ lần lần chịu ảnh hưởng tư tưởng tôn-giáo của hai xứ đó, nên có
nhiều nhà học Phật chủ trương sùng bái cầu nguyện. Bởi nguyên nhân nầy,
thuyết tha-lực vãng sanh đã sẵn có trong Kinh-điển Phật-giáo được đề
khởi lên. Thời bấy giờ, phong trào cầu vãng sanh về cõi Đâu-Suất của
Di-Lặc Bồ-Tát, cõi Cực-Lạc của Phật A-Di-Đà, cõi Lưu-Ly của Phật
Dược-Sư, cõi Diệu-Hỷ của Phật A-Súc-Bệ rất thịnh hành. Trong đây chỉ có
thuyết vãng sanh Cực-Lạc là được lưu thông hơn cả. Người ta gọi phong
trào nầy là Chủ-tình-đại-thừa-giáo.
Mặt khác, sau Phật diệt độ
500 năm, các phái ngoại-đạo lần lần phục hưng, lý thuyết của họ càng
ngày càng được cải cách thêm đến mức siêu việt. Song song với phong trào
đó, kho tàng Phật-giáo cũng phải được khai thác triệt để, mới có thể
đối phó với ngoại-đạo và giải quyết đầy đủ mối nghi ngờ của học giả. Vì
thế, Đại-thừa Phật-giáo phải ra đời để thích ứng với thời đại.
2. Do trào lưu tư tưởng:
Khởi nguyên tư tưởng Đại-thừa Phật-giáo lẽ dĩ nhiên đã có từ khi Ðức
Như-Lai còn tại thế. Sau khi Ðức Thế-Tôn diệt độ 100 năm, giáo đoàn đạo
Phật chia thành Thượng-Tọa-bộ và Đại-Chúng-bộ, rồi lần lần phát sanh ra
các chi phái. Giáo nghĩa của các bộ phái đó phần nhiều bao hàm cả đạo lý
Đại-thừa. Tư tưởng của học giả cũng biến thiên theo trào lưu, từ đời
A-Dục đến đời Ca-Nị-Sắc-Ca, quan niệm Đại-thừa-giáo càng ngày càng phát
hiện thêm rõ rệt.
Trên phương diện địa lý, tư tưởng nầy bắt
nguồn từ xứ An-Đạt-La thuộc Nam-Ấn-Độ. Giáo nghĩa nẩy nở đầu tiên là
Ma-Ha-Bát-Nhã, phát xuất từ Đại-Chúng-bộ. Trong kinh Bát-Nhã có đoạn
Phật dự ký: “Sau khi Như-Lai niết-bàn, kinh nầy được truyền về phương
nam, rồi từ đó lưu chuyển đến phương tây và lên phương bắc”. Lời dự ký
nầy đã chứng minh cho Đại-thừa Bát-Nhã xuất phát từ phương nam. Đại-thừa
Phật-giáo ở Bắc-Ấn-Độ phát nguyên từ địa phương nào, sự kê khảo chưa
được chính xác. Nhưng theo ngài Huyền-Trang thì tại xứ Câu-Tát-La
(Kosala), Kinh-điển Đại-thừa rất nhiều, Phật-pháp ở đây cực thịnh và
được truyền bá đi các nơi khác. Hoặc giả địa phương nầy là chỗ phát
nguyện của Đại-thừa Phật-giáo miền Bắc-Ấn chăng?
