Chương III: Thế Nào Là Tạng Kinh?
Chương IV: Tạng Kinh - Trường Bộ Kinh
a. Phẩm Giới
1. Kinh Phạm Võng
2. Kinh Sa Môn Quả
3. Kinh Ambattha
4. Kinh Soṇadanḍa
5. Kinh Kūtadanta
6. Kinh Mahāli
7. Kinh Jāliya
8. Kinh Đại Sư Hống
9. Kinh Poṭṭhapāda
10. Kinh Subha
11. Kinh Kiên Cố
12. Kinh Lohita
13. Kinh Tam Minh
b. Đại Phẩm
1. Kinh Đại Bổn
2. Kinh Đại Duyên
3. Kinh Đại Niết Bàn
4. Kinh Đại Thiện Kiến Vương
5. Kinh Janavasabha
6. Kinh Đại Điền Tôn
7. Kinh Đại Hội
8. Kinh Thiên Vương Sở Vấn
9. Kinh Đại Niệm Xứ
10. Kinh Pāyāsi
c. Phẩm Pāthika
1. Kinh Pāthika
2. Kinh Udumbarika
3. Kinh Chuyển Thánh Vương
4. Kinh Khởi Thế Nhân Bổn
5. Kinh Tự Hoan Hỷ
6. Kinh Thanh Tịnh
7. Kinh Tướng
8. Kinh Giáo Thọ Singāla
9. Kinh Āṭānāṭiya
10. Kinh Phúng Tụng
11. Kinh Thập Thượng
CHƯƠNG III
THẾ NÀO LÀ TẠNG KINH?
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức
Phật thuyết vào những lúc khác nhau. (Một ít bài Kinh được thuyết
bởi vài đệ tử xuất sắc của Đức Phật, như Đại Đức Sāriputta, Mahā
Moggallāna, Ānanda, v.v.. cũng như những bài tường thuật cũng được
bao gồm trong những cuốn sách của Tạng Kinh). Những bài thuyết pháp
của Đức Phật biên soạn lại với nhau trong Tạng Kinh được thuyết
giảng cho thích hợp với những tình huống khác nhau, cho những
người có căn cơ hoàn toàn khác nhau. Mặc dầu bài pháp hầu như có ý
cho lợi ích của chư tỳ khưu, và liên quan đến việc thực hành đời
sống trong sạch và với những lời giải thích về Giáo Pháp, cũng
có nhiều bài pháp khác liên quan đến sự tiến bộ vật chất và tinh
thần của cư sĩ.
Tạng Kinh đem lại ý nghĩa của Giáo Pháp của Đức Phật, diễn tả chúng
một cách rõ ràng, che chở và hộ trì chúng chống lại sự xuyên tạc
và hiểu lầm. Chỉ như sợi dây phục vụ như sợi chỉ đỏ hướng dẫn
người thợ nề trong công việc của họ, chỉ như sợi dây bao quanh
những đoá hoa cho hoa khỏi rơi hay khỏi tan tác, cũng như thế đối
với phương pháp của Kinh, ý nghĩa những lời dạy của Đức Phật có
thể làm sáng tỏ, nắm vững, hiểu đúng và cho sự bảo đảm hoàn hảo
khỏi bị hiểu lầm.
Tạng Kinh được chia thành năm bộ sưu tập riêng biệt được biết như bộ
(Nikāya). Đó là Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, Tương Ưng Bộ Kinh,
Tăng Chi Bộ Kinh và Tập Hợp Bộ Kinh (Tiểu Bộ Kinh).
(a) Sự Vâng Giữ và Những Pháp hành trong Giáo Pháp của Đức Phật.
Trong Tạng Kinh được tìm thấy không những chỉ những nền tảng của pháp
mà còn những lời khuyên thực dụng để Pháp có ý nghĩa và có thể
áp dụng trong đời sống hằng ngày. Tất cả những điều vâng giữ và
pháp hành tạo thành những bước thực tiễn trên con đường Bát Chánh
Cao Thượng của Đức Phật.dẫn đến sự thanh lọc tâm ở ba mức độ:
Giới - Đạo đức trong sạch nhờ chánh hạnh,
Định - Tâm thanh lọc nhờ định (Samatha)
Tuệ - Tuệ trong sáng nhờ Thiền Tuệ (Vipassana)
Trước tiên, một người phải có quyết tâm đúng để quy y Phật, để hành
theo giáo pháp của Ngài, và được chư tăng hướng dẫn. Những đệ tử
đầu tiên tuyên bố trung thành với Đức Phật và tự nguyện theo giáo
pháp của ngài là hai anh em thương buôn, Tapussa và Bhallika. Họ
đang thương du với đồ đệ của họ trong năm trăm cổ xe khi họ thấy
Đức Phật ở trong thánh địa của cây Bồ Đề sau khi ngài Giác Ngộ.
Hai thương buôn nầy dâng ngài bánh mật. Nhận vật họ cúng dường và
như vậy bỏ nhịn ăn mà ngài tự đặt ra suốt trong bảy tuần, Đức
Phật nhận họ làm đệ bằng cách bảo họ đọc theo ngài:
"Con xin quy y Phật"
"Con xin quy y Pháp."
Lời đọc nầy trở thành công thức tuyên bố đức tin vào Đức Phật và Giáo
Pháp của Ngài. Sau nầy khi Tăng được thành lập, công thức nầy
được thêm vào câu thứ ba:
" Con xin quy y Tăng."
(b) Trên con đường chánh để bố thí.
Như một bước thực tiễn, có khả sử dụng ngay và có hiệu quả bởi những
người dân thuộc mọi tầng lớp trong xã hội, Đức Phật thuyết những
bài pháp về bố thí, dâng cúng vật thực, giải thích những đức tính
của nó và vật thực có được, được làm đúng chánh hạnh và thái độ
đúng của tâm nhờ đó vật thực đem dâng cúng sẽ thăng hoa tâm hồn.
Lực thúc đẩy trong hành động bố thí là tác ý, ý muốn cho ra. Bố thí
là hành động thiện chỉ phát sanh với tác ý. Không có ý cho ra thì
không có hành động cho. Tác Ý trong dâng cúng vật thực có ba
loại:
(i) Tác ý bắt đầu với tư tưởng 'Tôi sẽ dâng cúng' và tồn tại suốt trong thời kỳ sửa soạn lễ vật cúng dường - Pubba Cetanā, tác ý trước khi hành động.
(ii) Tác ý phát sanh và giây phút dâng cúng lúc trao nó đến người nhận.- Muñca Cetanā- tác ý trong lúc hành động
(iii) Tác ý câu hữu với hỷ và lại hoan hỷ phát sanh lúc hồi tưởng, gợi lại về hành động đã cúng dường hay bố thí - Apara Cetanā- tác ý sau khi hành động.
Dù vật cúng dường làm để dâng cúng đến Đức Phật còn tại thế hay đến
một mẫu nhỏ xá lợi của ngài sau khi Niết Bàn, Chính tác ý, sức
mạnh và sự trong sạch của nó, từ đó quyết định tính chất của kết
quả .
Cũng được giải thích trong những bài Kinh, thái độ sai lầm của tâm
với thái độ đó không có hành động bố thí nào được thực hiện.
Thí chủ nên tránh coi thường người khác không có thể có vật cúng
dường tương tự; cũng không nên tự đắc khoe về vật thí của mình.
Bị ô nhiễm bởi những tư tưởng không xứng đáng đó, tác ý của người
đó chỉ có mức thấp.
Khi hành động thí bị thúc đẩy bởi sự mong chờ có hiệu quả lợi ích của
sự phát đạt và hạnh ngay, hay sự tái sanh trong những kiếp sống
cao hơn, tác ý đi cùng được xếp loại hai.
Chỉ khi thiện nghiệp bố thí được hoàn thành bằng tâm xả ly, được thúc
đẩy bởi tư tưởng thuần vị tha, chỉ ước mong chứng đắc Niết Bàn
nơi mọi khổ ải đều chấm dứt, tác ý đua đến hành động đó được xếp
loại cao.
Những ví dụ có rất nhiều trong các bài Kinh liên quan đến bố thí và các cách dâng cúng vật thí.
(c) Đạo đức trong sạch nhờ chánh hạnh (sīla)
Vâng giữ giới hình thành phương diện cơ bản nhất của Đạo Phật. Nó gồm
việc thực hành Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng để thanh
tẩy những cấu uế trong hành động, lời nói và tư tưởng. Cùng với
Tam Quy (như đã trình bày ở trên) phật tử tại gia vâng giữ Năm
Giới (Ngũ Giới) bằng cách đọc lời tuyên thệ đây:
Con xin vâng giữ điều học là tránh xa sự sát sanh
Con xin vâng giữ điều học là tránh xa sự trộm cắp.
