Từ
khi Lục Tổ Huệ Năng chính thức kiến lập môn đình Thiền tông về sau trải
qua sự truyền đăng hoằng hoá cuả Ngũ gia Thất tông, sử Phật giáo Trung
Quốc cơ hồ trở thành sử Thiền tông, âm ba vang dội của nó đến nay vẫn
còn. Hơn một nghìn năm nay, Thiền tông ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt của
Phật giáo Trung Quốc, không phải là việc giản đơn khi muốn trình bày
cặn kẽ về mặt tích cực cũng như chỗ thiên chấp và biến đổi của nó. Nay
tôi chỉ vận dụng thể tài sử thoại để nói tổng quát về căn nguyên tư
tưởng và vài đặc điểm về phong cách Thiền tông.
Chương I
Thiền tông chiếm một vai trò trọng yếu
trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc là một sự thật mà ai nấy đều công
nhận. Nhưng hỏi vì sao nó được địa vị như thế thì có rất nhiều sự giải
thích khác nhau. Có người nói: Thiền tông thuộc phạm vi của Bát-nhã
ba-la-mật, tham cứu đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, chẳng đồng
với thiền định, vì thế nó thịnh hành. Lại có người nói: Tư tưởng Thiền
tông và tư tưởng Phật giáo Ấn Độ có nhiều điểm khác nhau, Thiền tông là
một biểu hiện của Phật giáo sau khi truyền vào Trung Quốc chịu sự đồng
hóa của tư tưởng truyền thống Trung Quốc mà phát sinh. Do vì Phật giáo
đã đồng hóa với tư tưởng truyền thống của Trung Quốc nên thích hợp với
sự ưa chuộng của nhân dân Trung Quốc. Vì thế Thiền tông chiếm một vai
trò trọng yếu trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc. Hai quan điểm vừa kể
cố nhiên là dựa vào sự thật lịch sử và lý luận, nhưng nghiên cứu kỹ lại
thì biết là chưa thỏa đáng. Tại sao vậy?
1. Đại triệt đại ngộ minh tâm kiến tánh
và thiền định không thể dứt khoát phân khai. Muốn giảng rõ về vấn đề
này, có thể chia làm 3 phần:
a/ Chữ Thiền của Thiền tông hoặc Thiền
định là dịch âm của tiếng Phạn chỉ cho hiện tượng ngưng tập hoàn toàn
của sinh lý và tâm lý con người. Các phương pháp tu tập thiền định cho
đến các tiến độ và giai đoạn của thiền định ở trong di sản văn hóa cổ
đại Trung Quốc và Ấn Độ đều có tư liệu vô cùng phong phú. Nếu nói riêng
ở Ấn Độ thì trước khi Đức Thế Tôn Thích-ca đản sinh, các tôn giáo Ấn
Độ đã có rất nhiều người chuyên tu thiền định ở trong núi rừng, đồng
nội. Như kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm 7 ghi: "Có vị tiên tên
A-la-la với ba trăm đệ tử thường dạy họ tu định vô sở hữu xứ". "Thành
Vương Xá có tiên nhân Ma-la-chi tử tên Vi-ô-đặc-ca với bảy trăm đệ tử,
thường dạy tu định Phi tưởng phi phi tưởng xứ". Sau khi Thích-ca xuất
gia đầu tiên Ngài có đến thỉnh giáo với các tiên nhân như A-la-la... đây
là một sự kiện lịch sử mà Phật giáo đồ đều biết.
Theo kinh Phổ Diệu 5, A-la-la... tu tập
thiền định đều không thầy mà tự ngộ. Đủ thấy thiền định là một hiện
tượng phổ thông trên sinh lý và tâm lý của con người, bất cứ người nào
hễ chịu tu thì đều đạt đến, không có gì hiếm có, lạ lùng cả. Vì thế, sau
khi Thế Tôn Thích-ca theo A-la-la... tu tập tứ thiền, bát định, Ngài từ
giã họ, một mình đến dưới cội bồ-đề tư duy. Nhưng Luận Đại Trí Độ 7
ghi: "Tất cả chư Phật ở trong Đệ tứ thiền hành kiến đế đạo, đắc
A-na-hàm, tức thời trong mười sáu tâm đắc Phật đạo.Trong Đệ tứ thiền xả
bỏ thọ mạng , ở trong Đệ tứ thiền khởi nhập Niết-bàn vô dư".Thành Duy
Thức Luận Sớ Sao 9 ghi: "Phật muốn biết tâm của tất cả mọi người ,phải
nhập biên tế định thượng phẩm Đệ tứ thiền mới có thể biết". Vậy Đức Thế
Tôn Thích-ca không có và cũng chẳng thể bỏ thiền định, vì thế thành Phật
rồi, Ngài luôn luôn khuyến khích đệ tử siêng tu thiền định. Đối chiếu
trước sau, dường như quá mâu thuẫn, nhưng thật ra không xung đột, vì
người tu tập thiền định cảm thấy các hiện tượng đối với thân tâm mà
trước đây chưa từng trải qua, như làđiều thân đặc biệt khinh an thơ
thới, ý niệm đặc biệt điều nhu rỗng lặng..v..v... ,rất dễ khiến cho
người ta ở ngoài thế giới hiện thực , phát sinh ảo giác thần bí. Nếu lấy
những tứ ảo giác thần bí ấy làm thực tại, rồi kiến lập tín ngưỡng sùng
bái thần linh hoặc chủ nghĩa thần bí. Phật giáo gọi đó là ngoại đạo,
chẳng thể giải quyết vấn đề sinh tử. Trái lại, nếu lấy các hiện tượng từ
thiền định phát sinh tiến một bước thể nhận cái lý của nó thì có thể
thấu hiểu sâu sắc về vũ trụ và nhân sinh, đó gọi là trí huệ. Trí huệ
thấu triệt thì được gọi là bồ-đề. Do đó nói " Định hay sanh huệ", mà
thành Phật cũng chẳng lìa "Đệ tứ thiền".
