Thuyết
Tái sanh
Minh Chi
Dàn bài
và những ý chính
Phần I
- Bốn quan niệm về sống
và chết:
1- Triết
phái duy vật cổ đại ở
Ấn Ðộ: Chết là hết - Ý nghĩa cao nhất của nhân sinh là hưởng
thụ.
2- Phái hoài
nghi: Không thể và không
cần biết chết là gì, khi đang còn sống.
3- Thuyết của một
số tôn giáo thần
quyền, cho rằng chỉ có một lần sống và chết.
4- Quan niệm Phật
giáo về sống và
chết: Quan niệm sống và chết nhiều lần. Chết rồi lại sống
tiếp một đời khác, mà thân phận và hoàn cảnh được quyết định
bởi
hành vi trong đời này (thuyết nghiệp).
Phần
II - Các chứng cứ của
thuyết tái sanh.
Phần III - Thân
trung hữu và các vấn
đề có liên quan.
Phần IV - Kết
luận: Ý nghĩa giáo
dục to lớn của thuyết tái sanh.
-oOo-
I- Nội dung của thuyết
Tái sanh, và bốn quan niệm về Sống và Chết
Thuyết
tái sanh khẳng định rằng, con người cũng như mọi loài hữu tình,
không
phải chỉ sống một đời, mà đã từng sống nhiều đời, và sau đời sống
này, sẽ tiếp tục sống nhiều đời nữa. Và sức mạnh, dẫn con người
sống đi sống lại nhiều đời như vậy là nghiệp lực, tức là
sức
mạnh của nghiệp. Thành quả của mọi việc làm của chúng ta trong
đời này, tạo thành một sức mạnh, gọi là sức mạnh của nghiệp tái
sanh, đẩy chúng ta tới một cuộc sống mới, một cuộc đời khác,
trong đó
thân phận và hoàn cảnh sống của chúng ta là do thành quả các
nghiệp của
đời này quyết định.
Thuyết tái sanh và
thuyết nghiệp
có liên quan mật thiết với nhau, nương tựa vào nhau. Ðời người,
nói
chung quá ngắn ngủi, khoảng trên dưới 100 năm, cho nên có nhiều
nghiệp
tuy tạo ra trong đời này, nhưng phải chờ tới đời sau, hay thậm chí
tới đời
sau nữa mới chín muồi, và đem lại quả báo. Không có tái sanh, thì
thuyết
nghiệp sẽ không thành tựu.
Có những triết thuyết
và tôn giáo
không chấp nhận thuyết tái sanh. Thí dụ:
1)- Chủ nghĩa duy
vật cổ đại ở Ấn
Ðộ
Chủ nghĩa duy vật
thời Ấn Ðộ cổ đại
có tên Sanskrit là Carvaka. Những người theo thuyết này cho
rằng,
người ta chỉ sống và chết một lần. Chết là hết, không còn gì
nữa. Mục đích của đời người, theo họ là hưởng thụ càng nhiều càng
hay, là sống cho thật sung sướng. Carvaka có gốc từ Sanskrit là car
nghĩa
là ăn. Phái này tuyên bố họ chỉ biết ăn mà thôi, còn thì họ
chối bỏ mọi trách nhiệm về hành động của mình.
2)- Chủ nghĩa hoài
nghi và bất khả tri
luận
Khổng Tử nói: "Sống
còn chưa biết
thì biết chết làm gì?". Lời nói trên phản ánh thái độ của
Khổng Tử, cho rằng con người không thể biết và cũng không cần
biết chết là gì.
Epicuya, nhà triết
học Hy Lạp cổ đại
(341-270 B.C) thì cho rằng: "Khi sống thì không thể biết chết là
gì, còn khi đã chết rồi thì lại càng không thể biết chết là
gì". Câu nói này cho thấy nhà triết học Hy Lạp này tin rằng, sự
chết là chuyện không thể biết được đối với con người, cho
nên, tìm hiểu sự chết là chuyện vô ích. Ðó là một loại
"chủ nghĩa hoài nghi và bất khả tri luận" khá triệt để.
3)- Con người chỉ
sống và chết một
lần, sau khi chết sẽ lên thiên đàng sống với Thượng đế hay là
xuống
địa ngục sống vĩnh viễn với quỷ
Ðây là quan niệm về
sống và
chết của một số tôn giáo thần quyền. Quan niệm này thường tạo ra
một tâm lý bức xúc, lo âu, vì con người không biết mình có được
Thượng đế ban ơn hay không. Nếu không được ban ơn thì có nỗ
lực sống đạo đức cũng vô ích. Theo quan niệm của một số tôn giáo
thần
quyền, đời sống con người đầy tội lỗi, dù là trẻ sơ sinh cũng đã
phạm nguyên tội, cho nên để được cứu rỗi, thì chỉ có sự ban ơn
của Thượng đế mà thôi.
