Mùa
đông năm 1991, tôi ra Vũng Tàu dưỡng bệnh, ở nhờ thất Thích Ca của
Quan Âm Phật Ðài. Trước cửa thất nhìn xuống mặt biển có cây Bồ đề sum sê
che rợp, râm mát cả thất. Tôi thường ra đứng dưới tàng cây nhìn xuống
biển. Một hôm, tôi đứng nhìn ra biển thấy biển cả thênh thang sóng bủa
trắng xóa, lúc đó có chú thị giả đứng bên cạnh, nhìn sang chú tôi hỏi:
"Ðố chú nước có dậy sóng không?" Chú ngần ngại thưa: "Có." Tôi hỏi
tiếp: "Nước có chảy không?" Chú thưa: "Có." Tôi chậm rãi bảo chú: "Nếu
nước dậy sóng và chảy thì khi không gió, hoặc nước chứa trong hồ sao
không tự dậy sóng và chảy?" Chú thị giả lặng câm. Nhân đây tôi giải
thích rộng cho chú hiểu:
Nước
không dậy sóng và không chảy.-Nếu nước hay dậy sóng và chảy thì bất cứ
lúc nào, ở đâu nước cũng dậy sóng và chảy, vì bản chất nó là như thế.
Như con người chúng ta là động thì bất cứ lúc nào, ở đâu đều là động,
dù cho khi ngủ yên mũi vẫn thở, tim vẫn đập, máu vẫn tuần hoàn, nếu
dừng động là con người chết. Song nước không phải thế, bản chất nước là
yên lặng, khi bị gió đùa hoặc bị một tác động nào khác, như tàu chạy...
nước mới dậy sóng. Chúng ta chứa nước trong hồ, trong vò, khạp... thì
nước yên lặng, mặc dù nước vừa múc trên lượn sóng đang vỗ ầm ầm, mà
chứa vào chỗ an tịnh nước từ từ lặng yên. Nước cũng không chảy, nếu
nước bản chất hay chảy thì lúc nào và ở đâu nước cũng phải chảy. Thực
tế chúng ta thấy không phải thế, nước có khi chảy có khi dừng, ở chỗ
này chảy, ở chỗ khác không chảy. Chẳng qua nước là thể lỏng, ở chỗ cao
thì nước chảy dồn xuống chỗ thấp, hoặc bị sức ép hay sức hút thì nước
liền di chuyển, nếu ở chỗ bình, trong hoàn cảnh bình thường thì nước an
nhiên bất động. Tôi có thể kết luận rằng:
"Nước
dậy sóng và chảy là do duyên." Cái gì làm duyên khiến nước dậy sóng?
-Gió là duyên chủ yếu khiến nước dậy sóng. Bởi duyên gió thổi mặt nước
dậy sóng, gió càng mạnh thì sóng càng to. Khi sóng đang bủa ầm ầm thì
có trăm ngàn lượn khác nhau, luợn A không phải lượn B... Bấy giờ có
danh từ Sóng và Nước dường như hai, mà thực thể sóng với nước không
phải hai. Sóng là tướng động của nước, khi tướng động dừng, chỉ còn lại
một thể nước an tịnh. Ðứng về mặt sóng thì có trăm ngàn thứ, đứng về
mặt nước thì không có hai. Chính sóng tức là nước, rời nước không có
sóng. Người thông minh muốn cần nước cứ trên sóng mà lấy, cần thấy mặt
biển phẳng lặng chỉ chờ khi sóng dừng thì thấy. Nếu bỏ sóng đi tìm nước
là người ngu, chạy tìm mặt biển phẳng lặng ngoài chỗ sóng dậy ầm ầm là
kẻ dại. Bám trên từng lượn sóng cho là mặt biển là kẻ đại ngu. Phải
biết vô số lượn sóng rượt đuổi nhau la hét ì ầm trên mặt biển là tướng
sanh diệt, chính mặt biển bát ngát thênh thang này mới là thể bất diệt
bất sanh.