b/ Tứ Gia Ngữ Lục 1 ghi: " Niên hiệu
Khai Nguyên có sa-môn Đạo Nhất trụ ở Viện Truyền Pháp hằng ngày tọa
thiền, Sư (Nam Nhạc Hoài Nhượng) biết là pháp khí, đến hỏi: "Đại đức tọa
thiền để làm gì?" Đạo Nhất đáp: "Để làm Phật". Sư mới lấy một tấm gạch
mài trên tảng đá trước am của Đạo Nhất. Đạo Nhất hỏi: "Sư mài tấm gạch
để làm gì?" Sư đáp: "Để làm gương". Đạo Nhất: "Mài gạch có thể làm gương
được sao?".Sư nói: "Mài gạch đã chẳng thành gương được thì tọa thiền có
thể thành Phật được sao?". Nhìn từ mặt ngoài của câu chuyện nổi tiếng
này thì thấy dường như Thiền tông phản đối thiền định, nhưng kì thật
không phải vậy đâu! Vì lúc ban đầu Phật giáo truyền vào Trung Quốc khá
chú trọng tu thiền, về sau đến các đời Lương, Trần, Tùy cho đến đầu đời
Đường, các thiền sư nổi tiếng ở hai miền Nam Bắc sông Trường Giang (xem
trong Thiên Tập Thiền, Tục Cao Tăng Truyện) chính truyền 95 người, phụ
38 người, cộng chung 133 người, so với 210 của Cao Tăng Truyện thì nhiều
hơn 67 người thì có thể tưởng tượng được sự chênh lệch cũng rất lớn.
Như Lạc Dương Già Lam Ký 2 ghi:
"Tỳ kheo Huệ Ngưng ở chùa Sùng Chân
chết, bảy ngày sau sống lại, qua phán xét của vua Diêm La, vì gọi lầm
tên nên được miễn. Huệ Ngưng nói đủ về thời quá khứ, có năm thầy tỳ kheo
kết bạn. Một tỳ kheo là Trí Thánh ở chùa Bảo Minh, khổ hạnh tọa thiền
được lên Trời. Có một tỳ kheo tên Đạo Phẩm ở chùa Bát- nhã đã tụng kinh
Niết-bàn cũng được sanh lên trời. Có một tỳ kheo tên là Đàm Mưu Tối ở
chùa Dung Giác giảng kinh Niết-bàn, Hoa Nghiêm cho hàng nghìn người, vua
Diêm-la nói: "Người giảng kinh tâm còn bỉ ngả, kiêu mạn khinh người là
hạnh thô lỗ bậc nhất trong hàng tỳ kheo". Nay chỉ thử tọa thiền tụng
kinh, không hỏi giảng kinh. Đàm Mưu Tối nói: "Từ lập thân đến nay bần
đạo chỉ thích giảng kinh, thật chẳng quen tụng." Vua Diêm-la sai đem
giam vào ngục tối, liền có mười người áo xanh giải Đàm Mưu Tối đến cửa
Tây Bắc, phòng ốc đều tối đen, dường như không phải chỗ tốt... Hồ Thái
Hậu nghe kể lại, sai quan Hoàng Môn Thị Lang tên Từ Hột, dựa theo lời
của Huệ Ngưng tìm đến chùa Bảo Minh. Phía Đông thành có chùa Bảo
Minh,trong thành có chùa Bát Nhã, phía Tây thành có chùa Dung Giác. Hỏi
các thầy Trí Thánh, Đạo Phẩm, Đàm Mưu Tối đều là người có thật. Thái Hậu
nói: "Người chết có tội phước", bèn thỉnh 100 vị Tăng tọa thiền thường
đến cung điện cúng dường. Từ đó về sau, tỳ kheo ở Kinh Ấp đều tọa thiền,
tụng kinh, không còn muốn giảng kinh nữa."