Con xin vâng giữ điều học là tránh xa sự tà dâm
Con xin vâng giữ điều học là tránh xa sự nói dối.
Con xin vâng giũ điều học là tránh xa sự uống rượu và các chất say.
Thêm vào phương diện phủ định của công thức trên là việc nhấn mạnh sự
kiêng giữ, cũng có phương diện tích cực của giới. Ví dụ, chúng
ta tìm thấy trong nhiều bài kinh
Câu nầy: ' Vị ấy ngăn giữ không sát sanh, dẹp dùi cui và gươm qua một
bên, đầy lòng từ và bi vị ấy sống vì lợi ích và hạnh phúc của
tất cả chúng sanh. Mỗi giới đề ra trong công thức nầy đều có hai
phương diện.
Nhờ vào cá nhân và giai đoạn tiến bộ của một người, những thứ khác
của giới, đó là Tám Giới, Mười Giới v.v...có thể được vâng giữ.
Đối với chư tỳ khưu trong Giáo Hội, nhiều giới luật cao và tiến
bộ hơn được đặt ra. Năm Giới luôn luôn được đệ tử cư sĩ thọ trì
họ thỉnh thoảng nâng cao giới luật của chính mình bằng thọ trì
Tám Giới và Mười Giới. Đối với những ai đã bắt đầu sống đời thánh
đạo, Mười Giới là những thiết bị ban đầu thiết yếu cho sự tiến
bộ hơn.
Giới trong sạch hoàn hảo như nền tảng cơ bản cho giai đoạn tiến bộ
tiếp theo, đó là, Định - thanh lọc tâm bằng thiền định.
(d) Những Phương Pháp thực tiễn để rèn luyện tâm nhằm phát triển định, Samādhi
Việc rèn luyện tâm nhằm thăng hoa tinh thần gồm hai bước. Bước thứ
nhất là thanh lọc tâm khỏi mọi phiền não và lậu hoặc và để tâm có
thể tập trung vào một điểm. Nỗ lực kiên định (Chánh tinh tấn)
phải được thực hiện để thu hẹp lại những tư tưởng trong tâm dao
động, chập chờn. Sau đó chú tâm (Chánh Niệm hay chú tâm đúng)
phải được đặt trên đề mục thiền đã chọn mãi cho đến khi đạt nhất
tâm (Chánh Định). Trong tình trạng như thế, tâm thoát khỏi năm
triền cái, trong sáng, thanh tịnh, có lực và sáng suốt Chính lúc
đó nó sẵn sàng tiến lên bước thứ hai nhờ đó Tuệ Đạo và Quả có thể đạt để
vượt qua tình trạng khổ sầu.
Tạng Kinh thuật nhiều phương pháp thiền đưa đến nhất tâm. Trong nhiều
bài Kinh của Tạng nầy phân ra nhiều phương pháp thiền, được Đức
Phật giải thích khi thì riêng lẻ khi thì chung cho phù hợp với
tình huống và mục đích qua đó chúng được giới thiệu. Đức Phật
biết sự khác biệt tính cách và bản chất tâm của mỗi cá nhân,
những căn cơ và thiên hướng khác nhau của những ai đến với ngài
để được hướng dẫn. Theo đó ngài giới thiệu những phương pháp khác
nhau cho những người nhau để thích hợp với tính cách và nhu đặc
biệt của mỗi cá nhân.
Pháp hành để luyện tâm đưa đến kết quả cuối cùng trong Nhất Tâm được là Thiền Định (Samādhi Bhavanā).
Những ai thích phát triển thiền định ắt phải nghiêm trì giới
luật, thu thúc lục căn, an tịnh, tự chủ, và ắt phải bằng lòng.
Sau khi hội đủ bốn điều kiện nầy vị ấy chọn một nơi có thể thích
hợp cho việc hành thiền, một nơi thanh vắng. Rồi vị ấy ngồi kiết
già, giữ thân thẳng và tâm tỉnh giác; vị ấy nên bắt đầu thanh lọc tâm
khỏi năm triền cái, đó là, tham dục, sân hận, dã dượi buồn ngủ,
bất an và lo lắng, và nghi hoặc, nhờ chọn phương pháp thiền thích
hợp với vị ấy và hành vơi nhiệt tâm tinh cần. Ví dụ, với phương
pháp niệm thở, vị ấy cứ quán sát hơi thở ra và vào mãi cho đến
khi tâm vị ấy khắn khít với hơi thở ở đầu chóp mũi một cách an
toàn.
Khi vị ấy nhận ra rằng năm triền cái đã bị trừ diệt, vị ấy trở nên
vui lòng, thoả thích, an tịnh và hạnh phúc. Đây là giai đoạn bắt
đầu định, sẽ phát triển hơn cho đến khi đạt Nhất Tâm.
Như vậy Nhất Tâm là tâm tập trung khi nó ý thức về một đề mục, và chỉ
một của bản chất có lợi ích và thiện. Điều nầy đạt được nhờ hành
thiền trên một trong những đề mục được Đức Phật giới thiệu nhằm
mục đích đó.
(e) Những phương pháp luyện tâm thực tiễn để phát triển Tuệ Minh Sát (paññā)
Đề mục và những phương pháp thiền được dạy trong những bài Kinh của
Tạng nầy được đề ra nhằm đắc Định cũng như phát triển Tuệ Minh Sát
(Vipassanā ñāṇa), như con đường thẳng đến Niết Bàn.
Là bước thứ nhì trong việc phát triển thiền, sau khi đắc định, khi
tâm tập trung trở nên trong sáng, vững mạnh và điềm tĩnh, thiền
sinh hướng tâm trực tiếp đến thiền Minh Sát. Với Tuệ Minh Sát nầy
vị ấy phân tích ba đặc tường của thế giới hiện tượng, đó là Vô
Thường (Anicca), Khổ (Dukkha) và Vô Ngã (Anatta).
Khi vị ấy tiến lên trong pháp hành nầy, tâm vị ấy ngày càng trở nên
thanh tịnh vững chắc và điềm tĩnh hơn, vị ấy hướng tâm trực tiếp
đến Tuệ Đoạn Tận Các Lậu Hoặc (Āsavakkhaya Ñāna). Lúc đó
vị ấythực sự hiểu khổ, nhân sanh khổ, khổ diệt và con đường dẫn
đến diệt khổ. Vị ấy cũng hoàn toàn hiểu các lậu hoặc như chúng
thực sự là, nhân sanh lậu hoặc, diệt lậu hoặc và con đường dẫn
đến diệt tận lậu hoặc.
Với tuệ đoạn tận lậu hoặc nầy, vị ấy trở nên giải thoát. Tuệ giải
thoát phát sanh trong vị ấy. Vị ấy biết không còn tái sanh nữa,
đã sống đời phạm hạnh, vị ấy đã hoàn thành những việc cần làm cho
sự giác ngộ Đạo, không có gì hơn cho vị ấy làm đối với sự giác
ngộ như thế.
Đức Phật chỉ dạy một việc duy nhất - Diệt Khổ và giải thoát khỏi đời
sống hữu vi. Đề mục nhằm đạt được bằng thực hành thiền (Định hay
Tuệ) như đã đề ra trong nhiều bài kinh trong Tạng Kinh.
-ooOoo-
CHƯƠNG IV
TRƯỜNG BỘ KINH
Bộ Sưu Tập Những Bài Kinh Dài Do Đức Phật Thuyết
Bộ sưu tập nầy trong Tạng Kinh, tên là Trường Bộ Kinh được gộp
thành từ ba mươi bốn bài Kinh dài do Đức Phật thuyết, được chia
thành ba phần: (a) Sīlakkhandha Vagga, Giới Phẩm; (b) Mahā Vagga,
Đại Phẩm; và (c) Pāthika Vagga, Phẩm bắt đầu bằng những bài Kinh
về Pāthika, ẩn sĩ ngoại đạo loã thể.
*
(a) Giới Phẩm (Sīlakkhandha Vagga Pāli)
Phẩm nầy có mười ba bài Kinh liên rộng đến các loại giới, đó là. Tiểu
Giới, giới cơ bản có thể áp dụng cho tất cả; Trung Giới và Đại
Giới do đa số Sa Môn và Bà la môn thực hành. Nó cũng thảo luận
những tà kiến thịnh hành thời đó cũng như những quan điểm hiến tế
và đẳng cấp của bà la môn, và những cách hành đạo khác nhau như
pháp khổ hạnh thái quá.