3. Do các học giả phát khởi:
Sau khi Phật diệt độ, một mặt do trào lưu tư tưởng lần lần biến thiên,
nên sự đòi hỏi thích ứng với quan niệm quần chúng càng ngày càng thêm
cần thiết. Mặt khác, giáo nghĩa của ngoại-đạo cũng lần lần được cải
tiến, họ biết rút lấy cái hay của các phái khác trong ấy có cả đạo Phật,
để bổ khuyết thêm cho học thuyết của mình. Vì thế, lập luận của họ càng
ngày thêm vững vàng, trong đó các phái Thắng-luận, Số-luận, Phệ-Ðàn-Đà
luôn luôn bài xích Phật-giáo. Giữa lúc ấy, phần đông chư Tăng lại thiên
về khuynh hướng giải thoát, bảo thủ lấy truyền thống xưa, nên thanh thế
Phật-giáo lần lần thấy sút kém trước ảnh hưởng của ngoại-đạo. Để cứu vãn
tình thế và thích ứng thời cơ, sau Phật diệt độ 700 năm, hai ngài
Mã-Minh, Long-Thọ nối nhau xuất hiện, trứ tác các bộ như:
Đại-Thừa-Khởi-Tín-Luận, Đại-Trang-Nghiêm-Luận-Kinh, Trí-Độ-Luận,
Thập-Trụ-Tỳ-Bà-Sa-Luận, Trung-Quán-Luận để phát huy ý nghĩa Đại-thừa
Phật-giáo. Kế tiếp sau hai ngài, có các vị như Đề-Bà, La-Hầu-La,
Bạt-Đà-La, Vô-Trước, Thế-Thân cũng cực lực đề xướng đạo lý nầy.
Xét
ra, đứng về mặt bao quát, Đại-thừa kiêm cả Tiểu-thừa. Nhưng Đại-thừa
giáo sở sĩ được biệt lập là để đối kháng với quan niệm bảo thủ và xu
hướng tự giải thoát của phần đông chư Tăng thời bấy giờ. Nhưng hoàn cảnh
hoặc trào lưu tư tưởng chỉ là nhân duyên phát khởi, mà thành quả lại do
sự xướng lập của chư đại-đức Mã-Minh, Long-Thọ, Vô-Trước, Thế-Thân. Cho
nên người sau thường gọi các ngài là những nhà cách mạng Phật-giáo.
Vậy,
khởi nguyên của Đại-thừa Phật-giáo là bởi ba lý do trên. Quan niệm phân
biệt, khen chê giữa Đại-thừa và Tiểu-thừa sau nầy, thật ra cũng có.
Nhưng sự đối lập giữa hai tập đoàn lớn trong Phật-giáo là một lẽ tất
nhiên của thời đại, mà dù muốn dù không, người ta vẫn không thể tránh.
Tiết III: Những Điểm Sai Biệt Của Hai Phái
Đứng
về phương diện lịch sử mà nói, sự đối lập giữa Tiểu-thừa và Đại-thừa có
ba nguyên nhân như trên. Nhưng về phương diện lập thuyết, thì hai phái
hoàn toàn khác nhau từ chỗ phát tâm đến giáo, lý, hạnh, quả. Trong
Trí-Độ-Luận, ngài Long-Thọ nói: “Phật-pháp đồng một vị, đó là vị giải
thoát. Trong vị giải thoát nầy có hai thứ: một là chỉ vì mình, hai là vì
tất cả chúng-sanh. Cho nên, tuy đồng cầu giải thoát, mà có sự lợi mình
và mình người đều lợi khác nhau. Vì thế, mới có sự sai biệt giữa
Tiểu-thừa, Đại-thừa”. Xem đây thì biết, sự khu phân của hai phái không
phải chỉ thuộc trên nguyên nhân, mà còn trên phương diện chủ thuyết. Căn
cứ theo Nhập-Đại-Thừa-Luận của ngài Kiên-Ý và xét qua chủ trương lập
thuyết đôi bên, ta có thể chia sự sai biệt giữa Tiểu-thừa và Đại-thừa
thành tám điểm như sau:
1. Tâm-lượng: Hàng
Tiểu-thừa tâm lượng hẹp hòi, gấp cầu giải thoát mọi sự khổ não trong
đường sanh-tử. Họ chỉ biết độ cho mình hơn là độ cho kẻ khác. Hàng
Đại-thừa tâm lượng rộng rãi, quyết đạt đến lý tưởng tự lợi lợi tha. Hơn
nữa, họ còn lấy việc lợi tha làm chủ đích.
2. Căn-cơ:
Tiểu-thừa là hàng căn tánh tối chậm, chỉ tin hiểu những tiểu pháp như
Tứ-đế, Thập-nhị-nhân-duyên. Đại-thừa là hạng có thắng giải đại tánh,
không thích tiểu pháp mà ưa thọ trì những đại pháp như:
Ngã-pháp-câu-không, Duyên-khởi-như-huyễn.