Huệ Ngưng là một vị Thiền tăng bình
thường, không có địa vị trên lịch sử Phật giáo, Hồ Thái Hậu cũng chỉ có
kiến thức của một bà già ăn chay thờ Phật. Việc làm của họ, chúng ta cố
nhiên bất tất phải xem trọng, nhưng Cao Tăng Truyện 16 ghi:
" Ngài Tăng Trù tuổi quá 70, tinh thần
thanh cao khoáng đạt cảm hóa lòng người, khiêm cung đối với chúng sinh ,
giáo hóa hợp cơ: Vua ( Văn Tuyên Đế, Bắc Tề) rước Ngài vào cung luận
đàm chính lý, nhân đó Ngài dạy ba cõi vốn không, đất nước cũng vậy, vinh
hoa phú quý không thể giữ mãi, rồi giảng kĩ về pháp tứ niệm xứ. Vua
nghe qua, tháo mồ hôi, nổi gai ốc, liền thụ nhận thiền đạo, tu học chẳng
bao lâu chứng được định sâu...
Vua nói: "Đại tông của Phật pháp lấy
tĩnh tâm làm gốc. Các pháp sư truyền pháp giáo hóa rộn ràng chưa đáng
gọi là xiển dương, nên cần dẹp hết".
Bắc Tề ,Văn Tuyên Đế được thiền sư Tăng
Trù (đại đệ tử của thiền sư Bạt-đà, người khai sáng chùa Thiếu Lâm )
truyền cho Thiền đạo, và kiến giải của nhà vua, cao hơn nhiều so với Hồ
Thái Hậu thời Bắc Ngụy, may mà nhờ thiền sư Tăng Trù hết sức can gián,
nhà vua mới không thực hiện việc phế bỏ giảng kinh. Đến thời đại ngài
Đạo Tuyên cách Bắc Ngụy Hiếu Minh Đế, Bắc Tề Văn Tuyên Đế hơn một trăm
năm.trong Tục Cao Tăng Truyện, Ngài phê bình các thiền sư đương thời như
sau: " Người tu thiền thời gần đây phần nhiều phế bỏ nghĩa học, chỉ
nghe theo lời chỉ dạy của Thầy mà tu tập... Hoặc trở lại đắm trước định
thế gian cho là tu tập chân không; niệm tụng Tây phương ý muốn diệt
phiền não; cổ đeo tràng hạt, lần chuỗi gọi là thiền số; nạp y khất thực
cho đó là tâm đạo. Lại có một số người nương tựa tự viện dốc lòng tu
theo lối tà để được an thân rồi cho đó là đúng, các việc học khác là
sai, cố chấp như thế, sự sai trái của mình ai biết?" Như vậy đủ thấy
trước khi Thiền tông thành lập, người tu tập thiền định trong giới Phật
giáo Trung Quốc phần đông không có sự kết hợp với Bát-nhã ba-la-mật, do
đó mà ưa chuộng thần thông, thoát ly thực tế, rơi vào khô thiền hoặc
Tiểu thừa thiền. Lúc Mã Tổ chưa gặp thiền sư Hoài Nhượng, ngồi một mình
trong núi, toan tính thành Phật chính là trúng nhằm cái bệnh khô thiền
hoặc Tiểu thừa thiền. Hoài Nhượng theo bệnh cho thuốc, uốn nắn lại cho
đúng, vì thế nói: " Ngồi thiền há có thể thành Phật", nhưng chẳng phải
hoàn toàn phản đối thiền định.
c/ Sơ tổ Thiền tông, mọi người đều biết
là Bồ-đề-đạt-ma. Về việc chân ngụy của sự tích Ngài, các nhà nghiên cứu
có nhiều ý kiến bất đồng, ở đây không bàn đến. Ở đây chỉ muốn dẫn dụng
trong Tục Cao Tăng Truyện vài câu của "Nhập đạo tứ hạnh" tương truyền là
của Bồ-đề-đạt-ma:
"Nếu bỏ vọng về chân, ngưng trụ bích
quán, không mình không người, phàm thánh bình đẳng, kiên trụ chẳng động,
chẳng còn chạy theo văn tự thì thầm phù hợp với lý, không có phân biệt,
lặng lẽ vô vi, gọi là lý nhập"
"Bích quán" nghĩa là "ngoài dứt các
duyên, trong không nghĩ tưởng, tâm như tường vách ", đây là một phương
pháp tu thiền cùng vói thiền định nói chung , chỉ có tiến độ sâu cạn
hoặc đốn tiệm bất đồng, không có sự khác nhau trên bản chất, đủ thấy
Đạt-ma cũng chẳng bỏ thiền định. Trong truyện Nhị Tổ Huệ Khả không có
ghi chép Ngài tu tập thiền định nhưng Ngài đã từng theo học chủ trương
"Bích quán" của Bồ-đề-đạt-ma suốt 6 năm, và đạt đến trình độ "sự lý kiêm
dung, khổ lạc vô ngại", nhất định là Ngài đã tu pháp Bích quán và đạt
đến thành quả kể trên. Các đệ tử của Ngài là thiền sư Na và thiền sư Huệ
Mãn đều là người khắc khổ tu thiền. Cuộc đời và sự nghiệp Tam Tổ Tăng
Xán và Tứ tổ Đạo Tín tuy đơn giản, nhưng chúng ta cũng thấy ghi lại
trong truyện ký là các ngài cũng chú trọng tu thiền. Thế thì Thiền tông
từ lúc bắt đầu là theo lời dạy của Phật Thích–ca phải chuyên cần tu
thiền nên gọi là Thiền tông, rất đúng với sự thật. Tổ sư Thiền tông đã
bảo trì truyền thống tu thiền, về sau mới thấy tư thái của phái sơn lâm
xuất hiện trong giới Phật giáo. Điều này có ảnh hưởng rất lớn trong toàn
bộ giới Phật giáo nói chung và đối với tác phong của Thiền tông từ khi
chính thức thành lập về sau. Do đó cần phải giải thích rõ ràng. cho đến
những điểm bất đồng giữa Thiền tông và thiền nói chung, sẽ được trình
bày ở tiết sau.