Này
chú! Nơi tôi và chú sẵn có tâm thể thênh thang an tịnh dụ như mặt
biển, vọng tưởng dấy khởi dụ như dậy sóng. Một lượn sóng nổi lên trên
mặt biển, muôn ngàn lượn sóng tiếp nối dấy lên; cũng thế một vọng tưởng
khởi dậy, muôn ngàn vọng tưởng tiếp nối khởi lên. Chúng ta nhìn trên
mặt biển thấy những lượn sóng hùng hổ rượt đuổi ầm ầm trùng điệp, tưởng
chừng như mặt biển chỉ có sóng với sóng. Nội tâm chúng ta khi vọng
tưởng nổi lên ào ạt liên miên, tưởng như nội tâm mình chỉ là vọng
tưởng. Do đó, hầu hết người đời đều chấp nhận vọng tưởng là tâm của
mình. Ðến khi gió yên sóng lặng, chúng ta mới biết sóng chỉ là tướng
sanh diệt tạm thời trên mặt biển, duy mặt biển mới là thể chân thật bất
diệt bất sanh. Nội tâm được những giây phút an tịnh, chúng ta mới biết
vọng tưởng là tướng sanh diệt hư dối trong tâm thể, chỉ có tâm thể mới
là thể bất diệt bất sanh. Vọng tưởng có khi có, có khi không, tâm thể
hằng hữu chưa lúc nào vắng mặt. Chấp nhận vọng tưởng là tâm mình, khác
gì người chấp sóng là mặt biển. Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật kể:
"Thuở xưa có anh chàng tên Diễn-nhã-đạt-đa sáng sớm lấy gương soi mặt,
thấy đầu mặt hiện rõ ràng trong gương, khi úp gương lại không còn thấy
đầu mặt đâu nữa, chàng ta phát điên ôm đầu chạy la to: "Tôi mất đầu!
Tôi mất đầu!" Chú biết đức Phật kể câu chuyện này cốt nói điều gì
không? -Dạ không. Ðây là đức Phật ám chỉ người nhận vọng tưởng làm tâm
mình, như chàng Diễn-nhã nhận bóng trong gương làm đầu mặt mình thật,
khi mất bóng, phát điên ôm đầu thật chạy kêu mình mất đầu. Mặt biển
nguyên không hai, vừa có lượn sóng dấy động biến thành hai, vì đã có
biển và sóng. Cho nên các Thiền sư qua một câu hỏi hoặc đáp thấy Thiền
khách suy nghĩ liền đưa hai ngón tay. Song sóng không đơn thuần chỉ dấy
một lượn, mà lượn này vừa khởi trăm ngàn lượn khác nối tiếp theo (nhất
ba tài động vạn ba tùy). Vọng tưởng cũng vậy, một niệm khởi lên trăm
ngàn vọng tưởng tiếp nối. Người tu không ngừa đón được niệm đầu thì
không tài nào ngăn chận được những niệm sau. Sóng có khi dấy có khi
lặng, mặt biển chưa bao giờ vắng mặt. Vọng tưởng lúc có lúc không ,tâm
thể khi nào cũng hiện hữu. Sóng có thể tìm cách ngăn chận được, còn mặt
biển chú thử có cách nào xua đuổi được nó hay không? Người tu có thể xả
bỏ vọng tưởng, chớ không ai xa rời tâm thể được. Chú thử nghĩ, người
ta xả bỏ vọng tưởng để tâm thể hiện bày trọn vẹn, hoặc xả bỏ tâm thể để
vọng tưởng hiện lên đầy đủ, hai cách đó cách nào khó, cách nào dễ?
Thưa: Bỏ vọng tưởng dễ, chớ tâm thể làm sao bỏ được._ Ðấy! Vậy mà có
nhiều người tu nói "bỏ vọng tưởng khó". Bỏ cái sanh diệt, bảo tồn cái
bất sanh bất diệt là vô sanh, là giải thoát. Trái lại, quên cái bất
sanh bất diệt, chạy theo cái sanh diệt là sanh tử, là trầm luân. Biển
yên tịnh là sự thái bình của người và vật, biển động sóng to là sự hiểm
nguy cho người và vật. Tâm thể thanh tịnh là hạnh phúc, là Niết-bàn của
con người; tâm thể dấy động là phiền não, là trần lao của nhân loại.
Phật dạy rất nhiều pháp tu, chủ yếu không ngoài dạy chúng ta "đừng chạy
theo vọng tưởng, phải nhận chân tâm thể hiện tiền". Chạy theo vọng
tưởng là mê, nhận chân tâm thể hiện tiền là giác. Mê là quên tâm thể
nhận vọng tưởng, giác là bỏ vọng tưởng nhận tâm thể. Bởi con người đã
mê, nên Phật dùng nhiều phương tiện chỉ dạy trừ dẹp vọng tưởng: Trực
tiếp biết rõ vọng tưởng không theo; gián tiếp dùng niệm khác đè ép, như
trì danh hiệu Phật, trì câu thần chú, khán thoại đầu... Khi nhiếp phục
vọng tưởng được yên lặng, chỉ còn tâm thể thường hằng, gọi là kiến
tánh, ngộ đạo, nhất tâm...
Gió
dụ cho pháp trần.-Gió là tác nhân chủ yếu khiến mặt biển dậy sóng.
Pháp trần là tác nhân chủ yếu khiến tâm thể dấy khởi vọng tưởng. Nhưng
nói pháp trần chắc chú không biết là cái gì? _ Sách Phật thường nói:
"Sáu căn tiếp xúc với sáu trần sanh sáu thức." Ðây tôi chỉ giải riêng
sáu trần, chỗ chú trọng đặc biệt là pháp trần. Sáu trần là: sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp. Sắc là tất cả hình sắc do mắt thấy được, thanh là
mọi thứ âm thanh do tai nghe, hương là các thứ mùi thơm hoặc hôi do
mũi tiếp xúc, vị là các chất vị ngon dở mặn lạt... do lưỡi cảm nhận,
xúc là xúc chạm có cảm giác thích thú hay bực bội nơi thân, pháp là
bóng dáng của năm thứ trước còn rơi rớt trong tâm thức. Sáu thứ này đều
có hình tướng hoặc thô hoặc tế, là tướng biến động vô thường nên gọi
là trần. Riêng pháp trần không tự có, do năm căn (mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân) tiếp xúc với năm trần có cảm giác thích thú hay bực bội kích
thích mạnh mà sanh ra. Như mắt thấy sắc đẹp có sức quyến rũ say mê hoặc
thấy hình tướng kỳ quái ghê rợn thì ấn tượng sắc trần ấy in sâu trong
tâm thức khiến chúng ta nhớ mãi. Tai nghe lời tán tụng ngợi khen mình,
hoặc lời chỉ trích cay nghiệt ta thì ấn tượng thanh trần ghi sâu trong
tâm thức khiến ta khó quên được. Mũi ngửi mùi thơm đặc biệt hoặc mùi
hôi khó thở, thì ấn tượng hương trần in sâu trong tâm thức ta rồi. Lưỡi
thưởng thức vị ngon khoái khẩu hoặc vị cay đắng tái tê thì ấn tượng vị
trần đã ghi đậm nét trong tâm thức chúng ta. Thân xúc chạm những vật
có cảm giác thỏa mãn hoặc cảm giác đau khổ thì ấn tượng xúc trần đã rơi
rớt vào kho tâm thức mình rồi. Những thứ bóng dáng của năm trần lưu
trữ trong kho tâm thức, đợi khi năm căn không tiếp xúc với hiện cảnh thì
chúng ào ạt dấy khởi, gọi là pháp trần. Pháp trần vừa dấy lên thì ý
thức duyên theo phân biệt, nên nói ý thức duyên pháp trần. Ý thức chạy
theo pháp trần là bám chặt bóng dáng hư ảo, đuổi theo cái sanh diệt hư
ảo là sanh tử luân hồi. Chú thấy nguy hiểm không?_ Thế mà người đời cứ
săn đuổi tìm kiếm năm trần để làm thỏa mãn năm căn. Giả sử năm căn được
thỏa mãn, con người có an lành miên viễn không? Khao khát ước mơ thụ
hưởng năm trần là dồn chứa pháp trần vào tâm thức, thử hỏi kho tàng
thức của họ có tràn trề pháp trần không? Vì thế khi họ ngồi yên tọa
thiền hay niệm Phật, vọng tưởng vọt lên ào ào không cách nào ngăn đón
được, họ than tu hành khó quá. Nếu người nào trong tâm thức trống sạch
pháp trần thì con khỉ ý thức không còn cơ hội chạy nhảy. Ý thức là vọng
tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt
trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm
thanh tịnh của chúng ta. Bản thân ý thức tự không có, do pháp trần
khuấy động nảy sanh ý thức duyên theo. Do đó, người tu gắng sức đè dẹp ý
thức là không hợp lý, cốt đừng dung chứa pháp trần là yên. Nếu pháp
trần đã chứa, phải khéo léo loại bỏ, đồng thời không nuôi dưỡng chúng.