3. Nhân-sanh-quan:
Tiểu-thừa khuynh hướng về Nhân-sanh-quan vô thường, nhiều khổ não. Vì
vậy, họ chủ trương phá tan Tiểu Ngã, mong sớm chứng vào thể tánh vắng
lặng, và lấy đó làm chỗ giải thoát an vui. Đại-thừa cũng bắt đầu từ quan
niệm ấy, nhưng lại hiểu rằng các pháp như huyễn, chúng-sanh chính là tự
tánh của mình. Cho nên lập thuyết của họ là phá chấp trên Ngã, Pháp, để
khuếch trương Ðại-ngã, không cần phải lìa đời xa lánh chúng-sanh, mà
vẫn được giải thoát tự tại.
4. Vũ-trụ-quan:
Tiểu-thừa đối với vạn hữu thì cuộc hạn trong phạm vi hiện tượng luận
sanh diệt, yếu tố để giải thích của họ duy có 75 pháp. Sự chứng biết của
Tiểu-thừa cũng chỉ trong vòng Tam-thiên-đại-thiên-thế-giới, cho nên họ
không tin có Tha-phương Tịnh-độ. Đại-thừa thì ngoài hiện tượng sai biệt,
còn thuyết minh chân-như bình đẳng không sanh diệt để đạt đến bản thể
luận. Yếu tố để giải thoát vạn hữu của họ gồm có 100 pháp. Họ tin nhận
rằng, ngoài thế-giới nầy còn có vô số Uế-độ và Tịnh-độ như vi-trần. Tất
cả đều là thể Như-huyễn-tự-tánh thanh-tịnh-tánh.
5. Quan niệm Tam-bảo:
Về Phật-bảo, hàng Tiểu-thừa chỉ chấp nhận Ðức Thích-Ca-Mâu-Ni và chư
Phật của cõi Ta-Bà, không tin có các đấng Như-Lai ở tha phương thế-giới.
Về Pháp-bảo, họ chỉ tín thuận những kinh Tiểu-thừa như A-Hàm,
Pháp-Cú... không tin nhận những kinh Đại-thừa như Hoa-Nghiêm, Pháp-Hoa.
Về Tăng-bảo, họ chỉ hiểu biết các bậc A-la-hán như Xá-Lợi-Phất,
Mục-Kiền-Liên.... không chấp nhận các bậc Bồ-Tát tha phương như:
Phổ-Hiền, Dược-Vương, Nguyệt-Quang, Thế-Chí. Trái lại, Đại-thừa tin nhận
cả tiểu pháp lẫn đại pháp và ngôi Tam-bảo ở cõi nầy cùng mười phương.
6. Tư-lương-tánh:
Trên phương diện tu hành, hàng Tiểu-thừa thiên về Huệ, y theo Tứ-đế,
Thập-nhị-nhân-duyên, Tam-thập-thất-đạo-phẩm, mục đích để phá trừ ngã
chấp, chứng quả nhân không. Còn hàng Đại-thừa thì y theo Lục-độ-vạn-hạnh
gồm tu phước huệ, phá cả Ngã-chấp lẫn Pháp-chấp, chứng quả nhị-không.
7. Thời-gian-tánh:
Về Tiểu-thừa, hàng Thanh-Văn phải tu từ ba đời đến 60 kiếp mới chứng
quả A-la-hán; còn hàng Duyên-Giác phải tu từ bốn đời đến 100 kiếp mới
chứng quả Bích-Chi-Phật. Còn bên Đại-thừa phải dùng ba A-tăng-kỳ-kiếp để
tu sáu độ và 100 kiếp để tu nhân tướng tốt, mới chứng quả Phật.
8. Quả-chứng:
Giải thoát của Tiểu-thừa là tiêu cực. Họ muốn lánh khỏi mọi sự khổ não ở
hiện tại mà thể nhập vào cảnh không tịch. Cho nên mục đích chung cuộc
của họ là cầu lấy quả A-la-hán hoặc Bích-Chi-Phật. Giải thoát của
Đại-thừa là tích cực. Họ hiểu rằng phiền não vốn không và trong chúng ta
có đủ đức tướng, trí huệ của Như-Lai cùng vô lượng công đức. Vì thế họ
lấy địa vị Phật-Ðà làm lý tưởng chung cuộc. Về chúng-sanh, Đại-thừa
quyết độ tất cả đều thành Phật. Về thế-giới, họ quyết biến cõi uế ác
thành cảnh thiện mỹ, trang nghiêm. Cho nên mục đích của Đại-thừa gồm
trong câu: “Trang nghiêm Phật-độ, thành tựu chúng-sanh”.
