Hỏi: Tại sao trước ngực của tượng Phật Thích Ca có hình chữ Vạn? và ý
nghĩa của chữ vạn như thế nào? Và không hiểu lý do tại sao hình chữ Vạn
có khi có chiều xoay bên phải, có khi có chiều xoay bên trái?
Đáp: Chữ vạn
là một trong 32 tướng tốt của Đức Phật. Đây
là biểu thị cái công đức của Phật. Sở dĩ nó ứng hiện ở nơi ngực của Phật
là để
nói lên cái ý nghĩa giác ngộ vẹn toàn của Phật. Ở chính giữa ngực là
tượng trưng
cho lý Trung Đạo, không kẹt hai bên, vượt ngoài đối đãi.
Về ý nghĩa của
nó, theo Từ Điển Phật Học Huệ Quang giải thích, thì nó có nghĩa là cát
tường hải
vân hay cát tường hỷ toàn. Còn về chiều xoay bên phải, bên trái không
đồng nhứt,
thì cũng theo Từ Điển Phật Học Huệ Quang giải thích như sau:
“Hình chữ
Vạn, (xin vẽ chữ vạn có chiều trên xoay về bên trái vào đây) vốn là dấu
hiệu
biểu thị sự tốt lành ở Ấn Độ thời xưa. Ngoài Ấn Độ thì Ba Tư, Hy Lạp đều
có phù
hiệu nầy, thông thường được xem là tượng trưng cho mặt trời, ánh chớp,
lửa, nước
chảy.
Ở Ấn Độ thời xưa, Phật giáo, Bà
La Môn giáo, Kỳ na giáo, đều sử
dụng chữ nầy. Đầu tiên, người Ấn Độ cho rằng phù hiệu nầy là sợi lông
xoắn ở
ngực của Phạm thiên, Tỳ thấp nô (Phạn: Visnu), cát lật sắt noa (Phạn:
Krsna) và
thông thường coi đây là dấu hiệu của sự tốt lành, thanh tịnh, tròn đầy.
Trong
Phật giáo, chữ Vạn (chiều trên xoay về bên trái ) là tướng tốt lành ở
trước
ngực của Phật và hàng Bồ tát Thập Địa, về sau dần dần trở thành dấu hiệu
đại
biểu cho Phật giáo.
Xưa nay có nhiều thuyết nói về
chữ vạn. Về Hán dịch
chữ vạn, Cưu ma la thập và Huyền Trang dịch là chữ « Đức », Ngài Bồ đề
lưu chi
thì dịch là chữ Vạn, biểu thị ý nghĩa công đức tràn đầy. Còn trong Tống
Cao Tăng
Truyện 3 thì cho rằng nếu chữ Vạn (chiều trên xoay về bên trái) mà dịch
là vạn
thì chẳng phải dịch ý mà là dịch âm. Nhưng âm của chữ Srivatsalaksana
ban đầu
không được đưa vào Kinh truyện, đến năm 639 thời Võ Tắc Thiên mới đặt ra
chữ
nầy, đọc là vạn và cho rằng chữ nầy có ý nghĩa là nơi nhóm hợp của muôn
điều tốt
lành. Nhưng chữ Vạn (chiều trên bên trái) vốn là một ký hiệu chứ chẳng
phải là
một chữ. Sở dĩ xưa nay đọc liền là vạn tự một mặt là do tập quán, chủ
yếu nhất
là do lầm lẫn khi dịch từ tiếng Phạn sang Hán. Vì chữ Phạn Laksana, dịch
âm là
Lạc sát nẳng, nghĩa là tướng; mặt khác chữ Phạn aksara dịch âm là Ác sát
la,
nghĩa là Tự. Có lẽ 2 âm Laksana và aksara gần giống nhau cho nên ý nghĩa
của
chúng bị lẫn lộn. Nói theo đây thì chữ Vạn (chiều trên bên trái) tự nên
đọc là
tướng, (vạn tướng) mới phù hợp với nghĩa gốc của chữ Phạn.
Từ xưa, chữ
Vạn đã có 2 trường hợp xoay về bên tả và xoay về bên hữu khác nhau. Đối
với Ấn
Độ giáo, phần nhiều dùng chữ vạn (chiều xoay về bên trái) để biểu thị
cho nam
tánh thần và chữ vạn (có chiều xoay về bên phải) để biểu thị cho nữ tánh
thần.
Đối với Phật giáo, có ngôi tháp cổ hiện còn ở vườn Lộc dã, chữ trên tháp
toàn là
chữ Vạn, (có chiều xoay về phía phải) ngôi tháp nầy là vật kiến trúc
thời vua A
Dục, được xây dựng để kỷ niệm nơi ngày xưa Đức Phật đã nhập định.
Tại
Tây Tạng, tín đồ Lạt Ma Giáo thường dùng chữ Vạn (có chiều xoay về phía
bên
trái) tín đồ Bổng giáo thì dùng chữ Vạn (cũng xoay về phía trái) . Tại
Trung
Quốc, qua nhiều đời đều dùng cả 2 cách. Huệ Lâm Âm Nghĩa và Cao Ly Đại
Tạng Kinh
đều chủ trương chữ Vạn (chiều xoay về phía trái) , Nhật Bản Đại Tạng
Kinh cũng
mô phỏng theo và sử dụng chữ Vạn (chiều xoay về phía phải) , nhưng 3 bản
Tạng
Kinh đời Tống, Nguyên, Minh, đều dùng chữ Vạn (chiều xoay về phía phải),
sự phân
chia chữ xoay về bên tả và bên hữu chủ yếu là do nơi lập trường khác
nhau.
Trong Kinh có nhiều chỗ nói
“xoay về bên hữu”, sợi lông trắng giữa 2 đầu
chân mày cũng uyển chuyển xoay về bên hữu, lại như khi lễ kính Phật, Bồ
tát cũng
phải đi nhiểu về bên hữu, cho nên từ ngữ “xoay về bên hữu” đã thành luận
thuyết
nhất định, nhưng rốt cuộc thì chữ Vạn là xoay về bên phải hay là xoay về
bên
trái vẫn còn là đầu mối gây ra sự tranh luận. Nếu đặt chữ Vạn ở phía
trước chúng
ta, nhìn chữ Vạn từ chỗ đứng của chúng ta thì xoay về bên hữu sẽ thành
chữ Vạn
(chiều xoay về bên hữu) ; nhưng nếu nói theo bản thân của chữ thì chữ
Vạn (chiều
xoay về bên phải) là phù hợp với phương hướng xoay về bên hữu.