4)- Quan niệm Phật
giáo về sống và
chết
Thuyết nghiệp báo -
tái sanh của đạo
Phật đề cao trách nhiệm của con người đối với cuộc sống của mình ở
đời này và cả đời sau. Do đấy cũng kêu gọi con người phải có ý
thức trách nhiệm đầy đủ về mọi hành vi, lời nói và ý nghĩ
của mình hàng ngày, hàng giờ, thậm chí trong từng giây phút của
cuộc sống,
khuyến khích con người luôn luôn nghĩ thiện, làm thiện, tránh
mọi ý nghĩ, lời nói và việc làm bất thiện. Có thể nói,
thuyết nghiệp và tái sanh động viên mọi người luôn nỗ lực
để sống thiện, đạo đức.
II- Các chứng cứ của
thuyết Tái sanh
* Kinh Phật ghi
lại những lời Phật khẳng
định có tái sanh
"Với thiên nhãn thanh
tịnh, hoàn toàn
vượt xa con mắt của loài người, Bồ Tát nhìn thấy chúng sanh chết
rồi
tái sanh, ở các đẳng cấp cao quý hay bần tiện, thân phận giàu sang
hay
nghèo hèn, cao hay thấp..." (Trích quyển Lalistavatara).
Theo sách Lalistavatara,
vào canh đầu
đêm, Ðức Phật ngồi thiền định dưới gốc cây bồ đề, Ngài đã đạt
tới cái nhìn sáng suốt, thấy được các đời sống trước của chúng
sanh. Cần
chú ý là Thế Tôn không phải nhớ lại, mà là nhìn thấy với con mắt
Phật của Ngài, chứ không phải là nhớ lại như với trí nhớ bình
thường của
chúng ta.
"Rồi vào canh giữa
của đêm thành đạo,
vị Bồ Tát hướng tâm của Ngài nhớ lại các kiếp sống trước của chúng
sanh cũng như của bản thân Ngài, nhớ lại một đời, hai, ba, bốn,
năm, hai
mươi đời, vô lượng đời trước đây..." (Sách Lalistavatara đã
dẫn).
Không những chỉ có
Ðức Phật, mà các vị
đệ tử lớn của Ngài, sau khi chứng quả A La Hán, cũng đạt được Túc
mạng thông, tức là quyền năng nhớ lại các kiếp trước của mình.
Không phải chỉ có tu sĩ Phật giáo, mà cả những tu sĩ ngoại đạo, tu
luyện thiền định có kết quả cũng có Túc mạng thông.
* Những hiện tượng
và lý lẽ khác
chứng minh thuyết tái sanh
1)- Hiện tượng
những trẻ con nhớ lại
đời sống trước của chúng
Ở châu Á cũng như
châu Âu, đã thu
thập được nhiều tài liệu về hiện tượng này. Thông thường,
đó là những trường hợp đột tử, chết một cách không bình thường,
như
bị tai nạn xe cộ, hay bị giết v.v... Người chết tái sanh vào một
gia
đình, ở không xa lắm nơi mình chết. Ðến tuổi nói và đi lại được,
cậu hay cô bé yêu cầu được dẫn về thăm nơi ở trước đây, trong đời
sống trước, thăm lại cha mẹ, thậm chí cả người vợ góa của mình. Có
những
trường hợp thân hình cậu hay cô bé tái sanh mang dấu vết của sự cố
hay
tai nạn đã khiến các em bị chết trong đời sống trước.
Giáo sư Ian
Stevenson, thuộc trường Ðại
học Mỹ Virginia đã nghiên cứu cẩn thận 1.600 trường hợp "nhớ lại
đời sống trước một cách tự nhiên" (Xem Ian Stevenson, Twenty
cases
suggestive of reincarnation - Hai mươi trường hợp gợi ý có tái
sanh - Nxb
trường Ðại học Virginia, 1974).
2)- Hiện tượng
người lớn nhớ lại
các đời sống trước của mình
Khác với sự nhớ lại
tự nhiên của trẻ con
ngay về đời sống trước của chúng, trường hợp những người lớn tuổi
nhớ
lại những đời sống, có thể cách rất xa đời sống hiện tại. Trước
hết, đó là trường hợp của những đạo sĩ Du Già Ấn Ðộ hay là những
tu sĩ Phật giáo tu tập lâu năm về thiền định. Sau khi tu tập bốn
cấp
thiền của Sắc giới và chứng cấp thiền thứ năm, họ chứng được
Túc mạng thông, nhớ lại các đời sống trước của họ, cùng với một số
quyền năng khác.
