Theo truyền thống an cư
của Phật giáo Bắc tông, sau ngày 15-4 âm lịch, chư Tăng Ni hệ phái Khất
sĩ trên khắp mọi miền đất nước đều tập trung trở về ba điểm an cư chính
của hệ phái tại TP.HCM là: đạo tràng tịnh xá Trung Tâm (Q.Bình Thạnh),
điểm an cư dành cho chư Tăng, đạo tràng tịnh xá Ngọc Phương (Q.Gò Vấp)
và đạo tràng tịnh xá Ngọc Phú (Q.Tân Bình) là hai điểm an cư dành cho
chư Ni, để kiết giới an cư trong ba tháng, nhằm thúc liễm thân tâm, trau
dồi Giới - Định - Tuệ.
|
Pháp an cư của hành giả phái Khất sĩ
|
Tại các trường hạ, chư vị Tăng (Ni)
gặp lại nhau, nói cười chào hỏi trong không khí vui tươi, thắm tình đạo
vị. Tình sư môn-nghĩa đạo mầu được thiết lập sau những tháng ngày xa
cách. Các hành giả khất sĩ an cư cùng sống chung tu học theo tinh thần
lục hòa cộng trụ, thực hành theo giáo pháp Đức Phật và đường lối hệ phái
Khất sĩ, nêu cao tinh thần Tứ y pháp - Trung đạo mà Đức Tổ sư Minh Đăng
Quang đã truyền dạy.
Trong ba tháng an cư, mỗi hành giả đều
phải thức tỉnh với chính mình. Xem giới luật như viên ngọc sáng quý giá
phải cẩn trọng giữ gìn từng phút từng giây. Tuân thủ các thời khóa tu
tập của trường hạ để thúc liễm thân tâm, thực hành chánh niệm, chuyển
hóa những cặn bã bùn nhơ phiền não.
Các hành giả an cư sống trong môi
trường thanh tịnh, luôn được sự bảo hộ của giới pháp. Đức Tổ sư đã dạy:
“Chính giới luật của Giáo hội Tăng già là xứ Tây phương Tịnh thổ, Cực
lạc, an dưỡng của chúng sanh, là thế giới tinh thần, hay viên ngọc quý
của cõi trần, cũng là trường học Ta bà của vũ trụ, chiếc thuyền bè của
biển hay là nhà an lạc nơi giữa chợ…”(Minh Đăng Quang pháp giáo,
soạn giả Hàn Ôn, tr.72). Đức Tổ sư luôn đề cao giới luật, khuyến tấn
chư Tăng Ni hệ phái Khất sĩ phải tuân thủ thực hành. Ba tháng an cư là
thời điểm quan trọng để các hành giả thực tập và thể hiện việc hành trì
giới luật rõ nét nhất. Sống chung trong đạo tràng an cư, trong Giáo hội
Tăng già thì người Khất sĩ hay các hành giả an cư nói chung đều phải
tuân thủ giới luật một cách nghiêm túc. Từng cử chỉ, mỗi lời nói hay
hành động đều thể hiện oai nghi, phạm hạnh, tất cả các hành vi đều được
giới pháp bảo hộ.
Ngày nay, trong cơn lốc của nền kinh
tế thị trường, con người phải đối mặt với xu thế hướng ngoại nhiều hơn
cùng với tác động đa chiều của các biến động xã hội. Trong bối cảnh đó,
người xuất gia học đạo cũng bị chi phối và ảnh hưởng phần nào. Vì thế,
trong tu tập đòi hỏi sự nỗ lực của từng hành giả, nhằm chế ngự sự vọng
động của tâm thức khi tiếp xúc với ngoại cảnh. Do đó, sự tinh tấn tu
tập, thực hành thiền định, tuân thủ giới luật trong ba tháng an cư là
vấn đề quan trọng để chuyển hóa thân tâm.
Dù tu tập và sinh hoạt chung với nhau
trong hạ trường an cư, nhưng mỗi vị hành giả tự chọn cho mình một pháp
môn riêng biệt để ứng dụng tu học, hành trì. Có vị chọn thiền định làm
pháp môn tu tập, nhưng cũng có vị chọn pháp môn niệm Phật hay trì chú để
trì niệm nhằm diệt trừ tham dục, chuyển hóa vọng tưởng…
Trong những sai biệt về pháp hành tùy theo căn cơ ấy, các thời khóa tu
học của trường hạ hệ phái Khất sĩ đều lấy pháp tu thiền định làm nền
tảng chủ yếu cho các thời khóa công phu. Ngoài ra các hành giả an cư còn
được thính pháp, chia sẻ pháp đàm, lễ bái và tụng niệm.