Ðức Phật dạy rất nhiều phương tiện ngăn đón và loại bỏ pháp trần. Cụ
thể những phương tiện sau đây:
-Răn
cấm để ngừa đón pháp trần.- Phật cấm người xuất gia không được nhìn
xem với vẻ trìu mến sắc đẹp người và vật, cốt ngừa đón nhãn căn tiếp
xúc sắc trần không cho sanh pháp trần rơi trong tâm thức. Người xuất
gia không được nghe âm nhạc tình tứ lãng mạn, ngừa đón nhĩ căn tiếp xúc
thanh trần không cho sanh pháp trần. Người xuất gia không được dùng
các thứ dầu thơm, ngừa đón tỷ căn tiếp xúc hương trần không sanh pháp
trần. Người xuất gia không được ăn thịt uống rượu và đòi các món ngon
khác, ngừa đón thiệt căn tiếp xúc vị trần không sanh pháp trần. Người
xuất gia không được dâm dục và nằm ngồi giường ghế êm đẹp, ngừa đón
thân căn tiếp xúc xúc trần không sanh pháp trần... Ðây là đức Phật dùng
giới luật làm phương tiện ban đầu để ngừa đón không cho sanh pháp trần
lưu trữ trong tâm thức.
-
Dùng trí tuệ quán sát.- Con người do chấp thân, tâm, cảnh là thật nên
suốt ngày quay cuồng vì ba thứ này, tạo ra vô số chủng tử pháp trần lưu
trữ trong tàng thức. Người tu Phật phải vận dụng trí tuệ quán chiếu
căn trần thức đều do nhân duyên hòa hợp mà có, không thực thể. Căn là
thân, trần là cảnh, thức là tâm, cả ba đều do nhân duyên hội tụ mà
thành, cũng do ba thứ này duyên nhau tạo thành nhân sinh vũ trụ. Như
thế, nhân sinh vũ trụ đều là tướng duyên hợp không có chủ thể, đủ duyên
thì thành, thiếu duyên thì hoại, hư dối không thật như huyễn như hóa.
Quán chiếu thuần thục thấy ba thứ ấy quả thực không thật, thì sự xúc
chạm thành hoại đến đi của chúng không còn gì phải bận tâm ta, tức là
không còn duyên cớ để sanh ra pháp trần. Ðây là dùng trí tuệ của chính
mình để quán chiếu phá tan mọi chủng tử pháp trần.
-
Nhận ra chân tâm hằng hữu.- Nơi mỗi chúng ta đều có tâm thể chân thật
hằng hữu. Vì quên nó, chúng ta cố chấp thân này là thật, chạy theo sự
đòi hỏi của năm căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) muốn được thụ hưởng
thỏa mãn đối với năm trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc), dấy lên sự so
sánh phân biệt của năm trần là năm thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức,
thiệt thức, thân thức), do chú tâm phân biệt tạo nên pháp trần rơi vào
tàng thức. Pháp trần đã lưu trữ trong tàng thức, nên khi dấy khởi liền
có ý thức duyên theo, tức là thành sáu căn, sáu trần và sáu thức. Thấy
thân thật thì căn trần thức đều thật. Do nhận ra tâm thể chân thật hằng
hữu mới thực là mình, người này liền biết thân do tứ đại hòa hợp là hư
giả. Thấy thân giả thì căn trần thức đều giả, tự nhiên chúng ta sẽ
dửng dưng không dính mắc với sáu trần. Nhà Thiền nói: "Thấy sắc như
đui, nghe tiếng như điếc", hoặc nói "căn trần không dính nhau là giải
thoát". Ðến đây không dùng phương tiện ngừa đón hay dùng trí tuệ quán
sát, chỉ nhớ tâm chân thật hiện hữu thì mọi thứ hư dối đều dừng.
- Cao thấp, sức ép, sức hút nước chảy dụ năm trần.- Năm căn
chúng ta có sẵn tính luyến ái năm trần, khi tiếp xúc với trần nào đúng
sở thích của nó liền bị sức hút lôi cuốn. Như mắt thấy sắc đẹp bị sức
hấp dẫn nó liền chạy theo đuổi bắt, bị sắc trần lôi cuốn. Tai nghe
tiếng hay say mê đòi được thỏa mãn lỗ tai, tìm mọi cách gần gũi, bị
thanh trần chi phối. Mũi ngửi mùi thơm say đắm dùng trăm phương ngàn kế
để được ngửi mãi, bị hương trần trói buộc. Lưỡi nếm vị ngon thích khẩu
tham mê đòi hỏi thường được thưởng thức, dùng mọi thủ đoạn tranh giành
để thỏa mãn cái lưỡi, bị vị trần làm chủ. Thân xúc chạm vật có cảm giác
hấp dẫn đam mê, dùng mọi thủ thuật chiếm hữu bất kể trước mắt có những
hiểm nguy, bị xúc trần xỏ mũi.