Tiết IV: Dung Hội Các Thừa
Theo
Nguyên-thủy Phật-giáo, quả Niết-bàn giải thoát của hàng Thanh-Văn đồng
với Phật, nhưng bậc Thanh-Văn phước trí chưa được đầy đủ bằng Ðức
Thế-Tôn. Theo Đại-thừa Phật-giáo, quả Vô-thượng-bồ-đề của Như-Lai duy
những vị tu theo Bồ-Tát-thừa mới chứng được. Đứng về mặt khách quan để
khảo cứu Kinh-điển của hai phái, ta có thể chia lối thuyết pháp của Phật
ra ba thời kỳ:
Thời kỳ thứ nhất, Ðức Thế-Tôn vì
muốn cho hàng đệ-tử lìa khỏi nỗi khổ thân tâm hiện tại, hưởng sự an vui
tịch tịnh, nên Ngài chỉ ngay những phương tiện giải thoát. Như Đức Phật
dạy: “Thế nầy là Khổ, thế nầy là Tập, thế nầy là Diệt, thế nầy là Đạo.
Như-Lai đã tu tập theo đường lối ấy, các ông nên thực hành theo. Như-Lai
đã đắc quả giải thoát theo đường lối ấy, các ông nên cố gắng để chứng
nhập... Hiện nay sự sống chết của ta đã dứt, phạm hạnh đã thành lập,
việc làm cũng đã xong, không còn thọ thân đời sau nữa...” Xuyên qua mấy
lời nầy, đạt đáo điểm của Phật cùng với hàng đệ-tử trong buổi đầu tiên
dường như không khác nhau, có thể biểu dương bằng câu: “Hành đồng đạo,
đắc đồng quả”.
Qua thời kỳ thứ hai, Ðức Thế-Tôn
lần lần nói những đạo pháp cao rộng hơn. Như trong đoạn ngài Văn-Thù
trình bày kiến giải với Phật: “Bạch Ðức Thế-Tôn! Tu Bát-Nhã-Ba-La-Mật là
không rời bỏ pháp phàm-phu, không cầu lấy pháp hiền-thánh. Tại sao thế?
Vì người thực hành môn nầy, không thấy có pháp để lấy hoặc bỏ, cũng
không thấy có Niết-bàn đáng ưa, sanh-tử đáng chán. Bởi Niết-bàn cùng
sanh-tử, hành giả còn không thấy có, huống nữa là sự ưa chán ư?” Đức
Phật bảo: “Đúng như thế! Nầy Văn-Thù! Đó là sở hành của các bậc
Bồ-Tát-Ma-Ha-Tát. Cho đến hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác, nói chung là bậc
hữu học, vô học, đều không nên rời pháp ấn nầy mà tu đạo quả”. Đoạn kinh
văn trên đây, chứng minh Ðức Thế-Tôn khuyến dụ hàng Thanh-Văn đi vào
thâm pháp. Ngài còn bảo chính mình đã trải qua vô lượng kiếp, tu những
nhân hạnh tự lợi lợi tha rộng lớn, mới thành tựu ba mươi hai tướng tốt,
tám mươi vẻ đẹp, mười lực, bốn vô úy, mười tám pháp bất cộng của quả
Vô-thượng-bồ-đề.