Ở nước Anh, có hiện
tượng lạ lùng
của bà Joan Grant, bà này kể rằng bà đã từng tu tập định tâm phát
triển trí nhớ trong 10 năm, khi bà là công chúa Sekeeta, dưới
triều
đại đầu tiên của Ai Cập cổ đại. Và trong đời sống hiện nay, bà vẫn
giữ lại được quyền năng siêu nhiên "Túc mạng thông" đó cùng
với một số quyền năng khác. Trong một loạt sách xuất bản dưới dạng
truyện ngắn, bà đã kể lại khá chi tiết các kiếp sống tiếp
tục của bà, đặc biệt là kiếp sống đầu tiên bà nhớ lại được, khi
bà là công chúa Ai Cập Sekeeta. Một số nhà Ai Cập học thừa nhận
tính
chính xác lịch sử của nhiều chi tiết bà kể về đời sống của
công chúa Sekeeta.
Ở Mỹ, có trường hợp
bác sĩ John Lilly
tuyên bố đã nhớ lại được những kiếp sống trước của mình, trong khi
bác sĩ nghiên cứu các tầng lớp sâu của tâm thức. Ðể có thể tập
trung tư tưởng, ông thiết kế một hầm kín đặc biệt (an isolation
tank), trong đó ông có thể ngồi yên, không bị quấy rối bởi các
kích
thích của ngoại cảnh.
3)- Hiện tượng một
người thấy và
kể lại kiếp sống trước của những người khác
Hiện tượng này rất
hiếm có. Ngay
trong đạo Phật, chỉ có Ðức Phật và một số đệ tử hàng đầu như ngài
Xá Lợi Phất mới có được quyền năng này, được gọi là Chúng sanh
trí, chứ không gọi là Túc mạng thông.
Tuy nhiên, ở ngoài
đời cũng có một vài
người hiếm hoi có được năng khiếu lạ lùng đó, mà một ví dụ là
Edgar Cayce, một người Mỹ sanh ở Kentucky năm 1877. Cuộc đời và sự
nghiệp
của Cayce được Germinara kể lại trong các cuốn sách, mang tựa đề "Thế
giới nội tâm" (The world within), và cuốn "Nhiều lâu
đài" (Many mansions), đều xuất bản tại Luân Ðôn trong các năm
1967 và 1973. Cayce có năng khiếu lạ lùng là, khi được thôi miên,
anh ta
bỗng nhiên trở thành một bác sĩ chẩn đoán bệnh chính xác, kê đơn
thuốc trị bệnh và dùng những ngôn từ y khoa, mà khi tỉnh dậy, ông
ta
không bao giờ biết và nói tới. Ông ta có thể chữa bệnh cho những
người ở cách ông ta hàng trăm dặm, mà ông ta chỉ được cho biết tên
họ và địa chỉ mà thôi. Ðối với một số bệnh nhân, ông chẩn đoán
là không phải do nguyên nhân vật chất và sinh lý, mà do những
nghiệp
đã tạo ra trong một kiếp trước. Vì vậý, đối với số bệnh nhân
này, ông tuyên bố không cần thuốc mà chỉ cần giải nghiệp bằng
những
hoạt động tâm linh thích hợp. Nên nhớ rằng, Cayce là một tín đồ
đạo Thiên
Chúa, và khi tỉnh dậy, ông rất ngạc nhiên và hoảng hốt khi biết là
mình
đã dùng những từ trái với Kinh Thánh như là nghiệp (karma) và đời
sống
kiếp trước. Nhưng sau đó, ông cũng yên tâm vì được giải thích là
trong Kinh Thánh, không có đoạn nào chống đối cụ thể thuyết
nghiệp và tái sanh. Từ năm 1923 cho tới năm 1945 là năm ông qua
đời, Cayce
được yêu cầu mô tả lại đời sống kiếp trước của 2.500 trường hợp là
bệnh nhân hay những người đến yêu cầu. Có trường hợp, cha mẹ một
đứa bé sơ sinh bế con đến và yêu cầu Cayce nói rõ kiếp trước
của đứa bé, và nhờ đoán xem tương lai, vận mệnh của đứa bé sẽ ra
sao.
Ðược hỏi về các kiếp trước của mình, Cayce cho biết, ông ta trong
một đời sống trước, từng là một giáo sĩ cao cấp ở xứ Ai Cập cổ
đại,
chứng được nhiều quyền năng siêu nhiên, nhưng sau bị sa ngã vì
tánh
ích kỷ và quan hệ tình dục bất chính. Cayce xem tái sanh ở đời này
là một cơ hội để ông ta chuộc lại những lỗi lầm xưa bằng một đời
sống hoàn toàn phục vụ lợi ích cho quần chúng.
4)- Hiện tượng
mộng
Có ba loại mộng. Hai
loại mộng thứ nhất và
thứ hai có liên quan tới những sự việc ở đời này, có thể là
chuyện quá khứ hay là chuyện tương lai, nhưng đều hạn chế
trong phạm vi thời gian của đời này. Loại mộng thứ ba có liên quan
tới những
sự việc xảy ra ở một đời sống trước hay là tới đời sống tương lai.