Chương II
2. Tư tưởng Thiền tông là một loại hình
phát triển tại Trung Quốc của tư tưởng Bát-nhã thuộc Phật giáo Đại thừa
Ấn Độ, không có quan hệ lớn với tư tưởng truyền thống của Trung Quốc, ở
đây chia làm 4 mục để trình bày:
a/Truyện Đạt-ma, Tục cao Tăng Truyện 16 ghi:
" Có nhiều đường lối vào đạo, nhưng chủ
yếu chỉ có hai: lý và hạnh. Nhờ giáo ngộ tông, tin sâu chúng sanh đồng
một chân tánh, vì bị khách trần ngăn che, cho nên cần phải bỏ hư ngụy
trở về chân thật".
Kệ của Huệ Khả đáp Cư sĩ Hướng:
" Nói chân pháp này đều như thật.
Lý chân sâu thẳm không sai khác
Vốn mê ma-ni, nói sỏi đá
Hoát nhiên tự giác biết chân châu
Vô minh, trí huệ đồng, không khác
Phải biết muôn pháp thảy đều Như
Xót thương bọn người mang nhị kiến.
Mượn bút thay lời viết thư này
Thân này cùng Phật không sai khác
Niết-bàn vô dư, đâu cần tìm.
(Tục Cao Tăng Truyện16)
Đây là tư liệu đáng tin, trong đó đại khái có ba tư tưởng chủ yếu:
1. Vạn pháp đều Như, chúng sinh đồng một chân tánh;
2. Ngay nơi vọng tức là chân, vô minh và trí huệ như nhau, không khác;
3. Khách trần không thật, xả bỏ liền trở
về chân. Chúng ta có thể tìm thấy căn cứ của điều này trong kinh
Lăng-già. Như Lăng-già A-bạt-đa-la Bảo Kinh 4 ghi: "Tuy tự tánh thanh
tịnh, nhưng vì bị khách trần che lấp nên vẫn thấy không thanh tịnh".
Phẩm Tập Nhất Thiết Phật Pháp trong kinh Nhập Lăng-già 3 ghi: "Như Lai
Tạng tự táùnh thanh tịnh đủ ba mươi hai tướng ở trong thân của tất cả
chúng sanh, nhưng bị bao bọc bởi ấm, giới, nhập, cấu, nhiễm chẳng thật
của tham sân si bao bọc như ngọc báu vô giá bị gói trong chiếc áo dơ".
Đây là căn cứ lý luận của "Vạn pháp đều Như, chúng sanh đồng một chân
tánh".
Kinh Đại Thừa Nhập Lăng-già 2 ghi: Thế
nào là không có hai tướng? Này Đại Huệ! Như gương và bóng, như dài và
ngắn, như đen và trắng đều đối đãi với nhau mà lập, một mình đơn độc thì
bất thành. Này Đại Huệ! Chẳng phải ngoài sanh tư ûcó Niết-bàn, chẳng
phải ngoài Niết-bàn có sanh tử, sanh tử Niết-bàn không có tướng trái
nhau. Như sanh tử và Niết-bàn, tất cả pháp cũng như thế, đây gọi là
không có hai tướng".
Điều này cũng có thể chứng minh quan
điểm:" Ngay nơi vọng tức là chân, vô minh và trí huệ như nhau, không
khác", có chỗ căn cứ. Kinh Lăng-già 1 ghi: " Pháp và phi pháp chỉ làø do
phân biệt. Do phân biệt cho nên chẳng thể lìa bỏ, lại càng thêm lớn tất
cả hư vọng , chẳng được tịch-diệt. Tịch-diệt nghĩa là một duyên. Một
duyên tức là tam-muội bậc nhất". Điều này đâu có khác với "khách trần
chẳng thật, liền bỏ thì có thể trở về chân".