(1) Kinh Phạm Võng (Brahmajāla Sutta)
Cuộc thảo luận giữa Suppiya, ẩn sĩ ngoại đạo, và học trò của ông
Brahmadatta, trong đó, người thầy mạ lỵ Phật, Pháp và Tăng đã đem làm
thành bài kinh nổi tiếng nầy được liệt kê đầu tiên trong Bộ (Nikāya) nầy.
Liên hệ với việc mạ lỵ Phật, Pháp và Tăng, Đức Phật ra lệnh chúng đệ
tử của ngài chớ tiếc nuối, chẳng bất bình, cũng không sân hận,
bởi vì nó chỉ phương hại đến tinh thần của họ. Đối với những lời
ngợi khen Đức Phật, Pháp và Tăng, Đức Phật khuyên chúng đệ tử
ngài không cảm thấy hài lòng, vui thích hay hưng phấn vì nó sẽ
làm trở ngại cho sự tiến bộ của họ trên đường Đạo.
Đức Phật nói rằng bất cứ người đời nào ngợi ca Đức Phật người ấy nói
cách nào cũng chẳng thể đánh giá đầy đủ những đức tính vô song
của Đức Phật, đó là Siêu Định (Samādhi) và Tuệ (Paññā). Người
đời chỉ có thể đụng đến những "vấn đề có tính nhỏ bé, vặt vảnh,
thuần giới.". Đức Phật giải thích ba loại giới và nói rằng có
nhiều pháp sâu sắc, khó thấy, vi tế và chỉ có người trí mới có
thể hiểu được. Bất cứ ai muốn ca ngợi đúng những đức tính chân
thực của Đức Phật chỉ nên làm vậy trong thuật ngữ những pháp nầy.
Sau đó Đức Phật tiếp tục giải thích nhiều tà kiến khác nhau. Có những
sa môn và bà la môn suy đoán về quá khứ, kế thừa và khẳng định
những tà kiến của họ trong mười tám cách khác nhau, đó là,
(i) Bốn loại thường kiến, Sassata Diṭṭhi
(ii) Bốn loại Nhị Kiến trong Thường và Không Thường, Ekacca Sassata Diṭṭhi
(iii) Bốn Kiến về Thế Giới Hữu Hạn hay Vô Hạn, Antānanta Diṭṭhi,
(iv) Bốn kiến trườn uốn mơ hồ, Amarāvikkhepa Vāda
(v) Hai loại Học Thuyết Vô Nhân, AdhiccasamuppannaVāda
Có nhiều Sa môn, Bà la môn, suy đoán tương lai, kế thừa và khẳng định
những tà kiến của họ trong bốn mươi bốn cách, đó là,
(i) Mười sáu loại tà kiến về đời sống của tưởng sau khi chết, Uddhamaghātanika Saññī.Vāda
(ii) Tám loại kiến về sự không tồn tại của tưởng sau khi chết, Uddhamāghatanika Asaññī Vāda
(iii) Tám loại kiến về kiếp sống Phi Tưởng Phi Phi tưởng sau khi chết, Uddhamāghātanuka Nevasaññā Nāsaññī Vāda
(iv) Bảy Loại Đoạn Kiến, Uccheda Vāda
(v) Năm Loại Niết Bàn Trần Gian như có thể chứng ngộ ngay trong kiếp sống nầy, Diṭṭhadhamma Nibbāna Vāda.
Đức Phật nói rằng sa môn và bà la môn suy đoán về hiện tại hay tương
lai, hay cả hiện tại lẫn tương lai như thế nào đi nữa, họ đã làm
như vậy rơi vào trong sáu mươi hai tà cách hay một trong sáu mươi
hai tà cách nầy.
Đức Phật tuyên bố thêm rằng Ngài biết tất cả những loại tà kiến nầy,
cũng biết nơi đến và kiếp sống tiếp đó sẽ là gì, của những ai nắm
giữ những tà kiến nầy sẽ bị tái sanh vào.
Đức Phật phân tích kỹ những tà kiến đã được khẳng định trong sáu mươi
hai tà kiến nầy và chỉ ra rằng những tà kiến nầy phát xuất từ
cảm thọ phát sanh như là kết quả của thường xuyên tiếp xúc qua
các sáu căn cảm giác. Người nào nắm giữ bất cứ cái gì trong những
tà kiến nầy, cảm thọ trong họ phát sanh thành tham ái; tham ái
phát sanh thành chấp thủ; chấp thủ phát sanh thành hữu; tiến
trình duyên sinh do nghiệp trong hữu phát sanh thành tái sanh; và
tái sanh phát sanh thành già, chết, sầu, ưu, khổ, não và thất
vọng.
Nhưng người nào biết bất cứ cái gì như chúng thực đang là, gốc của
sáu căn tiếp xúc, sự chấm dứt của chúng, vị ngọt và sự nguy hại
của chúng và cách thoát khỏi chúng, vị ấy chứng ngộ các pháp,
không những chỉ là giới (Sīla), mà còn định (Samādhi) và giải thoát (Vimutti), tuệ (Paññā), vượt lên trên tất cả những loại tà kiến nầy.
Tất cả Sa môn và Bà la môn nắm giữ sáu mươi hai loại tà kiến đều bị
bắt trong cái lưới của bài kinh nầy giống như tất cả cá trong hồ
bị gom trong tấm lưới mảnh do người đánh cá thiện xảo hay do học
trò ông quăng ra.
(2) Kinh Sa Môn Quả (Sāmaññaphala Sutta)
Vào một đêm trăng rằm trong lúc Đức Phật ngự tại rừng xoài của Ông
Jīvaka tại Rājagaha bài kinh về kết quả của đời sống Sa môn, tự
thân chứng nghiệm trong kiếp sống nầy, được dạy cho Vua
Ajātasattu theo lời thỉnh cầu của ông. Đức Phật giải thích cho
ông lợi ích của đời sống sa môn bằng cách cho ông những ví dụ
người hầu của ông chủ nhà hay ông chủ đất đang gieo trồng trên
đất của chính Đức vua trở thành sa môn, thì chính bản thân Đức
Vua tỏ lòng tôn trọng và dâng cúng tứ vật dụng đến người đó, đồng thời
che chở và bảo đảm an toàn cho người đó.
Đức Phật giải thích thêm về những lợi ích khác cao hơn và tốt hơn của
một người sa môn bằng cách liệt kê về (i) làm sao ông gia chủ
sau khi nghe pháp do Đức Phật thuyết, từ bỏ đời sống gia đình và
trở thành sa môn nhờ đức tin trong sạch; (ii) làm sao người ấy
trở nên vững mạnh trong ba địa hạt của giới: tiểu, trung và đại;
(iii) làm sao người ấy có thu thúc lục căn tốt đến nỗi không bị
tham sân chế ngự; (iv) làm sao người ấy có được chánh niệm ý thức
rõ ràng và vẫn tri túc; (v) làm sao, nhờ diệt trừ năm triền cái,
vị ấy đạt được tứ thiền - Nhất thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ
thiền - như những lợi ích cao hơn của những điều đã đề cập trước kia,
(vi) làm sao vị ấy có thể trang bị được tám tuệ cao hơn, đó là,
Minh Sát Tuệ, Như Ý Thông, Thần Thông, Nhĩ Thông, Tha tâm thông,
Túc Mạng Thông, Nhãn Thông, Lậu Tận Thông.
Như vậy khi tuệ giải thoát phát sanh trong vị ấy, vị ấy biết vị ấy đã
sống đời trong sạch. Không có lợi ích nào của sa môn, tự thân
chứng nghiệm hài lòng hơn và cao đẹp cả.
(3) Kinh Ambaṭṭha (Ambaṭṭha Sutta)
Ambaṭṭha, một người đệ tử trẻ của Pokkharasāti, người bà la môn học
thức, được thầy gởi đến để điều tra xem xét liệu Gotama có đúng là
Đức Phật chân chính không, có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt của
bậc Đại nhân không. Thái độ thanh niên ấy láo xược, tự kiêu bởi
dòng họ Bà la môn của thanh niên ấy khiến Đức Phật làm giảm lòng
kiêu ngạo của thanh niên ấy bằng cách chứng minh rằng dòng
Khattiya thực sự cao hơn dòng Bà la môn.. Đức Phật giải thích
thêm tính cách cao thượng của con người không xuất phát từ dòng
tộc sanh thành nhưng xuất phát từ sự hoàn hảo trong ba phạm trù
giới, đắc các tầng thiền và thành tựu tám loại thượng trí.
(4) Kinh Soṇadanda (Soṇadanda Sutta)
Bài Kinh nầy thuyết cho bà la môn Soṇadanda người đến gần Đức Phật
trong lúc ngài ngụ gần Hồ Gaggarā ở Campā trong nước Aṇga. Đức phật
hỏi ông người ta nên cần có đức tính gì để được công nhận là Bà
la môn. Khi bị Đức Phật hỏi thêm, ông nói rằng đạo đức và kiến
thức là những phẩm chất tối thiểu, không có hai đức tính đó không
ai có thể được xem là Bà la môn. Thuận lời yêu cầu của ông, Đức
Phật giải thích ý nghĩa của thuật ngữ đạo đức và kiến thức. Những
ý nghĩa nầy ông tự nhận là không biết một tí gì về chúng cả, đó
là, ba phạm trù của giới, sự thành đạt bốn tầng thiền và thành
tựu tám loại thượng trí.
(5) Kinh Kūṭadanta (Kūṭadanta Sutta)
Vào đêm rạng Đại Tế lễ, ông Bà la môn Kūṭdanda đến gặp Đức Phật hỏi ý
kiến về việc làm sao chủ trì tế lễ tốt nhất. Cho ví dụ về tiên
đế Mahāvijita, đã làm một buổi đại tế lế, Đức Phật tuyên bố
nguyên tắc được thoả thuận bởi bốn đẳng cấp từ các tỉnh thành, đó
là, bậc phạm hạnh, quan đại thần, bà la môn giàu có và các gia
chủ; tám đức tính có được trong Đức Vua người sẽ dâng cúng lễ
vật; bốn phẩm chất của cố vấn hoàng gia Bà la môn người sẽ chủ
trì buổi tế lễ và ba thái độ tâm đối với việc cúng tế. Khi hội đủ
tất cả những điều kiện nầy, buổi tế lễ do Đức Vua dâng cúng đã
là một sự thành công vĩ đại, không mất sanh mạng của một con vật nào,
dân chúng không phải quá vất vả, không ai bị áp đặt làm việc gì,
mọi người đều hoan hỷ cùng hợp tác trong buổi đại tế.
Ông Bà la môn Kūṭadanta bèn hỏi Đức Phật liệu có lễ tế nào được thực
hiện mà ít rắc rối và ít tổn hao sức lực, nhưng mang lại nhiều
kết quả lợi ích. Đức Phật bảo về pháp hành truyền thống cúng
dường tứ vật dụng đến chư tỳ khưu có giới hạnh thanh cao. Ít rắc
rối và nhiều lợi ích hơn là cúng dường tự viện cho Tăng Đoàn. Còn
tốt hơn nữa là thực hành theo pháp hành có thứ tự lên dần có
hiệu quả tốt. (i) Quy y Phật Pháp và Tăng; (ii) Thọ Trì Ngũ Giới;
(iii) Từ bỏ đời sống gia đình sống đời phạm hạnh, trở nên có
giới hạnh nghiêm trì, chứng đắc thiền, và được trang bị với tám loại
thượng trí kết quả chứng ngộ sự tận diệt các lậu hoặc thù thắng hơn
tất cả các loại cúng tế khác.
(6) Kinh Mahāli (Mahāli Sutta)
Mahāli Oṭṭhaddha, người cai trị dòng Licchavī, một lần đến với Đức
Phật và kể cho Ngài nghe về những gì hoàng tử Sunakkhatta
Licchavi, đã kể với ông. Sunakkhatta đã từng là đệ tử của Đức
Phật trong ba năm sau đó ông từ bỏ giáo pháp nầy. Ông kể Mahāli
làm sao ông ấy đạt được Thiên Nhãn Thông qua đó ông ấy đã thấy sự
kỳ diệu của những hình sắc đẹp và đáng ưa thích thuộc cõi trời.
Mahāli muốn biết từ Đức Phật liệu Sunakkhatta không nghe được âm
thanh của cõi trời bởi vì chúng không tồn tại, hay liệu ông không
nghe được chúng mặc dù chúng tồn tại.
Đức Phật giải rằng có những âm thanh ở cõi nhưng Sunakkhatta không
nghe chúng bởi vì ông ấy phát triển định chỉ nhằm mục đích đạt
được Thiên nhãn Thông chứ không phải Thiên Nhĩ thông.
Đức Phật giải thích thêm rằng chúng đệ tử của ngài phạm hạnh không
phải nhằm mục đích đạt được những thần thông như thế nhưng nhắm
đến chứng ngộ các pháp cao xa và thù thắng hơn các loại tâm phàm
tục nầy. Những pháp như thế là sự thành tựu Bốn Quả Cao Thượng -
Những trạng thái của Bậc Thánh Nhập Lưu, Nhất Lai, Bất Lai, và
trạng thái tâm và tuệ của Bậc Thánh Ala hán tận diệt mọi lậu hoặc
đã tích chứa từ nhiều kiếp.
Con đường mà những pháp nầy có thể chứng ngộ là Bát Thánh Đạo: Chánh
Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh
Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định.
(7) Kinh Jāliya (Jāliya Sutta)
Một thời khi Đức Phật đang ngự tại Tự viện Ghositā gần Kosambi, hai
vị ẩn sĩ ngoại đạo Muṇḍiya và Jāliya đến gần Đức Phật và hỏi liệu
linh hồn là thân vật chất, hay thân vật chất là linh hồn, hay
liệu linh hồn là một và thân vật chất là một thứ khác.
Đức Phật giải thích làm sao một người cuối cùng có thể chứng ngộ giải
thoát không còn quan tâm đến ngay cả liệu linh hồn là thân vật
chất, hay thân vật chất là linh hồn hay liệu linh hồn là một thứ
và thân vật chất là thứ khác.
(8) Kinh Đại Sư Hống (Mahāsīhanāda Sutta)
Bài nầy định nghĩa sa môn thật sự là gì, bà la môn thực sự là gì. Đức
Phật đang ngự trong rừng nai của Kaṇṇakathala ở Uruñña. Sau đó
ẩn sĩ ngoại đạo loã thể Kassapa đến gần ngài và nói rằng ông từng
nghe rằng Sa môn Gotama chê tất cả các pháp hành khổ hạnh và
rằng sa môn Gotama khinh khi những ai sống đời khổ hạnh.
Đức Phật trả lời rằng họ nhạo báng ngài với những gì không được ngài
nói, những gì không đúng sự thật. Khi Đức Phật có thể thấy bằng
thiên nhãn vận mệnh xấu cũng như vận mệnh tốt của những ai hành
hình thức cực kỳ khổ hạnh, và của những ai hành hình thức ít khổ
hạnh, làm sao ngài có thể khinh khi tất cả những hệ thống tự hành
khổ ép xác được.
Kassapa, lúc đó, vẫn giữ quan niệm rằng chỉ những ẩn sĩ ngoại đạo,
luyện tập pháp hành đứng hay ngồi suốt đời họ, những ai điều độ
trong ăn uống, ăn chỉ một lần trong hai ngày, trong bảy ngày,
trong mười lăm ngày v.v... mới thực sự là sa môn và bà la môn.
Đức Phật giải thích cho họ sự vô ích của cực kỳ khổ hạnh và dạy
rằng chỉ khi vị ẩn sĩ thực hành và trở nên hoàn thành trong giới,
định và tuệ; trau dồi tâm từ, và trú trong tâm giải thoát, và
tuệ giải thoát vị ấy xứng gọi là sa môn và bà la môn. Lúc đó Đức
Phật giải thích đầy đủ về giới, định và tuệ, cuối cùng Kassapa
quyết định gia nhập Tăng đoàn của Đức Phật.
(9) Kinh Poṭṭhapāda (Poṭṭhapāda Sutta)
Một thời khi Đức Phật đang ngự tại tự viện Anāthapiṇḍika trong rừng
Jeta tại thành Sāvatthi.Ngài viếng thăm Sảnh đường Ekasālaka nơi
nhiều quan điểm khác nhau được thảo luận. Vào thời đó Poṭṭhapāda
ẩn sĩ ngoại đạo hỏi ngài về bản chất của tưởng diệt (saññā).
Poṭṭhapāda muốn biết làm sao tưởng diệt được xảy ra. Đức Phật kể
ông rằng chính nhờ lý do và nhân duyên mà hình thành tâm thức
trong một chúng sanh khởi và diệt (Adhicitta Sikkhā) và một dạng
tâm nào đó dừng nghỉ nhờ hành thiền.
Sau đó Đức Phật tiến tới giải thích về những pháp hành nầy gồm thọ
trì giới, phát triển định tâm mà kết quả trong sự sanh và diệt
của tầng thiền kế tục. Thiền sinh tiến bộ từ giai đoạn nầy đến
giai đoạn khác trong một tiến trình mãi cho đến khi vị ấy đạt
được Diệt Thọ Tưởng Định [sự diệt của tất cả các dạng Tâm (Nirodhasamāpatti)].
(10) Kinh Subha (Subha Sutta)
Bài Kinh nầy không do Đức Phật thuyết nhưng do thị giả thân tín của
ngài, Đại Đức Ānanda, theo lời thỉnh cầu của thanh niên Subha. Vào
lúc đó Đức Phật đã qua đời. Và thanh niên Subha muốn biết từ môi
thị giả thân tín của ngài những pháp nào được Đức Phật ca ngợi
và những pháp đó là gì mà ngài khuyến khích dân chúng thực hành.
Ānanda kể ông ấy rằng Đức Phật hằng ca ngợi ba pháp uẩn, đó là, giới
uẩn, định uẩn và Tuệ uẩn. Đức Phật khuyến khích người ta thực
hành những pháp nầy, sống trong pháp, và thiết lập vững chắc
trong pháp. Ānanda giải thích pháp uẩn nầy rất chi tiết cho thanh
niên Subha, cuối cùng cậu ấy trở thành đệ tử thuần thành.
(11) Kinh Kiên Cố (Kevaṭṭa Sutta)
Đức Phật ngự tại Nāḷandā trong rừng xoài Pāvāriko. Một thiện tín
thuần thành đến gần Đức Phật và yêu cầu ngài bảo một trong những
đệ tử biểu diễn thần thông hầu dân chúng trong thành Naḷandā sẽ
mãi mãi kính mộ Đức Phật.
Đức Phật dạy ông ấy về ba loại thần thông mà ngài đã biết và tự chứng
ngộ bằng trí tuệ siêu nhiên.Thần thông thứ nhất là, iddhi
pāṭihāriya, bị Đức Phật từ chối bởi vì nó bị xem như là thuật đen
gọi là ma thuật Gandhārī. Đức Phật cũng từ bỏ loại thần thông
thứ hai, ādesanā pāṭihāriya vì chúng có thể được xem như bùa chú
cintāmani. Ngài giới thiệu loại thần thông thứ ba, anusāsanī
pāṭihāriya, thần thông của năng lực giảng dạy như nó liên quan
đến việc thực hành Giới, Định và Tuệ cuối cùng dẫn đến sự tận
diệt Lậu Hoặc, Āsavakkhaya Ñāṇa.
(12) Kinh Lohicca (Lohicca Sutta)
Bài Kinh đề ra ba loại thầy đáng trách: (i) Thầy là người chưa hoàn
thành trong pháp hành cao thượng và dạy đồ chúng mà chúng không
vâng lời thầy. (ii) Thầy là người chưa hoàn thành trong pháp hành
cao thượng và dạy đồ chúng rồi chúng thực hành như đã được thầy
hướng dẫn và đạt được giải thoát (iii) Thầy là người đã viên
thành hoàn mãn trong pháp hành cao thượng và dạy đồ chúng nhưng
chúng không vâng lời thầy.
Thầy là người đáng ngợi khen là người đã trở nên viên thành hoàn mãn
trong tam pháp hành Gíơi, Định và Tuệ và dạy đồ chúng trở nên
viên thành hoàn mãn như thầy.
(13) Kinh Tam Minh (Tevijja Sutta)
Hai thanh niên bà la môn Vāsetha và Bhāradvāja đến gặp Đức Phật trong
lúc ngài đi một chuyến quanh Vương Quốc Kosala. Chúng muốn Đức
Phật giải quyết cuộc tranh luận như là con đường đúng dẫn trực
tiếp đến cộng trú với Phạm Thiên. Mỗi người chỉ nghĩ con đường
duy nhất được thầy của mỗi người chỉ là con đường đúng.
Đức Phật dạy rằng vì không ai trong những người thầy của họ thấy Phạm
Thiên, họ như một đoàn người mù mỗi người nắm vào chéo áo của
người đi trước. Sau đó ngài chỉ cho họ con đường chính thực sự
dẫn đến cõi Phạm Thiên, đó là con đường giới và định, và phát
triển tâm từ, bi, hỷ và xả đối với tất cả chúng sanh hữu tình.
*
(b) Đại Phẩm (Mahā Vagga Pāḷi)
Mười bài Kinh trong phẩm nầy có vài bài quan trọng nhất trong Tam
Tạng Kinh Điển, liên hệ đến nhiều phương diện lịch sứ và tiểu sử
cũng như nhiều phương diện học thuyết của Đạo Phật . Bài Kinh nổi
tiếng nhất là bài Kinh Mahāparinibbāna liên quan đến những ký sự
ngắn của bảy vị Phật quá khứ và cuộc đời Đức Phật Vipassī .Hai
bài Kinh quan trọng nhất về học thuyết: Kinh Mahānidāna giải
thích những mắc xích nhân quả, và bài Kinh Mahāsatipaṭṭhāna đề
cập đến Bốn Phép Chánh Niệm và những phương tiện thực tiễn của
thiền Tứ Niệm Xứ.
(1) Kinh Đại Bổn (Mahāpadāna Sutta)
Bài Kinh nầy được thuyết tại thành Sāvatthi cho chư tỳ khưu dành một
ngày để thảo luận về Túc Mạng Minh của Đức Phật. Ngài kể về bảy
vị Phật quá khứ, có tích chuyện đầy đủ của từng vị, Phật Vipassī,
hồi tưởng lại tất cả các sự kiện của chư Phật, đẳng cấp xã hội
của họ, danh tánh, bộ tộc và tuổi thọ, hai vị đại đệ tử Phật,
những hội chúng của chư vị, sự thành đạt và sự giải phóng của chư
vị khỏi mọi phiền não.
Đức Phật giải thích rằng khả năng nhớ và hồi tưởng các kiếp tuỳ thuộc
vào khả năng phân tích sắc sảo thấu suốt của riêng ngài cũng như
nhờ chư thiên làm cho những vấn đề đó được ngài biết đến
(2) Kinh Đại Duyên (Mahānidāna Sutta)
Bài Kinh nầy được Đức Phật thuyết tại thị trấn Kammāsadhamma cho Đại Đức Ānanda để chỉnh lại ý kiến sai lầm về học thuyết Duyên Khởi (Paṭiccasuppāda),
mặc dầu có dấu hiệu sâu sắc và thâm thuý mà rõ ràng và có thể
thăm dò được. Đức Phật nói rằng học thuyết nầy xuất hiện không
chỉ sâu sắc và thâm thuý mà còn thực sự sâu sắc và thâm thuý về bốn
điểm: sâu sắc trong ý nghĩa, sâu săc như là một học thuyết, sâu
sắc liên quan đến tính cách trong đó nó được dạy, và sâu sắc liên
hệ đến những sự kiện mà theo đó nó được thành lập.
Sau đó ngài giải thích kỹ lưỡng về học thuyết và nói rằng bởi vì
thiếu hiểu biết đúng và ý thức thâm sâu về học thuyết nầy, chúng
sanh bị bắt trong và không thể thoát khỏi, vòng luân hồi khốn khổ
và tàn hại. Ngài kết luận rằng không có sự hiểu biết sâu sắc về
học thuyết nầy, ngay cả tâm của những người đã đắc thiền, sẽ bị
mây che với những ý tưởng về cái ngã (atta).
(3) Kinh Đại Niết Bàn (Mahāparinibbāna Sutta)
Bài Kinh nầy mô tả những sự kiện quan trọng về những ngày cuối của
Đức Phật, một biên niên sử đầy đủ chi tiết về những gì ngài đã
làm, những gì ngài đã nói và những gì xảy ra với ngài suốt trong
một năm cuối đời ngài. Sưu tập trong hình thức tường thuật, những
khía cạnh cơ bản và quan trọng nhất của giáo lý Đức Phật được
rải rác trong nhiều bài Kinh . Là bài Kinh dài nhất trong Trường
Bộ Kinh, nó được chia thành sáu chương.
Vào đêm rạng ngày thực hiện chuyến đi vĩ đại cuối cùng, trong lúc ngự tại thành Rājagaha,
Đức Phật đã thuyết giảng nhiều bài kinh nổi tiếng về bảy yếu tố
không thoái Đức Vua và Hoàng tử và Bảy Yếu tố không thoái của chư
tỳ khưu.
Sau đó ngài bắt đầu cuộc hành trình cuối trước tiên đi đến làng
Pāṭali ở đó Đức Phật dạy về hiệu quả của đời sống đạo đức và vô
đạo đức. Rồi ngài đi tiếp đến làng Koṭi nơi đó ngài giải
thích về Bốn Sự Thật Cao Quý. Rồi ngài tiếp đến ngự ở làng
Nātika nơi đây bài kinh nổi tiếng về tấm Gương Chân Lý được
thuyết giảng.
Kế đó Đức Phật đi Vesalī với hội chúng đông chư tỳ khưu. Ở Vesalī, Đức
Phật tuần du đến một làng nhỏ tên là Veluva ở đó ngài lâm trọng
bệnh đến nỗi có thể xem như là định mệnh. Nhưng Đức Phật quyết định
duy trì tiến trình sự sống và không qua đời mà không nhắn nhủ hàng cư
sĩ và chưa tạm biệt tăng chúng. Khi Đại Đức Ananda bạch đức Phật
người thật lo lắng làm sao bởi vì bệnh tình của Đức Phật, Đức
Phật ban pháp lệnh sâu sắc như sau: Hãy là người hộ trì của chính
mình, là nơi nương nhờ của chính mình. Hãy lấy Pháp là nơi nương
nhờ của các con, không nương nhờ vào nơi nào khác."
Chính tại thành Vesalī mà Đức Phật quyết định qua đời và chứng ngộ Parinibbāna trong
vòng ba tháng nầy. Ngay giây phút Đức Phật có quyết định nầy có
xảy ra trận động đất lớn. Đại Đức Ānanda, khi được Đức Phật cho
biết lý do của động đất, thỉnh cầu ngài thay đổi quyết định nhưng
không có hiệu quả tí nào.
Sau đó Đức Phật ra lệnh triệu tập Tăng chúng và ngài cho họ biết ngày
ngài nhập diệt sắp đến. Đoạn ngài ôn lại tất cả các nguyên lý
căn bản Giáo Pháp của Ngài và sách tấn họ tinh cần, tỉnh giác, và
thường xuyên canh giữ tâm của chính mỗi người hầu đoạn tận khổ.
Sau đó Đức Phật rời Vesali và đi đến Làng Bhanḍa nơi đây ngài tiếp
tục thuyết những bài kinh cho Tăng chúng tháp tùng theo ngài về
Giới (Sīla), Định (Samādhi) và Tuệ (Paññā). Ngài lại tiếp tục cuộc hành trình về phía bắc, ngài thuyết bài kinh về Bốn Quyền hạn lớn, Mahāpadesa, tại tỉnh lỵ Bhoga.
Từ đó ngài tiếp tục đi đến Pāvā và ngụ trong rừng Xoài của Cunda, con
trai ông thợ Kim hoàn, người ấy dâng cúng thực phẩm đến Đức Phật
và hội chúng tỳ khưu. Sau khi độ xong bửa do Cunda dâng cúng,
bệnh trầm trọng phát sanh đến Đức Phật tuy nhiên ngài vẫn tiếp
tục cuộc hành trình cho đến khi đến Kusinārā ở đây trong rừng cây
Sal của các hoàng tử Malla, ngài giục Ānanda trải giường cho
ngài ngự. Ngài ngự trên giường với chánh niệm và giải thoát, chờ
giờ nhập diệt (parinibbāna).
Thậm chí khi ngự trên giường chờ giờ nhập diệt Đức Phật vẫn tiếp tục
dạy, giải thích rằng có bốn nơi phát sanh lòng tôn kính và tận
tâm. bốn người xứng đáng xây tháp phụng thờ, và trả lời những câu
hỏi của Ānanda về tự mình nên ứng xử như thế nào với phái nữ,
hay về những gì nên được làm liên quan đến xá lợi của Đức Phật.
Hành động vô ngã cuối cùng của ngài nhằm giải thích cặn kẻ Chân
Lý và chỉ đường cho Subhadda, ẩn sĩ. ngoại đạo.
Rồi sau khi chắc chắn rằng không còn vị tỳ khưu nào có nghi ngờ gì
trong Phật, Pháp và Tăng, Đức Phật nhắn nhủ lời cuối cùng: "Tất cả
các pháp hữu vi đều có bản chất cố hữu là hoại và diệt. Hãy tinh
cần nỗ lực với tròn đủ chánh niệm."
Rồi khi chư tỳ khưu triệu tập, các hoàng tử và dân chúng đảnh lễ ngài
với tâm vô cùng tôn kính, Đức Phật qua đời và chứng ngộ Parinibbāna.
(4) Kinh Đại Thiện Kiến Vương (Mahāsudassana Sutta)
Bài Kinh nầy được Phật dạy trong lúc ngài ngự trên giường chờ giờ
nhập diệt trong rừng cây Sal của hoàng gia Mallas. Khi đại đức
Ānanda van nài ngài đừng nhập diệt trong tỉnh lỵ nhỏ, trơ trụi và
không có ý nghĩa nầy, Đức Phật dạy rằng Kusinārā không phải là
thành phố nhỏ không có ý nghĩa.
Trong những thời xa xưa, nơi đây được biết là Kusāvatī, thủ đô của chư vị Chuyển Luân Thánh Vương đã cai bốn châu thiên hạ trên thế gian.
Đoạn Đức Phật mô tả vẻ nguy nga và đồ sộ của Kusavati thời vua Đại Thiện Kiến (Mahāsudassana)
cai trị. Ngài cũng mô tả đức vua đã cai trị các lãnh địa của
mình chân chính như thế nào và cuối cùng từ bỏ tất cả những tham
luyến và thực hành thiền định, qua đời và đạt đến cảnh giới an
lạc của Phạm Thiên.
Đức Phật tiết lộ rằng thời đó ngài là vua Đại Thiện Kiến (Mahāsudassana).
Ngài từ bỏ thân xác nơi nầy (trước kia là Kusāvatī) sáu lần như
là Vua Chuyển Luân Thánh Vương. Bây giờ ngài từ bỏ thân xác lần
thứ bảy và là lần cuối cùng. Ngài chấm dứt bài kinh nhắc Ānanda rằng
tất cả các pháp hữu vi thực sự là vô thường. Sanh và diệt là bản
chất cố hữu của nó. Chỉ có Niết bàn tịch tịnh mới là sự chấm dứt
tuyệt đối của chúng.
(5) Kinh Janavasabha (Janavasabha Sutta)
Bài Kinh nầy là bài nói rộng ra của bài kinh khác được Đức Phật
thuyết vào cuộc hành trình cuối đời ngài. Ānanda biết vận mệnh
của những cư sĩ từ xứ Magadha. Đức Phật bảo vô số người từ Magadha đã
đến cõi trời nhờ đức tin vào nơi Phật, Pháp và Tăng. Tin tức nầy
do thiên nam Janavasabha người trước kia là vua Bimbisāra. Ông
bạch Phật rằng rất thường có hội chư thiên trên cõi trời vào
những ngày Bát Quan Trai khi vua của Chư Thiên và Phạm Thiên Sanankumāra dạy pháp về phát triển Các căn của Thần Lực, về Ba Cơ Hội, về Bốn Phép Chánh Niệm và Bảy Yếu Tố Định.
(6) Kinh Đại Điền Tôn (Mahāgovinda Sutta)
Trong bài kinh nầy, Pañcasikha, một thiên nam ở cõi trời Càn Thát Bà kể với hội chúng chư thiên nơi Phạm Thiên Sanakumāra dạy pháp như đã được Mahāgovinda chỉ bày, Bồ tát Mahagovinda đã đến cõi trời Phạm Thiên. Đức Phật nói rằng Mahagovinda
là không ai khác hơn chính ngài và giải thích rằng Pháp ngài đã
dạy thời đó có thể dẫn con người chỉ đến cõi trời Phạm Thiên. Với
lời dạy của Ngài bây giờ như là Đức Phật Toàn Giác, có thể đạt
được những thành tựu cao hơn như Nhập Lưu, Nhất Lai, Bất Lai và
thành tựu cao nhất là quả vị A La Hán.
(7) Kinh Đại Hội (Mahāsamaya Sutta)
Đức Phật đang ngự trong rừng Đại Lâm tại Kapilāvatthu với
hội chúng A La Hán tổng số lên đến năm trăm vị..Lúc bấy Chư Thiên
và Phạm Thiên từ mười ngàn thế giới đến để đảnh Đức Phật và hội
chúng Thánh Tăng. Đức Phật nói với Thánh chúng danh tánh của Chư
Thiên và Phạm Thiên như được liệt kê trong bài kinh nầy.
(8) Kinh Thiên Vương Sở Vấn (Sakkapañha Sutta)
Một thời khi Đức Thế Tôn ngự tại Động Indasāla gần thành Rājagaha, Sakka,
Thiên Vương, giáng xuống để hỏi ngài vài câu hỏi nào đó. Thiên
vương muốn biết tại sao có hận thù và bạo lực giữa những chúng
sanh khác nhau. Đức thế tôn bảo ông chính là do ganh ghét và ích kỷ mà
sanh ra thù hận giữa các chúng sanh. Ngài giải thích thêm rằng
ganh ghét và ích kỷ do thích và không thích gây ra, mà ngược lại
có gốc của chúng trong tham ái. Và tham ái phát sanh từ tầm (vitakka) mà nó có nguồn gốc trong ảo tưởng muốn kéo dài vòng luân hồi (papañca-saññā-saṇkha).
Sau đó Đức Phật đưa ra đề cương để dời ảo tưởng muốn kéo dài vòng
luân hồi nầy gồm hai loại tầm cầu, những tầm cầu nên được theo
đuổi và những tầm cầu không nên theo đuổi.
(9) Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhāna Sutta)
Bài Kinh nầy là một trong những bài kinh về học thuyết quan trọng
nhất của Đức Phật. Nó thâm thuý ở điểm là con đường duy nhất 'để
thanh tịnh chúng sanh, vượt qua sầu não, đoạn tận khổ ưu, đạt đến
thánh đạo, chứng ngộ Niết bàn.'Bài Kinh nầy thuyết trực tiếp đến
chư tỳ khưu ở thị trấn Kammasadhamma, định nghĩa 'con đường
duy nhất' như Bốn Phép Chánh Niệm được làm thành mười bốn cách
quán tưởng thân, chín cách quán thọ, mười sáu cách quán tâm, và
năm cách quán pháp. Bài Kinh chấm dứt với lời bảo đảm rõ ràng về
kết quả thiết thực: Quả vị A La Hán ngay trong kiếp sống nầy hay
trạng thái Bất Lai có thể đạt được trong vòng bảy năm, bảy tháng , hay
bảy ngày.
(10) Kinh Pāyāsi
Bài Kinh nầy kể lại làm sao Đại Đức Kumārakassapa chỉ con đường thẳng cho Thống đốc Pāyāsi của tỉnh Setabyā trong xứ Kosala. Thống đốc Pāyāsi
nắm giữ tà kiến:" Không có thế giới khác; không có chúng sanh
nào phát sanh lại sau khi chết; không có quả của hành động xấu
hay tốt."Đại Đức Kumārakassapa chỉ cho ông con đường thẳng, minh hoạ lời ngài dạy bằng nhiều ví dụ để cho ông sáng tỏ. Cuối cùng Pāyāsi trở nên tràn đầy tín tâm và quy y Phật, Pháp và Tăng. Đại Đức Kumārakassapa
cũng dạy ông đúng cách của vật cúng dường được làm và những vật
cúng dường nên được làm với lòng tôn kính thích đáng, bằng chính
hai tay mình, với sự cung kính và không phải như vất bỏ chúng. Chỉ với
những điều kiện nầy việc cúng dường, làm phước đó mới mang lại kết
quả thù thắng.
*
(c) Phẩm Pāthika (Pāthika Vagga Pāḷi)
Phẩm nầy gồm mười một bài Kinh ngắn hơn có nội dung tổng hợp. Chúng
đề cập đến sự phủ định của Đức Phật pháp khổ hạnh cực kỳ khắc
nghiệt và sai lầm của những đồ chúng ở các phái khác; chúng cũng
đề cập đến từng thời kỳ tiến hoà và huỷ diệt của vũ trụ, tích
chuyện của các vị Chuyển Luân Thánh Vương và ba nươi hai tướng
tốt của bậc Đại Nhân. Có một bài Kinh Singālā, thuyết cho một
người thanh niên Ba La Môn chỉ bày những bổn phận được thực hiện
bởi những thành viên trong xã hội loài người. Hai bài Kinh cuối,
Phúng Tụng (Sangīti) và Thập Thượng (Dasuttara),
là những bài Kinh được Đại Đức Sariputta thuyết và chúng chứa những
danh sách thuật ngữ học thuyết được phân loại tuỳ theo chủ đề và
những đơn vị số. Thể loại luận bàn của chúng khác với chín bài
kinh khác trong phẩm nầy.
(1) Kinh Pāthika
Vào thời Đức Phật, có nhiều đạo sư khác cùng với đệ tử của họ, nắm
giữ nhiều quan niệm khác nhau về đời sống phạm hạnh gồm những gì,
về nguồn gốc và sự phát triển của vũ trụ, và về sự biểu diễn
những phép lạ và thần thông. Sunakkhatta, hoàng tử Licchavi trở thành đệ tử của Đức Phật và được chấp nhận vào Tăng Đoàn.
Nhưng ông thấy giới luật và Giáo Pháp ở trên ông và trên tầm mức hiểu
biết của ông, cùng lúc đó ông bị thu hút vào giáo pháp và pháp
hành của những phái khác. Sau ba năm ông rời Tăng Đoàn rồi thành
một đồ chúng của một trong những phái khác, ông bắt đầu thoá mạ
giáo pháp của Đức Phật và thực hiện nhiều lần vu khống Đức Phật
và chúng đệ tử của Ngài. Nhiều bài giảng ngắn trong Kinh Pāthika tường trình về những lời phủ nhận và giải thích của Đức Phật liên quan đến nhiều lời buộc tội của Sunakkhatta.
(2) Kinh Udumbarika (Udumbarika Sutta)
Bài Kinh nầy thuyết cho Nigrodha, du ẩn sĩ và đồ chúng của
ông trong vườn thượng uyển của hoàng hậu Udumbarika gần Rajāgaha,
để huỷ luận thuyết sai lầm của họ và thiết lập luận thuyết hợp
lý. Quá bị ám ảnh với những tà kiến sai lầm của chính họ, những
du sĩ nầy không đáp lời mời của Đức Phật để hành theo Giáo Pháp
của ngài bảo đảm có hiệu quả thiết thực trong bảy ngày.
(3) Kinh Chuyển Luân Thánh Vương (Cakkavatti Sutta)
Trong thành Mātulā, của xứ Magadha, Đức Phật ra
lệnh cho chư tỳ khưu hãy là những người hộ độ cho chính mình, là
nơi nương nhờ của chính mình, nương nhờ vào pháp và không nương
nhờ vào ai khác. Sau đó Đức Phật kể chuyện Daḷhanemi,
Vua Chuyển Luân Thánh Vương, có Thiên Xa như là một trong bảy báu
của Đức Vua. Vua và những người kế vị cai trị bốn châu thiên hạ,
nắm và sử dụng uy lực và quyền hành của Chuyển Luân Thánh Vương.
Thọ mạng của chư vị dài lâu và bao lâu còn sống thì còn duy trì
chánh đạo và hoàn thành những bổn phận cao thượng của vua Chuyển Luân
Thánh Vương, Chánh Pháp là người hộ độ duy nhất, cung cấp chỗ trú
ẩn và an ninh, thân tặng tài sản và nhu yếu phẩm cho người cần,
Lãnh thổ của họ duy trì hoà bình, thịnh vượng và phát triển.
Nhưng khi Quốc vương không thực hiện được những bổn phận của vị vua
chánh trực, khi Chánh Pháp không còn là nơi nương nhờ, đạo đức con
người suy sút. Tuổi thọ giảm dần đến chỉ còn mười tuổi. rồi mười
thiện nghiệp sanh ra những hiệu quả ích lợi hoàn toàn mất và
mười ác nghiệp cho quả bất thiện sinh sôi nẩy nở tràn lan. Người
ta quên không tỏ ra tôn kính bậc lãnh đạo và các trưởng lão, lơ
là thực hiện những bổn phận đối với cha mẹ, sa môn và bà la môn.
Cũng có phát sanh sân hận và tà ý lẫn nhau, những tư tưởng giết
nhau, rồi tiếp đến là đánh nhau, phá hại và tàn sát.
Một ít người sống sót từ cuộc tàn sát đồng lòng từ bỏ các tà hạnh,
sống trong tinh thần hài hoà, làm các thiện nghiệp, tỏ lòng tôn
kính các bậc lãnh đạo và các trưởng lão, thực hành những bổn phận
đối với cha mẹ, sa môn và bà la môn. Cuối cùng đạo đức được cải
thiện, tuổi thọ con người tăng lên lại dần đến tám mươi ngàn tuổi
khi đó Vị Chuyển Luân Thánh Vương xuất hiện thêm một lần nữa để
cai trị đúng chánh pháp. Như vậy, chư tỳ khưu được lệnh sinh hoạt
đúng chánh Pháp, biến Pháp là người hộ độ, là nơi nương nhờ.
Pháp sẽ chỉ đường cho họ phát triển thể chất và tâm linh cho đến
họ đạt quả vị Ala hán.