Đến thời kỳ thứ ba, Ðức Thế-Tôn
dung hòa ba thừa. Đại ý Ngài nói: “Những vị nghe tu theo pháp Tứ-đế,
chứng được đạo quả, gọi là Thanh-Văn thừa. Hạng căn cơ lanh lợi hơn, tự
phát minh hoặc do ngôn giáo của Như-Lai mà tỏ ngộ Thập-nhị-nhân-duyên,
gọi là Ðộc-Giác, hoặc Duyên-Giác thừa. Bậc thật hành Lục-độ, cầu quả
Vô-thượng, gọi là Bồ-Tát thừa. Nhưng hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác có thể
hướng thượng và thành Phật; hai thừa nầy chỉ là những nấc thang để bước
lên Bồ-Tát thừa mà thôi”. Tóm lại, ba thừa chỉ là một, Ðức Như-Lai ra
đời không ngoài mục đích đưa chúng-sanh đến quả Phật, và Ngài cũng chỉ
dạy có đạo pháp Nhất-thừa. Danh từ Nhất-thừa, trong Kinh-điển của hai
phái, Đức Phật cũng thường nhắc nhở đến. Như kinh Tạp-A-Hàm nói: “Có
Nhất-thừa-đạo hay khiến cho chúng-sanh được thanh tịnh, đưa họ vượt qua
sự thương lo buồn khổ, vào pháp chân-như. Đó là Tứ-niệm-xứ...” Và đoạn:
Ta có pháp Nhất-thừa
Vì chúng-sanh các cõi
Diễn nói chánh-pháp âm
An ủi chúng-sanh khổ
Chư Phật đời quá khứ
Dùng pháp nầy độ sanh
Chư Phật đời vị lai
Cũng diễn Nhất-thừa-pháp
Chư Phật đời hiện tại
Nương đây độ dòng mê
Đưa khỏi bờ sanh tử...
Kinh Pháp-Hoa cũng nói:
Vì thế, Xá-Lợi-Phất
Ta mới lập phương tiện
Nói các pháp diệt khổ
Chỉ bày nẻo Niết-bàn
Nhưng cảnh Niết-bàn nầy
Chưa phải chân diệt độ
Các pháp từ xưa nay
Tự hướng hằng vắng lặng
Phật-tử đã hành đạo
Về sau sẽ thành Phật
Ta dùng sức phương tiện
Mở bày pháp Tam-thừa
Tất cả chư Thế-Tôn
Đều nói Nhất-thừa-đạo
Nay trong đại chúng đây
Phải nên trừ nghi hoặc
Lời chư Phật không khác
Chỉ một, không hai thừa...
Pháp tối diệu bậc nhất
Vì các loại chúng-sanh
Phân biệt nói ba thừa
Kẻ thấp ưa pháp nhỏ
Không tin mình thành Phật
Nên ta dùng phương tiện
Chia ra các đạo quả
Tuy là nói ba thừa
Kỳ thật dạy Bồ-Tát...
Căn
cứ mấy đoạn kinh trên, thì từ trước đến sau, Đức Phật chỉ dạy có
Nhất-thừa-pháp, chẳng qua vì tùy trình độ chúng-sanh mà phương tiện dẫn
dụ thế thôi.
Tóm lại, trong một đời giáo hóa, nói rộng
ra, tuy Ðức Thế-Tôn dạy bảo Nhân-thừa, Thiên-thừa, Thanh-Văn-thừa,
Duyên-Giác-thừa, Bồ-Tát-thừa, song không ngoài mục đích để thành tựu
Phật-thừa, tức là Nhất-thừa-đạo. Đối với hạng chưa thể tu theo đường
giải thoát, Ngài khuyên dạy pháp Ngũ-giới, Thập-thiện, để cho họ trồng
căn lành, khỏi sa vào ác đạo, gây nhân duyên đắc độ về sau. Với hạng có
thể bước lên nẻo Niết-bàn, Ngài khai thị pháp Tứ-đế,
Thập-nhị-nhân-duyên, để họ thoát nỗi khổ luân-hồi, hưởng sự vui tịch
tịnh, rồi lần lượt dẫn dụ vào đại pháp. Với hạng đại căn cơ, Ngài chỉ
ngay Bồ-Tát-đạo, khiến cho họ mau thành tựu quả Phật. Đức từ bi, bình
đẳng, trí huệ, phương tiện của Phật quả thật không lường! Thế
thì dù Tiểu-thừa hay Đại-thừa, đều cùng là con của Phật, cùng sẽ về một
tiêu điểm, người Phật-tử chỉ nên tự xét và tự hướng lối đi của mình đúng
như lời dạy của Ðức Thế-Tôn, chớ không nên cố tâm chia rẽ.
Trích trong "Phật Học Tinh Yếu"
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm