Thật vậy, Ðức Phật, vì muốn độ
chúng sinh thoát khổ sinh tử nên mới nương vào thế giới Tục đế mà nói pháp, nhằm
chỉ bày cho chúng sinh thấy được cái bản chất chân thật tự nhiên của Tâm vốn sẵn
có, để chúng sinh, tự nỗ lực tu hành giải thoát khỏi khổ đau sinh tử, lìa khỏi
thế giới Tục đế, đến thế giới Chân đế.
Cũng vì thế mà ngài Long Thọ Bồ
tát nói rằng “... Các Ðức Phật vì chúng sinh, y vào Nhị đế mà nói pháp, thứ nhất là Thế
tục đế và thứ hai là Ðệ nhất nghĩa đế. Nếu người nào không nhận thức được hai
chân lý này, thì đối với Phật pháp sâu xa, không thể hiểu được chân nghĩạ Nếu không nương tựa vào tục đế,
thì không thể thấy được chân lý; nếu không thấy được chân lý, thì không thể ngộ
được Niết bàn...”[1]
Tục đế là một
hợp từ: “tục” nghĩa là thế tục hay phàm tục, “đế” nghĩa là chân
lý. Tục đế còn gọi là thế tục đế. Tục đế có nghĩa là những cái gì mà
người thế tục đồng ý với nhau, gọi là chân lý quy ước hay còn gọi là
chân lý tương đốị Còn Chân đế, cũng là một hợp từ, có nghĩa là
chân lý chân thật, không hư vọng, là chân lý tuyệt đối, là chân lý tối
thượng, cũng còn gọi là Ðệ nhất nghĩa đế, là chân tâm, giác tánh,
chân như, trung đạọ. v..v..
Chân
lý tuyệt đối là gì? Không ai biết được ngoại trừ chính chư Phật và chư Tổ đã
giác ngộ. Các ngài cũng không thể nói cho chúng ta biết được. Toàn bộ giáo điển
của chư Phật là pháp phương tiện, Ngài “dùng pháp thế gian, (tức thế tục đế) để giảng nói cho
chúng sinh”[2], cốt để chúng sinh ngộ được cái chân lý tuyệt đối như
Ngài vì Ngài thấy Tâm Phật và Tâm chúng sinh vốn không khác, vốn tự đầy đủ mênh
mông khắp không gian và thời gian.
Thật vậy, xuyên qua lời dạy của
Phật và chư Tổ, sở dĩ có sự sai khác là vì tâm chúng sinh bị mê mờ ô nhiễm. Cái
Tâm bị bao vây bởi tham sân si, bởi vọng tưởng điên đảo, bởi tham nhiễm các
pháp có không. Ngài Sogyal Rinpoche, một đại sư Tây tạng, ví Tâm chúng ta bị
vây kín trong một cái bình mà “khoảng không trong bình cũng giống như khoảng không bên
ngoàị Khi chúng ta giác ngộ, thì cũng như cái bình vỡ tan thành mảnh vụn...