Chận đón năm căn khỏi bị năm trần lôi cuốn.
-
Quán các cảm thọ vô thường.- Con người thường bị cảm giác khổ vui làm
chủ, khi mắt thấy sắc đẹp vừa ý liền bị cảm giác thọ vui thu hút. Chúng
ta phải quán sát cái cảm giác thọ vui vừa có, liền qua mất không lâu
bền. Các cảm giác thọ vui của tai, mũi, lưỡi, thân cũng thảy đều vô
thường, vừa cảm nhận thụ hưởng thích thú trong giây phút liền mất, nếu
còn chỉ là dư vị trong tưởng tượng mà thôi. Theo đuổi những thú vui tạm
bợ mỏng manh ấy, thật là hoài công của một kiếp người. Nhận chân lẽ
thật này, chúng ta sẽ làm chủ được mình không bị năm trần lôi kéo.
-
Quán các cảm thọ hư dối.- Những cảm thọ khổ vui của năm căn vốn không
tự có, đợi sự tiếp xúc giữa căn và trần mới nảy sanh. Phàm vật gì đợi
duyên hợp mới có là không tự thể. Cảm thọ khổ vui đã không tự thể làm
sao thật được. Do duyên hợp mà có, duyên tan liền mất, cái có ấy như
trò ảo thuật, như giấc chiêm bao, chúng ta quan tâm làm gì? Con người
là thông minh hơn muôn vật chẳng lẽ chúng ta nỡ thả trôi suốt đời mình
theo cái ảo hóa ấy sao? Song thật đáng thương, con người cả đời say mê
đắm đuối theo cái cảm thọ vui của năm căn này. Giành giựt nhau thụ
hưởng, sát phạt nhau để được phần hơn, trù rủa, xâu xé, oán hờn, thù
hận... chỉ vì thụ hưởng vui của năm căn mà ra. Chúng ta mang chiếc thân
tạm bợ có mấy mươi năm đành cam vùi dập nó trong cái chùm ảo hóa, xô
đẩy lôi kéo nhau xuống hồ sâu huyết lệ thương đau. Sao chúng ta không
thức tỉnh, để an ủi nhau, đùm bọc nhau, che chở nhau, giúp đỡ nhau cho
vơi bớt khổ đau trong cuộc đời hư ảo tạm bợ này?
Này
chú! Tôi đã nói khá nhiều e chú không thể nhớ nổi, giờ đây tôi thu gọn
lại cho chú dễ nhớ. Nước biển dụ tâm thể hay chân tâm. Sóng dụ vọng
tưởng. Gió dụ pháp trần. Chỗ cao thấp, sức ép, sức hút dụ năm trần.
Nước vốn không dậy sóng, không chảy để dụ tâm thể hằng hữu bất động.
Song khi gió thổi đùa nước, sóng liền nổi dậy để dụ pháp trần lưu trữ
trong tàng thức khi gặp duyên dấy lên, ý thức liền duyên theo tạo thành
vọng tưởng lăng xăng. Nước là thể lỏng tự an tịnh, gặp duyên cao thấp,
sức ép, sức hút liền di chuyển từ chỗ này đến chỗ khác biến thành nước
chảy, để dụ tâm thể tự an tịnh bị sức lôi cuốn thu hút của năm trần
khiến năm thức trôi lăn theo rồi dính mắc. Chúng ta tu theo Phật không
sợ vọng tưởng, không ngại năm trần (ngũ dục), chỉ cần khôn ngoan khi
căn trần tiếp xúc nhau đừng để dính mắc và tạo ra pháp trần gieo vào
tàng thức. Không dính mắc là giải thoát, không có pháp trần là tâm thể
thanh tịnh. Giải thoát và thanh tịnh là mục tiêu tối hậu của người tu
Phật. Muốn đạt được mục đích này, chú phải khéo ngăn ngừa rào đón khi
căn trần tiếp xúc nhau sanh cảm thọ khổ vui, biết rõ các cảm thọ này là
tạm bợ hư ảo, là nhân trầm luân đau khổ; không thèm thuồng, không
hưởng thụ, không say đắm, mà dửng dưng trước mọi cám dỗ và thách đố của
chúng. Ðược vậy, bảo đảm chú sẽ thành công trên đường học đạo.