Do đây mà các Tổ sư Thiền tông đã từng
được gọi là Lăng-già Sư, trong Tục Cao Tăng Truyện cũng nói:" Đầu tiên,
thiền sư Đạt-ma đem 4 quyển Lăng-già trao cho Huệ Khả và dặn: " Ta xét
thấy Trung Quốc chỉ hợp với kinh này, ông hãy theo đây tu hành thì có
thể được giải thoát". Và Tục Cao Tăng Truyện còn ghi:"Các thiền sư Na,
Mãn... thường mang theo bên mình 4 quyển Lăng-già và cho đó là tâm yếu,
rồi theo lời dạy trong kinh tu hành chẳng sai sót. Đây chính là căn cứ
lịch sử của cái gọi là Lăng-già ấn tâm".
b/ Kinh Lăng-già nói về thức A-lại-da,
thông thường bị xếp vào trong kinh điển Tướng tông, nhưng nghĩa lý cơ
bản của kinh này không khác với các kinh luận Tánh tông. Như Luận Đại
Trí Độ 39 ghi: "Pháp thế gian chẳng khác pháp xuất thế gian, pháp xuất
thế gian chẳng khác pháp thế gian. Pháp thế gian tức là pháp xuất thế
gian. Vì sao? Vì cái gọi là khác đó không thật có".
Phẩm Pháp trong kinh Đại Bát-nhã 569
ghi: " Pháp tánh chân như và hữu tình chân như không hai, không khác;
các pháp chân như và pháp tánh chân như không hai, không khác; pháp tánh
chân như và tam thế chân như không trái ngược nhau. Tam thế chân như
tức là uẩn, xứ, giới chân như. Uẩn, xứ, giới chân như tức là tịnh, nhiễm
chân như. Tịnh, nhiễm chân như tức là sanh tử Niết-bàn chân như. Sanh
tử Niết-bàn chân như tức là tất cả pháp chân như".Đây là chân đế của tất
cả kinh điển Đại Thừa đồng xiển dương, căn cứ lập luận của nó là "duyên
khởi tánh không ". Nhân vì tất cả sự vật của thế gian, xuất thế gian,
nhiễm, tịnh... đã đều dựa vào nhân, chờ đợi duyên mà sinh khởi, nhất
định đều là vô tự tánh, là không; "không" trở thành thật tướng nhất vị
của khắp tất cả pháp. Trên thật tướng này tìm không ra sự khác biệt của
tất cả pháp, buông bỏ sự sai biệt do phân biệt sinh ra thì khế hội được
thật tướng, vì thế thiền sư Huệ Khả nói: "Vô minh,trí huệ như nhau,
không khác, phải biết muôn pháp thảy đều là chân như". Thiền sư Tăng Xán
cũng nói: "Quan sát bốn phương, trên, dưới, chẳng thấy pháp, chẳng thấy
thân, chẳng thấy tâm, cho đến tâm lìa danh tự, thân đồng hư không, pháp
đồng huyễn mộng, không đắc, không chứng, sau đó mới gọi là giải
thoát".Vậy thì hệ thống tư tưởng truyền thừa liên tục từ Đạt-ma, Huệ
Khả... tuy y cứ kinh Lăng-già nhưng vẫn không ra ngoài kinh Bát-nhã và
phạm vi tư tưởng của Long Thọ, vì thế Thiền tông còn tự xưng là " Nam
Thiên Trúc Nhất Thừa Tông".
c/ Từ quá trình phát triển tư tưởng Phật
giáo Ấn Độ, chúng ta thấy Bồ-tát Long Thọ đã phát triển tư tưởng
Bát-nhã, đồng thời cũng mở rộng tầm nhìn hoặc phạm vi hoạt động của Phật
giáo đồ, như kinh Tạp Thí Dụ ghi:
"Vô lượng trần số kiếp quá khứ, có
Bồ-tát tên Hỉ Căn ở trong đại chúng giảng Ma-ha-diễn (Đại thừa), lúc ấy
Văn-thù–sư-lợi là người phàm, xuất gia tu đạo chuyên tinh khổ hạnh, hành
12 hạnh đầu- đà, có phước độ mọi người, gặp lúc giảng pháp, do đó qua
nghe. Bồ-tát Hỉ căn giảng pháp thật tướng, nói tham, sân, si cùng với
đạo không khác, cũng tức là đạo, cũng là Niết-bàn. Văn-thù nghe qua,
không tin liền bỏ đi, đến nhà đệ tử của Hỉ Căn nói cho người ấy nghe về
pháp quán bất tịnh. Đệ tử của Hỉ Căn hỏi vặn lại: "Vô sở là sự chân thật
của pháp. Các pháp đều không thì làm sao có tịnh và bất tịnh?" Vị
tỳ-kheo đầu-đà im lặng không đáp được, trong lòng nổi giận thành ra uất
hận. Đệ tử của Hỉ Căn liền nói 70 bài kệ ngợi khen pháp thật tướng.