Thí dụ, một người nằm mơ thấy mình đang bay trên không. Một người
bay như
chim là chuyện không thể có trong đời này, ít nhất là với trình độ
khoa học hiện tại. Có thể giải thích con người này trong một đời
sống trước, đã từng là một loài trời có thân hình nhẹ nhàng, có
thể
di chuyển trên không được. Một trường hợp khác là người gần chết
có thể nằm mơ thấy trước thân phận mình ở kiếp sau. Nếu phải
đọa vào các cảnh sống ác như địa ngục, súc sanh, quỷ đói thì nằm
mơ thấy các cảnh rùng rợn, ghê sợ. Nếu có nhiều phước đức, sẽ
được tái sanh lên các cõi trời, thì nằm mơ thấy những cảnh giới vô
cùng
đẹp đẽ ở các cõi trời: phong cảnh xinh tươi, nhà cửa tráng lệ.
Loại
mộng thứ ba này chứng minh là có đời sống trước, cũng như có đời
sống
kiếp sau.
5)- Hiện tượng
liên tục của tâm thức
Tâm thức của con
người là một dòng chảy
liên tục của các niệm. Niệm trước diệt thì niệm sau sanh khởi.
Tác động của ngoại cảnh có thể làm cho niệm sau thay đổi, nhưng đó
là một tác dụng phụ, hỗ trợ. Còn nguyên nhân chính bao giờ cũng là
một
niệm trước diệt, dọn đường cho niệm sau sanh khởi, và cứ như
vậy, dòng chảy liên tục, không đứt quãng của tâm thức từ đời này
sang
đời khác cho đến khi con người được giải thoát ra khỏi vòng sanh
tử
luân hồi mới thôi. Vậy thì, nguyên nhân khiến cho niệm đầu tiên
trong
bào thai sanh khởi là gì? Theo Phật giáo, đó chính là niệm cuối
cùng của
người sắp chết, ở đời trước.
6)- Hiện tượng
"người bị
ám"
Các bác sĩ tâm thần
nói tới hiện
tượng lạ lùng có người bị lưỡng phân, hình như có hai người
cùng
sống những đời sống khác nhau cùng trong một người. Hai con người
đó có
lối sống hoàn toàn khác nhau, một người chẳng hạn, ban ngày thì
ứng xử như
một người rất đạo đức, rất mô phạm, nhưng đêm tới lại sống như một
con
quỷ tình dục, tìm cách cưỡng hiếp bất cứ phụ nữ nào anh ta gặp
trong
đêm. Các bác sĩ nói, con người thật của anh ta là con người ban
ngày, còn
ban đêm thì anh ta bị ám (to be possessed). Nhưng đó chỉ là một
cách giải
thích, mà lý trí bình thường khó chấp nhận. Một cách giải thích
khác,
có thể dùng để chứng minh thuyết tái sanh, là con người đó, trong
một đời sống trước đã từng ăn chơi trác táng, quan hệ tình dục bừa
bãi. Sự hồi tưởng đó mãnh liệt tới mức, anh ta như bị hôn mê, và
một
cách vô thức, sống như một người trác táng thật sự... cho đến khi
anh ta
tỉnh lại, và sống như con người bình thường.
Cũng xếp vào loại
trường hợp này là
câu chuyện của một bác sĩ tâm thần, phải chữa bệnh sợ nước cho một
người sợ nước tới mức không chịu tắm rửa. Bác sĩ tâm thần thôi
miên
người bệnh, và động viên anh ta, trong lúc ngủ mê, nhớ lại đời
sống
trước của mình. Và anh ta kể lại là trong đời sống trước, anh ta
đi một
chuyến tàu biển, tàu đắm trong một cơn bão và anh ta bị chết
đuối. Khi chết đuối, tinh thần anh ta bị căng thẳng cực độ, tạo ra
một
tâm lý sợ nước, vẫn tồn tại mãi cho tới cuộc sống hiện tại. Tìm
hiểu được nguyên nhân của bệnh sợ nước của bệnh nhân rồi, bác
sĩ chỉ cần đánh thức anh ta dậy, ôn tồn giải thích cho anh ta rõ,
"sợ
nước" là chuyện đắm tàu của đời sống trước đây, và thế là
bệnh nhân dần dần khỏi bệnh mà không cần phải thuốc thang gì.
7)- Hiện tượng
tiếng sét ái tình
Có những mối tình nảy
nở ngay lần gặp gỡ
đầu tiên, nhưng rất sâu sắc đậm đà, tuy chưa từng trải qua một
thời gian
tìm hiểu nào. Sách Phật kể truyện Matanga, một thiếu nữ
thuộc đẳng cấp hạ tiện Thủ Ðà La, đang kéo nước ở giếng, thì gặp
ngài A Nan, thị giả Phật, đi qua xin nước uống. "Ngài không biết
em
là thuộc đẳng cấp Thủ Ðà La hay sao mà lại xin nước?".
Ông A Nan trả lời:
"Tôi xin nước chứ
có xin đẳng cấp đâu !".