(4) Kinh Khởi Thế Nhân Bổn (Aggañña Sutta)
Bài Kinh nầy được thuyết tại thành Sāvatthi cho hai chú sa di đang tu học, Vāseṭṭha và Bhāradvāja, chỉ
ra những tà kiến của những người Bà la môn như việc liên quan
đến đẳng cấp. Bên phía Bà la môn tuyên bố rằng trong bốn giai cấp
của con người, giai cấp Bà la môn được công nhận là cao thượng
nhất trong thời đó, kế đến là giai cấp Sát Đế Lỵ - Khattiya, giai cấp cao thượng và hoàng gia; tiếp theo là giai cấp Vessa - iai cấp mậu dịch và cuối cùng là Suda - giai cấp hạ tiện nhấṭ
Đức Phật phủ nhận những lời tuyên bố nầy của phía Bà la môn, bằng
cách giải thích thế giới phải chịu những tiến trình tiến hoá và
hoại diệt và mô tả làm sao con người xuất hiện đầu tiên trên trái
đất và làm sao nổi lên bốn giai cấp. Ngài giải thích thêm rằng
dòng tộc sản sinh của một người nào không quyết định tính cách
cao thượng của người đó nhưng do đức hạnh và trí tuệ hiểu biết Tứ
Thánh Đế.
'Dù ai đi nữa nắm giữ tà kiến và phạm tà hạnh đều là không cao thượng
cho dù thuộc đẳng cấp nào. Bất kỳ ai tự mình thu thúc trong hành
động, lời nói và tư tưởng và phát triển Ba Mươi Bảy Bồ Đề Phần
cho đến khi diệt tận mọi phiền não ngay trong kiếp sống nầy là
người lãnh đạo, người cao thượng nhất giữa loài người và chư
thiên bất kể sanh ra trong dòng tộc nào.
(5) Kinh Tự Hoan Hỷ (Sampasādanīya Sutta)
Lòng tịnh tín bất động vào Đức Phật của Đại đức Sāriputta đã được
công bố một lần trong bài diễn thuyết hùng hồn ngợi ca Đức Phật
trong sự hiện diện của ngài. Về việc phát ngôn hùng hồn gan dạ về
những phẩm chất của Đức Phật, Đức Phật hỏi ông liệu ông có hiểu
biết tự thân nào về các tâm của chư Phật, ở quá khứ,vị lai và
hiện tại, giới hạnhcủa chư vị, định tâm và trí tuệ của chư vị và
cách giải thoát của chư vị.
Đại Đức Sāriputta nói ngài không tuyên bố có kiến thức như thế tự
ngài thẩm định bằng cách tuyên bố rõ tiến trình của pháp được tất
cả chư vị Phật thực hiện - những thành tựu trong giới luật, từ
bỏ năm triền cái, an trú trong bốn phép chánh niệm và huân tập
Bảy yếu tố giác ngộ - chỉ tiến trình nầy mới có thể dẫn đến giác
ngộ siêu việt.
(6) Kinh Thanh Tịnh (Pāsādika Sutta)
Đại Đức Ānanda cùngđi với tỳ khưu Cunda đến gặp Đức Phật để báo cho ngài biết Niganṭḥa Nāṭaputta đã từ trần, vị lãnh đạo của một phái nổi tiếng, và sự chia rẽ đã phát sanh giữa chúng đệ tử của ông.
Đức Phật bảo họ đó là điều tự nhiên và có mầm mống xảy ra trong giáo
pháp không được dạy tốt, không được phổ biến rộng rãi, không dẫn
đến giải thoát, và không được dạy bởi người đã giác ngộ siêu
việt.
Trái lại, Đức Phật giải thích rằng giáo pháp mà khi đem ra dạy thì
được dạy tốt, được phổ biến rộng rãi nhờ người đã giác ngộ siêu
việt, không có tà kiến, không có suy xét về quá khứ hay tương lai
hay về ngã. Trong Giáo Pháp của Đức Phật, chư tỳ khưu được Bốn
Phép Chánh Niệm nhờ đó những tà kiến và những xét đoán nầy được
dẹp qua một bên.
(7) Kinh Tướng (Lakkhaṇa Sutta)
Bài Kinh nầy về ba mươi hai thân tướng trang nghiêm của bậc Đại Nhân
được Đức Phật thuyết tại thành Sāvatthi, trong tự viện của ông
Cấp Cô Độc (Anāthapiṇḍika). Đối với người có ba mươi hai
thân tướng trang nghiêm, chỉ có thể có hai tiến trình dành sẳn
cho vị ấy và không cho ai khác.
"Nếu sống đời tại gia, người ấy sẽ trở thành Chuyển Luân Thánh Vương
cai trị đúng chánh đạo cả bốn châu thiên hạ. Nếu từ bỏ đời sống
gia đình xuất gia sống đời vô gia đình, vị ấy sẽ trở thành Bậc
Chánh Đẳng Chánh Giác.
Đức Phật giải thích chi tiết ba mươi hai thân tướng trang nghiêm,
cùng với sự tích những việc thiện mà ngài đã hoàn thành trong
những kiếp trước bằng đức hạnh nhờ đó có được những thân tướng
ấy.
(8) Kinh Giáo Thọ Singala (Singāla Sutta)
Bài Kinh nầy được Đức Phật thuyết tại thành Rajāgaha nhằm giúp cho người thanh niên Singāla.
Thanh niên Singāla thường lễ bái sáu hướng, đó là, Đông, Nam,
Tây, Bắc, Thượng và Hạ theo lời cha dạy trước khi ông từ trần.
Đức Phật giải thích cho thanh niên nầy rằng trong giáo pháp của
ngài, sáu hướng là: Hướng Đông đại diện cho cha mẹ; hướng Nam đại diện
cho thầy tổ; hướng Tây cho vợ và con; hướng Bắc cho bằng hữu và
những người cộng sự; hướng Trên đại diện cho Sa Môn và Bà La Môn.
Đức Phật giải thích thêm về sáu nhóm trong xã hội được đề cập đến
trong bài Kinh được xem là linh thiêng và đáng tôn trọng và tôn
thờ. Người tôn kính họ bằng cách thực hiện những bổn phận đối với
họ. Sau đó những bổn phận nầy được giải thích cho thanh niên Singāla.
(9) Kinh Āṭānāṭiya (Āṭānāṭiya Sutta)
Tứ Đại Thiên Vương đến diện kiến Đức Phật và bạch ngài rằng có những
người không có đức tin trong số chúng sanh vô hình có thể phương
hại đến những người theo Đức Phật. Do đó Tứ Đại Thiên Vương muốn
dạy chư tỳ khưu bài chú hộ trì được biết như là Kinh Hộ Trì Āṭānāṭiya. Đức Phật im lặng tán thành.
Sau đó Tứ Đại Thiên Vương đọc bài kinh hộ trì Āṭānāṭiya, Đức
Phật khuyên chư tỳ khưu, chư tỳ khưu và các đệ tử cư sĩ học, ghi
nhớ hầu có thể sống dễ dàng thoải mái và được canh phòng và hộ
trì cẩn thận.
(10) Kinh Phúng Tụng (Sangīti Sutta)
Đức Phật đang đi vòng quanh xứ Mallas khi ngài đến Pāvā. Cái chết của Nigaṇṭha Nātaputta vừa chỉ mới xảy ra và đồ chúng của ông bỏ đi trong sự bất hoà, xung đột, tranh cãi về những học thuyết.
Đại đức Sāriputta người giảng bài kinh nầy quy tội chia rẽ trong đồ chúng của Nātaputta cho sự kiện rằng giáo pháp của Nāṭaputta không
được dạy tốt cũng không được phổ biến rộng rãi, và không dẫn đến
giải thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi, và được người dạy
không có sự giác ngộ siêu việt.
Nhưng giáo pháp của Đức Phật được giảng dạy tốt, phổ biến rộng rãi,
dẫn đến giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, được Đức Phật
giảng dạy - người đã chứng ngộ giải thoát siêu việt. Ngài khuyên
chư tỳ khưu đọc tụng pháp được Đức Phật dạy, trong sự tương hợp
và không có bất hoà hầu Giáo Pháp nầy trường tồn. Sau đó Đức Phật
tiếp tục liệt kê các pháp được phân loại dưới những đề mục riêng
như Nhóm có Một Pháp, Nhóm có Hai Pháp, v.v... đến nhóm có mười
pháp. để dễ ghi nhớ và tụng đọc.
(11) Kinh Thập Thượng (Dasuttara Sutta)
Bài Kinh nầy cũng được Đại Đức Sāriputta, trong lúc Đức Phật ngụ Campā để chư tỳ khưu được giải thoát khỏi xiềng xích, chứng ngộ Niết Bàn, và đưa đến khổ tận.
Đại Đức dạy pháp được phân loại như Nhóm có Một Pháp, Nhóm có Hai Pháp, v.v... đến Nhóm có Mười Pháp.