Tỳ-kheo đầu-đà nghe một bài kệ, lòng giận tăng thêm một phần, nghe hết
70 bài kệ, lòng giận tăng đến 70 phần. Nói kệ vừa xong, đất liền nứt ra,
địa ngục Vô Trạch hiện ra, tỳ-kheo đầu-đà bị rơi vào trong đó, qua vô
lượng kiếp, tội hết mới được ra. Sau đó mới biết, chẳng tin diệu pháp
thì bị tội nặng".
Câu chuyện Bồ-tát Hỉ Căn cũng thấy có
ghi trong Luận Đại Trí Độ, tôi cho rằng đây là từ lý luận "Pháp tánh
chân như và hữu tình chân như không hai, không khác" của kinh Đại
Bát-nhã triển khai ra. Đến ngài Vô Trước lại phát triển thêm, như Luận
Du-già Sư Địa 36 ghi:
"Các Bồ-tát do thâm nhập vào trí pháp vô
ngã nên biết đúng như thật tự tánh tất cả pháp ly ngôn, đạt đến không
có một chút phẩm loại để khỏi phân biệt. Chỉ nhận sự vật, chỉ nhận chân
như, chứ chẳng nghĩ: Đây là sự vật, đây là chân như mà chỉ hành thắng
nghĩa. Như vậy, vì Bồ-tát hành thắng nghĩa nên đối với tất cả pháp bình
đẳng, bình đẳng dùng Huệ chân như quán sát đúng như thật. Đối với tất cả
chỗ, đủ bình đẳng kiến, đủ bình đẳng tâm, đắc hạnh xả tối thắng. Nương
nhờ hạnh xả này nên lúc siêng năng tu tập tất cả thiện xảo minh xứ (ngũ
minh), tuy gặp mọi sự nhọc nhằn, đủ thứ khổ nạn cũng không thoái
chuyển..... Các Bồ-tát này ở trong sinh tử Như như lưu chuyển, dù gặp
khổ nạn lớn vẫn đủ sức phát triển Vô thượng Chính Đẳng Bồ-đề như thế".
Cách trình bày của Luận Du-già Sư Địa cụ
thể hơn Luận Đại Trí Độ, biểu hiện hết sức rõ ràng tinh thần tích cực
tiến thủ. Tôi cho rằng đây là nguyên nhân cơ bản mà Phật giáo Đại thừa
áp đảo Phật giáo Tiểu thừa trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ.
d/ Theo truyện Đ?t-ma, ngài là người Nam
Ấn Độ, sinh sau Vô Trước, Thế Thân khoảng một, hai trăm năm, chính là
lúc tư tưởng Bát-nhã tại Ấn Độ phát triển đến cao trào. Tư tưởng và hành
động của Đạt-ma đương nhiên chẳng thể không chịu ảnh hưởng sâu sắc của
tư tưởng Bát-nhã, vì thế Ngài sang Trung Quốc hoằng pháp, do vì phong
tục bất đồng, tác phong có khác,cho nên Ngài không được sự hoan nghênh
của Phật giáo đồ Trung Quốc. Tác phong của thiền sư Huệ Khả (đại đệ tử
của Ngài) cũng rất đặc biệt nên phải chịu sự đả kích còn lớn hơn, như
trong truyện Huệ Khả ghi:
"....Huệ Khả trải qua các tình huống để
nghiệm tâm, lăn lóc khắp chốn tịnh uế, mới biết lực dụng kiên cố, chẳng
bị cảnh duyên cướp đoạt.... Đầu niên hiệu Thiên Bình, Sư đi về phương
Bắc khai pháp ở Tân Nghiệp, bọn chấp văn tự đua nhau thị phi. Lúc ấy, có
thiền sư Đạo Hằng trước có tu thiền, được nhà vua mời vào đất Nghiệp,
đệ tử đông đến số nghìn, thừa lúc Huệ Khả thuyết pháp không dựa vào kinh
điển, vu cáo là lời ma, hối lộ quan phủ, phi lý giết hại. Vậy mà ngay
từ đầu Sư không chút thù hận, bị hại mấy lần đến chết.....Huệ Khả là
người thong dong thuận theo thế tục, lúc thì ban bố đạo thanh tịnh, lúc
thì ngâm vịnh gió trăng....Ngài lận đận ở đất Nghiệp, đất Vệ chịu bao
nỗi đắng cay, đạo vừa sâu xa lại vừa huyền diệu nhưng lại chưa có sự
nghiệp, chết không có người tiếp nối vẻ vang".
"Lăn lóc khắp chốn tịnh uế" và "thong
dong thuận theo thế tục" chính là một nếp sống cụ thể của"ở trong sinh
tử Như như lưu chuyển" đã nói trong Luận Du-già Sư Địa, chứa đựng tinh
thần tích cực tiến thủ. Vậy, ngọn nguồn của tư tưởng Thiền tông xuất
phát từ Ấn Độ, chứ chẳng phải được phát sinh từ sự đồng hóa với tư tưởng
truyền thống của Trung Quốc.
Chương III
Tông chỉ chủ yếu của Bát-nhã là khử bỏ
chấp trước và từ "bích quán" có thể đưa đến thể nhận "khử bỏ chấp
trước", vì thế người tham học của thiền môn trước sau vẫn kết hợp với tu
thiền. Nhưng họ chẳng chấp trước tu thiền, chính là sau khi nhờ tu
thiền mà đạt đến thể nhận rồi thì theo lý Bát-nhã mà thực hiện trong
sinh hoạt hằng ngày, đây là điểm bất đồng giữa họ và người tu thiền khác
và đây cũng là điểm họ vượt lên trên các người đó.
Phật giáo sau khi truyền nhập vào Trung
Quốc, cũng như lúc ở Ấn Độ, nghĩa là luôn luôn phát triển. Đến thời đại
Đạt-ma, Huệ Khả, do giáo lý của Thành Thật, Tam Luận khá phổ biến, ánh
sáng Bát-nhã đã soi đến toàn thể giới Phật giáo, trong đó có các trứ tác
của các thiên tài như Tăng Triệu, Đạo Sanh.... bàn về động tĩnh nhất
như, đốn ngộ thành Phật, có tác dụng rất lớn đến việc thúc đẩy sự phát
triển của Phật giáo Trung Quốc.Vì thế tư tưởng của Đạt-ma, Huệ Khả sau
khi truyền được vài đời thì dần dần được giới Phật giáo tin nhận và trở
thành Thiền tông. Nội dung tư tưởng Thiền tông gần với viên giáo Thiên
Thai, sự thực tiễn trong cuộc sống hằng ngày so với tông Thiên Thai lại
càng quan trọng hơn. Sau khi Thiền tông thịnh hành, tông Thiên Thai bị
kém thế.
"Lăn lóc khắp chốn tịnh uế", "thong dong
thuận theo thế tục" của thiền sư Huệ Khả, hoàn toàn không phải ai cũng
làm được. Dưới ảnh hưởng tác phong của Ngài,có thể phát sinh chút ít
lệch lạc mà trong Tục Cao Tăng Truyện, ngài Đạo Tuyên đã nghiêm khắc phê
phán:
"Hiện nay, một bọn học thiền, vọng
truyền phong giáo, đồng với bọn tục nhiễm, khinh khi luật nghi, cửa
miệng nói "tức sắc tâm minh, cho loạn là tĩnh, cố giữ hình hài cho nên
có khổ lụy. Thần dụng chìm trong từ lệnh, định tướng mục nát trên đầu
môi, bài bác Tiểu thừa, xả bỏ Đại thừa riêng dựng lập một nhà, nhiếp tế
trụ trì, đã là sai trái".
Đây cũng là ý kiến của một bộ phận nhân
sĩ thượng lưu của giới Phật giáo đương thời, các Tổ sư Thiền tông chẳng
thể không nghĩ đến vấn đề tu chính tác phong để thích hợp với yêu cầu
của giới Phật giáo. Thiền tông trải qua sự tu chính rồi xây dựng tác
phong chất phác, hoạt bát, ẩn dật sơn lâm, đã vừa phù hợp với yêu cầu
tôn giáo của tín đồ Phật giáo, cũng vừa thỏa mãn nhu yếu thích luận bàn
huyền học của hàng ngũ trí thức. Nếu nói tư tưởng Thiền tông chịu ảnh
hưởng của tư tưởng truyền thống Trung Quốc hoặc chịu sự hạn chế của
thời đại, điều này là đúng.
Chương IV
Luận Hiển Dương Thánh Giáo 7 ghi:" Vô
thượng Chánh Đẳng Bồ-đề tự lợi, lợi tha, không thầy mà tự chứng thánh
giáo." Đức Thế Tôn Thích-ca ngồi dưới cội bồ-đề chứng Vô thượng Bồ-đề
cũng xác thực là không có thầy truyền dạy. Đã không có thầy thì không
thể bắt đầu từ "tín ngưỡng". Thông thường nói "tín ngưỡng" , đó là việc
sau khi đã thành lập hình thức tôn giáo hoặc hệ thống tư tưởng. Nếu xét
đến đầu nguồn thì sẽ hỏi đến vấn đề: "Đức Thế Tôn Thích-ca vì sao chứng
ngộ Vô thượng Bồ-đề" thì "tầm tư" hoặc tham cứu sẽ trở thành công cụ
phát quật chân lý.
Cảnh Đức Truyền Đăng Lục 5 ghi: " Lục Tổ
sắp thị tịch, có sa-di Hi Thiên hỏi: "Sau khi hòa thượng trăm tuổi, Hi
Thiên không biết phải nương tựa người nào?"Tổ dạy: "Tầm tư đi!" Sau khi
Lục Tổ tịch, Hi Thiên thường ở chỗ vắng vẻ ngồi lặng yên như quên thân.