Thế là từ đó, nàng
Matanga đem lòng
yêu thương ngài A Nan. Tình yêu mãnh liệt đến nỗi, ngài A Nan đi
đâu, Matanga cũng theo sau bén gót, khiến cho trong thành phố có
tiếng
đồn không hay đối với tu sĩ. Phật biết chuyện, cho gọi Matanga
đến, cho phép xuống tóc đi tu làm Ni. Matanga sau khi xuất gia,
học tu
tinh tiến, không bao lâu nổi tiếng khắp kinh thành là một Ni sư có
trình độ Phật học uyên bác.
Vua Ba Tư Nặc và các
đại thần nghe
chuyện lạ, bèn đến thăm và hỏi Phật về lai lịch Matanga. Phật
giải thích là ngài A Nan và Matanga đã từng là vợ chồng trong một
đời
trước, nàng Matanga lại có duyên với Phật pháp, cho nên đã xảy ra
câu
chuyện tình yêu trái thường như trên, không có gì đáng làm lạ.
Trên đây là một câu
chuyện điển
hình trong sách Phật. Ngoài đời, trên sách báo xưa và nay, những
chuyện
như vậy không hiếm.
8)- Hiện tượng hai
người gặp nhau lần
đầu mà như đã từng quen biết từ lâu
Hiện tủợng này khá
nhiều người đã
từng gặp phải, nhưng không tự mình giải thích được vì sao. Thuyết
tái
sanh có thể giải thích dễ dàng là hai người trong một đời sống
trước
đã từng quen biết nhau, từng là bạn bè đi lại thân thiết với nhau.
9)- Hiện tượng một
người lần đầu
tiên đến một xứ xa lạ, nhưng lại có cảm giác mình rất quen thuộc
xứ
này từ lâu rồi
Thuyết tái sanh giải
thích là trong một
hay nhiều đời sống trước, người này đã từng sống tại xứ này rồi.
Ở Anh, có một người ở thành phố Norfolk, chưa từng đi Trung Ðông
bao
giờ, nhưng lại tuyên bố trong một đời sống trước, vào đầu Công
nguyên, anh
ta từng làm một lính gác tại một trạm gác trong thành phố, và anh
ta bị một
kẻ thù đâm chết ngay trước trạm gác. Thành phố Petra là một thành
phố
cổ nổi tiếng ở Jordanie (vùng Trung Ðông), được bảo tồn như một di
tích
lịch sử quốc gia, và được nhiều nhà khảo cổ phương Tây nghiên cứu
chu
đáo. Người Anh đặc biệt này vốn tên là Flowerdew, được một trong
các
nhà khảo cổ nói trên tiếp xúc, phỏng vấn và nhà khảo cổ vô cùng
ngạc
nhiên về sự hiểu biết tường tận của anh ta đối với thành phố cổ
Petra. Chính phủ Jordanie biết chuyện này và mời Flowerdew cùng
với một
đoàn làm phim của Hãng BBC đến thăm Petra. Ðoàn nhận thấy, khi
Flowerdew
tiến gần Petra, đường hẻm dẫn tới cửa thành, khi vào trong thành,
anh ta
lập tức nhận ra ngay cái trạm gác nơi anh đã từng phục vụ, kể cả
nơi
anh bị đâm chết v.v...
Câu chuyện này không
thể là một
hoang tưởng, vì có sự hiện diện của các nhà khảo cổ học đi kèm
cùng với đoàn làm phim của Hãng BBC nước Anh. Chỉ có thuyết tái
sanh mới
giải thích nổi câu chuyện kỳ lạ nhưng rất thực nói trên mà thôi.
10)- Hiện tượng
thần đồng
Thuyết tái sanh còn
giúp giải thích
những hiện tượng thần đồng âm nhạc, như Mozart hay Beethoven, mới 3
hay 4
tuổi đã soạn được những bản nhạc phức tạp ; hay những hiện tượng
thần
đồng như Stuart Mill và Bentham mới 6, 7 tuổi đã thông thạo nhiều
ngoại
ngữ. Những thần đồng này trong một đời sống trước đã từng sành âm
nhạc
và giỏi ngoại ngữ rồi. Ðời này, họ không phải học cái gì mới mẻ,
mà chỉ là học lại mà thôi.
11)- Hiện tượng
những anh em sinh đôi
rất khác tính nết
Chỉ có thuyết tái
sanh mới giải thích
được hiện tượng này, còn thuyết di truyền và bối cảnh giáo dục
gia đình không thể giải thích nổi. Sao hai anh em sinh đôi, từ
cùng một
cha một mẹ, được hưởng một chế độ nuôi dưỡng và giáo dục gia đình
hoàn toàn giống nhau, mà một người có bản tính hiền lành, thương
người, còn người kia lại trở thành một quỷ dữ, rất hung ác.
12)- Thực nghiệm
của những người
chết sống lại
Ðó là trường hợp
những người chết
rồi, nhưng sau một thời gian, có thể là nhờ sự can thiệp kịp thời
của
y tế, mà họ sống trở lại và kể những chuyện họ thấy sau
khi chết. Ở phương Tây, tại các nước công nghiệp phát triển,
có nhiều tiến bộ trong ngành y tế, người ta ghi nhận có khá
nhiều những trường hợp người chết lâm sàng sống lại.
Tuyệt đại đa số những
người đó
đều cho rằng, chết không phải là cái gì đáng sợ, và sau khi
chết, sự sống vẫn tiếp diễn. "Chuyện xảy ra với tôi lúc bấy
giờ là một kinh nghiệm rất là không bình thường, mà tôi chưa từng
bao
giờ có. Nó làm cho tôi tin rằng, có một cuộc sống sau khi chết"
(It
has made me realize that there is life after death) (Margot Grey -
Return from death.
An explanation of the meaning of near death experience - Từ
cõi chết trở
về. Một giải thích về kinh nghiệm gần chết - Boston and
London-Arkana. p.205).
Sau đây là một ghi
nhận khác:
"Tôi biết là có một
cuộc sống sau
khi chết ! Không ai có thể lay chuyển được niềm tin đó của
tôi. Tôi không còn nghi ngờ gì nữa. Ðấy là một cái gì êm dịu, tôi
không
còn sợ gì hết. Tôi không biết gì thêm bên ngoài thực nghiệm đó.
Nhưng nó cũng quá đầy đủ đối với tôi rồi" (Kenneth Ring - In
search
of the meaning of near death experience - Tìm ý nghĩa của thực
nghiệm
gần chết - New York. Quill 1985, p.156).
Có thể chép thêm
nhiều ghi nhận của
những người từng trải qua cuộc thực nghiệm gần chết. Nhưng, tôi
thấy
hai đoạn chép lại trên đây cũng đủ. Những người kinh qua thực
nghiệm
gần chết đều tin rằng, chết không phải là hết, sự sống vẫn
tiếp tục sau khi con người chết.
III- Cơ chế tái sanh và
thân trung ấm
Cơ chế tái sanh được
Phật giải thích
trong bài "Ðại ái tận kinh" thuộc Trung Bộ kinh, như là lệ
thuộc vào sự hiện hữu của ba điều kiện: 1- Cha mẹ có giao hợp ; 2-
Mẹ ở đúng trong thời kỳ sanh nở, nghĩa là có thể thụ thai ; 3- Sự
có
mặt của hương ấm (gandhaba).
Hương ấm là gì? Hương
ấm là tâm thức
mang theo nghiệp của người sẽ tái sanh (ở đây, để đơn giản hóa vấn
đề cho dễ hiểu, chỉ bàn trường hợp con người tái sanh lại làm
người). Tâm thức mang theo nghiệp đó được sách Phật gọi là nghiệp
thức. Nghiệp thức đó cũng được gọi là kết sanh thức,
vì rằng nghiệp thức sẽ kết hợp với tinh trùng của cha và trứng của
mẹ để sanh ra bào thai. Nhưng vì sao trong kinh "Ðại ái tận",
Phật lại dùng từ hương ấm?
Ðó là vì, trong phần
lớn trường hợp,
người chết, trước khi tái sanh, thường trải qua một giai đoạn
trung gian ;
trong đó, người chết mang một cái thân đặc biệt gọi là thân
trung ấm được cấu tạo bằng loại vật chất tế nhị, và được nuôi
dưỡng không phải bằng thức ăn thô, mà bằng mùi, bằng hương, cho
nên
gọi là hương ấm.
Vấn đề trung hữu hay
trung ấm tức là
vấn đề tồn tại của con người (trong bài này, chỉ bàn loài người ;
đối
với các loài khác, thì cũng tương tự, tuy không phải giống hẳn)
sau khi
chết. Con người đó sau khi chết, thì tái sanh ngay, hay là kinh
qua một
thời kỳ nhất định, mà sự tồn tại gọi là trung hữu, mang một cái
thân
đặc biệt gọi là thân trung ấm.
Nếu có một thời kỳ
như vậy, thì trong
thời kỳ đó, thân trung ấm có hình dạng như thế nào, hoạt động ra
sao,
vì sao mắt người không thấy được? Kinh sách Phật - Bắc và Nam tông
- nói
về vấn đề này như thế nào, các bộ phái Phật giáo bàn về
vấn đề này như thế nào?
Sau đây là những bộ
phái không chấp nhận
có thân trung hữu: Ðại chúng bộ, Hóa địa bộ, Phân biệt thuyết bộ,
cuốn Thành thực luận (quyển 3), Xá Lợi Phất A tỳ đàm luận,
Thượng
tọa bộ Nam truyền.
Còn chấp nhận có thân
trung hữu là Ðông
sơn bộ, Chánh lượng bộ, và đặc biệt là Hữu bộ (Nhất thiết hữu bộ
- Câu Xá luận) (xem bài "Sanh hữu chi nghiên cứu"
của
Dương Bá Y trong tập Phật giáo căn bổn vấn đề nghiên cứu,
quyển II, tr. 375, bản Hán).