Theo truyền thống thiền môn, mở đầu
một ngày tu tập vào lúc 3 giờ 45 phút, tất cả chư vị hành giả an cư đều
thức dậy và bắt đầu thời khóa thiền định. Các hành giả theo thời khóa mà
trường hạ đã đề ra hành trì liên tục, nhịp nhàng cho đến 21 giờ mới chỉ
tịnh, kết thúc một ngày tu học.
Con đường tu tập chính yếu mà Đức Tổ sư Minh Đăng Quang đã đề ra cho
Tăng Ni hệ phái Khất sĩ là thiền định. Chính Đức Tổ sư sau 7 ngày nhập
định tại Mũi Nai - Hà Tiên đã chứng ngộ. Cho nên toàn thể chư vị Tăng Ni
đệ tử của ngài đều lấy thiền định làm pháp môn căn bản để hướng đến và
thành tựu giải thoát, giác ngộ.
Nói về sự tu tập thiền định, Đức Tổ sư
dạy: “Người có định, thì thân khẩu ý mới trong sạch, tuy ít nói mà nói
hay, tuy ít làm mà làm nên, tuy ít nhớ mà nhớ phải, là được kết quả yên
vui biết bao nhiêu” (Ánh Minh Quang, Nxb TP.HCM, 2004, tr.57). Như vậy,
thiền định là pháp môn tu tập chủ yếu của người Khất sĩ trong ba tháng
an cư cũng như trong đời sống tu tập hàng ngày. Thiền định giúp tâm hồn
hành giả trở nên thanh tịnh và nhu hòa, xa rời mọi sinh hoạt ồn náo của
trần tục, tâm thức an trụ nên thần tỉnh, trí sáng, dễ dàng thăng hoa và
chứng đạt tuệ giác.
Theo lời Phật dạy, Giới-Định-Tuệ là ba
chân vạc cần được thiết lập vững chắc trong quá trình tu tập. Đức Tổ sư
cũng nêu lên mối liên hệ mật thiết của Giới-Định-Tuệ trong việc tu tập
đối với người Khất sĩ: “Giới luật là y bát, là Khất sĩ, Khất sĩ là
Định-Tuệ, nếu Khất sĩ không có tu về Định-Tuệ dẫu mà có trì giới không
đi nữa, cũng chưa gọi được là Khất sĩ” (Ánh Minh Quang, Nxb TP.HCM,
2004, tr.56). Tổ sư đã khẳng định, ngoài việc tuyệt đối tuân thủ Giới
luật, người tu cần phải thành tựu Định-Tuệ, chúng không thể tách rời
nhau trong việc hành trì giáo pháp của người Khất sĩ.
Khi kết thúc mùa an cư kiết hạ, chư
Tăng Ni hành giả đều tham dự ngày Tăng tự tứ và thực hành pháp tự tứ. Vị
nào có lỗi, phải phát lồ sám hối trước Giáo hội Tăng già để được trở
nên trong sạch. Cũng nhân ngày này mỗi vị được tăng trưởng thêm một tuổi
hạ, đánh dấu sự tu tập của mình lớn thêm một bước trong giáo pháp. Còn
chư vị tân Tỳ kheo nào sau mùa an cư được thọ giới tại Giáo hội trung
ương hệ phái, phải tập trung về giáo đoàn của mình để đảnh lễ ra mắt hội
chúng Tăng. Chư vị ấy sẽ chính thức gia nhập vào hội chúng Tỳ kheo bình
đẳng, được sự bảo bọc và sống trong khuôn phép của Giáo hội Tăng già.
Như thế, mùa an cư của người Khất sĩ
lại tiếp tục trôi qua, các hành giả tinh tấn tu tập để trưởng thành hơn
trong giáo pháp. Nguồn năng lượng tu tập được thiết lập, làm bền vững
hơn tinh thần thanh tịnh hòa hợp theo bản thể Tăng già cũng như ý nguyện
của Tổ sư Minh Đăng Quang là “nên tập sống chung tu học”.
Học tập và thực hành theo lời của Phật - Tổ để làm sống lại chí nguyện,
đạo lực kiên cường và tiếp bước trên chặng đường giáo hóa độ sanh - một
trách nhiệm thiêng liêng của người xuất gia tu Phật. Khất sĩ mãi là một
lữ khách trên cõi hồng trần, thức tỉnh chúng sanh quay về với Chánh
pháp, tin tưởng Tam bảo và phát tâm tu hành.