Ngay lúc đó và tại chỗ đó, chúng ta trực nhận được rằng chúng chưa từng bao giờ
có sự ngăn cách hay sai khác...”[3]
Vì tâm sinh diệt của chúng sinh
luôn luôn dính mắc vào các pháp “có không” nơi thế giới hiện tượng tức thế giới
tục đế, nên Ðức Phật thấy thật là khó nói về cái mà Ngài đã chứng ngộ, chẳng hạn
như nói về Phật tánh, chân tâm, vốn không hình tướng, không số lượng. Nếu nói
chúng sinh có Phật tánh là chấp trước, nói không có Phật tánh là hư vọng, nói
Phật tánh cũng có cũng không là nói trái ngược nhau, nói Phật tánh chẳng có chẳng
không là hý luận. Nên Phật mới dùng các pháp thế gian phương tiện, “giả lập kệ
pháp, giả lập danh tự, vốn chẳng phải Phật, nói với họ là Phật, vốn chẳng phải
Bồ Ðề, Niết Bàn, giải thoát, nói với họ là Bồ Ðề, Niết Bàn, giải thoát, ... Biết
họ gánh trăm tạ chẳng nổi, tạm cho họ gánh một lon, một chén, biết họ khó tin
giáo liễu nghĩa, tạm nói với họ giáo bất liễu nghĩa, tạm được pháp lành lưu
hành còn hơn là pháp ác...” [4]
Cũng chính vì chân lý tuyệt đối
này rất khó hiểu, khó nhận, khó nói nên đôi khi Ngài phải dùng những thí dụ
bằng lời nói, như trong kinh Pháp Hoa,
Phật dùng bẩy thí dụ, trong đó có hai thí dụ là cái nhà lửa và câu chuyện đứa
con cùng tử mà ai cũng biết. Ngoài ra còn nhiều kinh khác như Bách Dụ Kinh, Tạp
Thí Dụ Kinh, Bồ Tát Bổn Sanh Kinh, ... Các thí dụ Ngài nói trong kinh dùng phương
thức ngụ ngôn, hàm chứa những ý nghĩa thâm thúy, ám thị lý tuyệt đối mà
chân lý tuyệt đối này không thể dùng lời trực tiếp mà giảng giải vì lời
chỉ là khí cụ diễn đạt cái tư tưởng tương đối, cái có hình, có tướng trong thế
giới nhị nguyên.
Chư tổ chứng ngộ cũng vậy,
không thể nói cho chúng ta biết được chân lý tuyệt đối là gì, mà quý ngài chỉ
dùng những câu chuyện ngụ ngôn, như câu chuyện con rùa và con cá để làm thí dụ
mà thôị Rằng con rùa từ dưới nước bò lên mặt đất, đi một vòng rồi trở về nước,
bơi cạnh con cá, kể chuyện đất liền cho nó nghẹ Nhưng con cá, vì chưa bao giờ rời
khỏi nước, không thể tưởng tượng nổi lại có một môi trường có thể sống được mà
không có nước, không bơi lộị Cho nên con rùa đành chịu mang tiếng là nói chuyện
viển vông hoang đường, không có trong thực tế.[5]
Cảnh giới tuyệt đối, chân tâm,
giác tánh, chân như, mà Phật đã giác ngộ không thể nói cho người chưa chứng ngộ
biết được. Vì lẽ đó mà người đời đôi khi cũng phê bình: “Ðạo Phật cao siêu quá,
không có trong thực tế”. Nhưng chính đó mới là cốt tủy của Phật Giáọ
Kinh Kim Cang là kinh liễu nghĩa,
nói về cốt tủy của đạo Phật, về chân lý tuyệt đối, cho nên không có pháp gì để
nóị Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết
tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời vốn
là nhân kiên cố của vòng xích luân hồi tử sinh, đã lôi kéo chúng sinh vào vòng
trầm luân muôn vạn kiếp. Ngài phá bỏ không còn một kiến chấp nào và Ngài cũng
tuyên bố luôn là Ngài không thuyết pháp:
“- Tu Bồ Ðề! Ông chớ cho Như Lai có nghĩ rằng: “Ta
có nói pháp”. Ông chớ nghĩ như vậỵ Bởi vì saỏ - Vì nếu người nào nói rằng: Như
Lai có nói pháp, tức là chê Phật, không hiểu được lời của ta nóị Tu Bồ Ðề! Nói
pháp, là không có pháp gì nói được, ấy gọi là nói pháp.”[6] Có nghĩa là Phật không nói về cái chân lý tuyệt
đối, về cái chân tâm, Phật tánh, Chân Như, vì chân lý tuyệt đối vốn chẳng thể
dùng ngôn ngữ tương đối thế tục để biểu thị. Ngài chỉ dùng ngôn ngữ thế gian tức
chân lý thế tục để chỉ bảo chúng sinh, mà ngôn ngữ thế tục, là pháp tương đối
thì không có tự tánh, chỉ do nhân duyên hòa hợp, và do nhân duyên hòa hợp nên
không có thật.