Như vậy thì ai đúng,
ai sai? Bên khẳng
định đúng hay bên phủ định là đúng?
Kinh Niết Bàn của Bắc
tông đã trả lời
như sau: "Không nhất định có cũng không nhất định không có thân
trung
hữu. Nếu là nghiệp cực ác (thí dụ đọa địa ngục) hay là
nghiệp cực thiện, như sanh thiên (các cõi trời) thì không có thân
trung hữu (nghĩa là hóa sanh). Còn đối với các loại nghiệp khác,
thì có
thân trung hữu".
Như vậy là theo kinh
Niết Bàn của Ðại
thừa, thì trong đa số trường hợp, nghiệp ác-thiện xen lẫn, không
phải
cực ác hay cực thiện thì có thân trung hữu, tức là một giai đoạn
ngắn
hoặc dài, chúng sanh chết rồi nhưng chưa tái sanh. Và, trong giai
đoạn
trung gian, chết rồi mà chưa tái sanh đó, chúng sanh mang một cái
thân
đặc biệt gọi là thân trung hữu hay thân trung ấm.
* Thân trung ấm
tồn tại trong thời gian bao
lâu?
Luận Tỳ Bà Sa khẳng
định thời gian tồn tại
của thân trung ấm phải rất ngắn. Nhưng bao lâu? Thế Hữu nói tối đa
là 7
ngày. Thiết Ma Ðạt Ða nói tối đa 49 ngày. Còn Pháp Cứu thì nói bao
nhiêu ngày là tùy có đủ nhân duyên hay không, nếu chưa đầy đủ nhân
duyên thì thân trung ấm vẫn tồn tại, không hạn chế thời gian. Thí
dụ,
nhân duyên cho một Chuyển Luân Vương tái sanh không phải là dễ.
Thời gian
chờ đợi có thể lâu.
* Ðặc điểm của
thân trung ấm
Luận Câu Xá mô tả khá
cụ thể. Thân
trung ấm cùng một dạng với thân bổn hữu. Thân bổn hữu là thân sẽ
tái sanh.
Nếu do nghiệp mà sẽ tái sanh làm người thì thân trung ấm là thân
của
con người bé khoảng 5 tuổi, có năm giác quan đầy đủ, nhưng những
cảm quan
đó được cấu tạo bằng sắc pháp vi tế, nhỏ nhiệm cho nên mắt người
không trông thấy được.
Nếu thân trung ấm là
thân người thì nó
có năm giác quan đầy đủ, làm bằng chất liệu vi tế, cho nên công
năng thấy, nghe v.v... của nó nhạy bén hơn là công năng thấy, nghe
của thân
người sống, có giác quan được cấu tạo bằng những chất liệu thô
nặng
hơn. Nói cách khác, họ (tức là thân trung ấm) thấy chúng ta được,
nhưng
chúng ta không thấy họ được. Thân trung ấm không đi đứng như chúng
ta
bình thường, mà có thể đi ngang qua vật cản, bay liệng trên không
để chờ cơ hội tái sanh. Khi đã có chỗ thích đáng cho họ tái
sanh, thì không có gì ngăn cản họ được. Nhưng năng lực thần thông
này
không phải do rèn luyện thiền định mà có, cho nên sách Câu Xá
gọi là nghiệp thông, ý nói thần thông không phải do rèn
luyện hay thiền định, mà là do nghiệp của thân trung ấm là như
vậy.
Thân trung ấm được
nuôi dưỡng bằng mùi
(sách Trung Quốc gọi là hương). Nghĩa là không phải ăn thức ăn như
chúng ta, mà là ăn cái mùi vị mà thôi. Thí dụ dĩa thịt. Thân trung
ấm chỉ
ngửi mùi thịt, chứ không phải ăn thịt thật sự. Vì vậy mà sách Phật
cũng
gọi thân trung ấm là hương ấm (gandhaba).
Thực ra, hướng tái
sanh đã được quyết
định, khi người mới chết, vừa tắt thở ; cho nên nếu hướng tái sanh
là cõi người, thì lập tức thân trung ấm là thân người, như một cậu
bé
độ 5, 6 tuổi, với năm giác quan nhạy bén hơn là giác quan của
người sống,
và di chuyển không có vật gì cản được.
Như đã nói trên, thời
gian tồìn tại của
thân trung ấm là vấn đề còn bàn cãi, nhưng người Tây Tạng cho
rằng,
thời gian tồn tại tối đa của thân trung ấm là bảy tuần, và cứ sau
mỗi
tuần thì trung ấm có biến đổi.
Con người có thể nhớ
lại trung ấm thân
trước đây của mình hay không? Học giả Francis Story, qua thu thập
và
nghiên cứu nhiều tài liệu liên quan, đã tổng kết kinh nghiệm
đó thành những điểm sau:
1- Khi người mới
chết, trung ấm thân
tách khỏi cái thân chết bất động, nhưng lại không có cảm giác là
mình
vừa chết, mà là mình vẫn sống. Cảm giác này rất giống cảm giác của
những người nhờ thôi miên hay bị uống thuốc mê mà xuất thần.
2- Trung ấm thân thấy
xuất hiện một
người khác hướng dẫn mình.
3- Trung ấm thân di
chuyển không bị trở
ngại bởi bất cứ vật cản gì, có thể thấy những trung ấm thân khác.
Giác
quan của trung ấm thân bén nhạy.
4- Cõi sống của các
trung ấm thân là cõi
sống riêng biệt, khác với các cõi sống khác như cõi người, cõi súc
sanh, ngạ quỷ, địa ngục và cõi trời là những cõi sống thường được
mô
tả trong các sách Phật.
3- Francis Story kể
lại chuyện một
người Thái Lan tên là Kawn, chết vì bệnh thương hàn, thấy các sư
cầu nguyện bên cạnh giường nằm của mình, sau đó thấy các sư đi ra,
và
mình cũng theo ra, và khi đó anh ta mới biết là mình đã chết. Anh
thấy mọi sự vật xung quanh anh không có gì thay đổi, không khác gì
lúc
anh còn sống. Anh thấy mình đi ngang qua nhiều người khác như là
đi vào
chỗ không người. Và khi anh nghĩ tới bất cứ một nơi nào thì lập
tức anh
thấy mình xuất hiện ngay tại nơi đó. Anh ta không có cảm giác đói,
cũng
không thấy sợ hãi khi thấy một gã say rượu và một cậu bé chạy
thẳng vào
phía anh ta. Anh có cảm giác mình trở nên bé nhỏ. Anh ta không cảm
thấy giận
dữ khi gặp những người sống ném đá vào mình, nhưng anh thấy các
trung ấm
thân khác tỏ ra giận dữ trong cảnh ngộ tương tự, nhưng anh cũng sợ
là mình
bị thương nếu bị ném phải.
6- Ðại sư Tsong Khapa
(Tây Tạng) dẫn chứng
cuốn "Di Già sư địa luận" (Yogacara Bhumi), khẳng định là
trung
ấm thân không có hối tiếc lại thân phận mình, khi còn sống.
7- Trung ấm thân có
giống như một đứa bé
5, 6 tuổi ở trần hay không thì còn là vấn đề bàn cãi. Có tư liệu
nói trung ấm thân mặc quần áo giống như khi lâm chung.
8- Trung ấm thân
thường theo dự tang lễ của
mình, và quan sát bà con thân thích mà mình vốn yêu mến.
9- Trung ấm thân
không cảm thấy đói và
mệt, nhưng phạm vi hoạt động và giao tiếp bị hạn chế. Trung ấm
thân không còn chịu cái khổ của cuộc sống thế gian, với cái thân
vật
chất thô nặng, thường phải chịu những đau đớn vật chất.
10- Trung ấm thân mất
ý thức về thời
gian. Vài chục năm đối với trung ấm thân như trôi qua trong nháy
mắt.
IV- Kết luận
Thuyết tái sanh và
thuyết nghiệp
có một tầm quan trọng rất lớn đối với đời sống cá nhân và xã hội.
Nó
cho biết, con người hiện tại từ đâu đến, và sau khi chết thì
con người sẽ đi về đâu? Nó cũng cho biết, ý nghĩa của nhân sinh
là gì. Vì sao con người lại có mặt ở đời này? Vì sao tuy cùng là
một loài
người cả, mà thân phận giữa các con người lại khác biệt nhau đến
thế?
Ðó là những vấn đề
rất căn bản, rất
hệ trọng ; thế nhưng con người hiện đại, sống một cuộc sống
thác loạn, vùi đầu vào cuộc săn đuổi quyền lực, đồng tiền và sắc
đẹp... hầu như không bao giờ nghĩ tới, còn nói gì đặt thành vấn đề
để suy tư, giải quyết.
Chỉ khi cái chết đã
gần kề, hay là
khi gặp phải một bất hạnh lớn, con người hiện đại mới tỉnh ngộ,
chợt
thấy mình đã phung phí gần trọn cả một đời để đeo đuổi những giá
trị không thật, chỉ là những bọt nước, những bèo trôi v.v... theo
đúng
như hai câu thơ của vua Trần Nhân Tông, một ông vua ngộ đạo:
Thị phi
niệm trục triêu hoa lạc
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn..."
Nghĩa: Niệm chạy theo
chuyện thị phi
như hoa rụng ban sớm, Tâm chạy theo danh lợi như mưa lạnh chiều
hôm.
Trên bình diện lý
luận, chứ không
phải trên bình diện thơ ca, thuyết tái sanh và nghiệp của đạo
Phật là một liều thuốc cảnh tỉnh tốt cho con người hiện đại./.
-oOo-