Ðức Phật khi giảng pháp, Ngài
luôn luôn nói sự thật. Có khi Ngài nói về
sự thật tương đối và có khi Ngài nói về sự thật tuyệt đốị Nếu không hiểu điều đó, chúng ta thấy nhiều
điều Ngài nói trái ngược nhau và sẽ làm cho chúng ta bối rối, hiểu mập mờ, hỗn
độn (confuse). Thí dụ như trong kinh Ðại
Bát Niết Bàn đức Phật nói:
Chư hành vô thường,
Thị sinh diệt pháp.
Sinh diệt diệt dĩ,
Tịch diệt vi lạc.
Hai câu đầu có nghĩa là tất cả
các pháp hiện tượng đều vô thường, chúng đều là những pháp sinh diệt. Hai câu sau có nghĩa là khi sinh và diệt đã bị
diệt, tức không còn sinh diệt nữa thì còn là niềm an lạc. Trong thế giới này, tức thế giới tương đối có
sinh và có diệt, còn thế giới kia tức thế giới tuyệt đối thì không sinh không
diệt. Nếu chúng ta không hiểu rõ tục đế
và chân đế thì cho rằng đức Phật nói trái ngược nhaụ Sự thật Ngài luôn luôn nói đúng sự thật. Hai câu đầu là tục đế tức thuộc thế giới hiện
tượng tương đối, có sanh và có tử. Hai
câu sau thuộc lãnh vực tuyệt đối tức chân đế, không có sinh và không có diệt,
là thế giới của pháp tánh hay thế giới của bản thể.
Ðến đây, chúng ta trở lại bài kệ
của Bồ Tát long Thọ đã nêu trên phần mở đầụ. Bồ Tát dạy chúng ta rằng nếu chúng
ta không phân biệt được chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối, tức thế tục đế
và chân đế, thì chúng ta không thể hiểu được đạo Phật. Do sự không hiểu và
không phân biệt rõ này, chúng ta lại nhập nhằng đem lời Ðức Phật nói “không thể
nói pháp tuyệt đối”, mà cho là Ðức Phật nói “không nói pháp tương đối” là chúng
ta vô tình vướng mắc vào sự hủy báng kinh, chứa đựng những lời tâm huyết của Ðức
Phật. Ngài đã dùng ngôn ngữ và chân lý thế tục để dạy người thế tục biết cách
mà tiến dần trên con đường từ bỏ thế tục đế, trở về thế giới của bản thể tuyệt
đốị Nếu chúng ta không hiểu được điều
đó, mà tưởng rằng Ðức Phật không nói pháp, thì chúng ta sẽ mất niềm tin nơi
kinh, sẽ mất cơ hội có con đường chỉ dẫn chính xác để tìm đường trở lại bản thể
chân tâm tuyệt đốị
Cước Chú:
(1) Thích Tâm Thiện, Lịch Sử Tư
Tưởng và Triết Học Tánh Không, Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh 1999, http://www.thuvienhoasen.org/tt-tanhkhong-00.html
(2) Kinh Ðại Bát Nhã, Cuốn 2,
Trang 275
(3) Sogyal Rinpoche -Thích Nữ
Trí Hải dịch, Tinh Chất Cam Lồ, , TP HCM Vi(r)t Nam 1969
(4) Bá Trượng Ngữ Lục, Thích
Duy Lực, Từ ân Thiền Ðường xuất bản, 1999 trang 29-30
(5) Narada Maha Thera, Ðức Phật
và Phật Pháp, Phạm Kim Khánh Việt dịch, Ðại Nam xuất bản 1987, trang 458-459
(6) Thích Huệ Hưng dịch, Kinh
Kim Cang Giảng Lục, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản 1983, trang 82