Đệ nhất tọa hỏi: "Thầy ông đã tịch, ngồi không ở đó làm gì?" Hi Thiên
đáp: " Tôi vâng theo lời thầy dạy cho nên tầm tư vậy". Đệ nhất tọa nói: "
Ông có sư huynh là hòa thượng Hành Tư, đang ở Kiết Châu, nhân duyên của
ông ở đó. Lời nói của Tổ rõ ràng, do ông tự không biết đó thôi". Hi
Thiên nghe xong từ giả Tào Khê đi thẳng đến Kiết Châu".
Lục Tổ Huệ Năng muốn thiền sư Hi Thiên "
tầm tư" để ngộ đạo, nhưng Đệ nhất tọa lại giải là đi tìm Hành Tư. Đương
nhiên là có thể giải thích như thế, quả thật Hi Thiên đi gặp Hành Tư,
nhưng sau khi gẵp gỡ hai bên đối đáp ngang ngửa với nhau, đủ thấy sự lợi
ích của " tầm tư" mà Hi Thiên đã trải qua. Chúng ta chẳng nên xem câu
nói " tầm tư" của Lục Tổ là một câu đố. Điều này có một chứng cứ được
ghi trong Cổ Tôn Túc Ngữ Lục 1:
" Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng đến tham
vấn Lục Tổ. Tổ hỏi: " Từ đâu đến?" Đáp: " Từ Tung Sơn đến". Tổ hỏi: "
Là vật gì đến đây?" Sư không đáp được. Trải qua tám năm,bỗng nhiên có
tỉnh, mới bạch Lục Tổ: " Con có một chỗ lãnh hội."
Thiền sư Hoài Nhượng suốt trong tám năm
làm những việc gì? Hội như thế nào mà bỗng nhiên có tỉnh? Nếu chẳng phải
Sư một mạch dụng công "tầm tư", thì "chỗ hội" thành ra các từ trên trời
rơi xuống. Lục Tổ tự nói mình chẳng biết chữ, Ngài từ trí vô sư ngộ
Phật pháp Tối thượng thừa ( lời của Thần Tú, xem Đàn Kinh ), chính Ngài
dùng phương pháp "tầm tư" để khai mở đệ tử.
Thành Duy Thức Luận Thuật Ký 18 ghi: "
Tầm tư có tác dụng suy tìm, suy tìm chính là quán sát". Thành Duy Thức
Luận Sớ Sao 16 giải thích: "Tầm tư là tên gọi khác của trí huệ, nó không
phải là tâm sở "tầm" trong 51 pháp tâm sở, cũng chẳng phải "tầm" của
hữu tầm, hữu tứ trong 17 địa Du-già. Luận Du-già Sư Địa 48 cũng nói: "
Giai vị chưa được ấn khảthì gọi là tầm tư; lúc khởi nhẫn ấn, được gọi là
thật trí. Đủ thấy " tầm tư" chính là công cụ khai quật chân lý hữu hiệu
nhất.
Tương truyền, lúc Nhị tổ Huệ Khả chặt
cánh tay cầu pháp an tâm, Đạt-ma chỉ hỏi lại một cách đơn giản: " Đem
tâm ra đây ta an cho". Lúc Tứ tổ Đạo Tín cầu Tam Tổ pháp giải thoát, Tam
Tổ cũng chỉ hỏi lại: "Ai trói buộc ông?" Đây là những bằng chứng về sự
ứng dụng linh hoạt phương pháp tầm tư. Lục Tổ chẳng biết chữ, văn huệ
tuy kém nhưng tư huệ đặt biệt phát triển, linh hoạt ứng dụng phương pháp
tầm tư cũng đạt đến trình độ hoàn toàn thuần thục. Đây là điểm mà các
tông phái khác của Phật giáo Trung Quốc không có. Vì thế sau khi Thiền
tông kiến lập môn đình, các phần tử ưu tú đều hướng về Thiền tông. Tôi
nhớ thời Tống có người hỏi Vương An Thạch: " Sau Mạnh Tử, Nho gia vì
sao không có người xuất sắc?" Vương An Thạch đáp: " Nho môn đạm bạc,
không kết nạp được các bậc anh hùng hào kiệt, họ đều vào trong Phật môn,
như Lục tổ Huệ Năng, Mã đạo sư đều như thế". Phật môn mà Vương An Thạch
nói đó, thật ra chính là Thiền môn. Nói "Nho môn đạm b?c" cũng có nghĩa
là cái học thiếu công cụ khai quật chân lý, chẳng thể tiến tới giải
quyết yêu cầu thiết yếu đối với thân tâm tánh mạng của mọi người.
Thiền tông ứng dụng linh hoạt phương
pháp tầm tư, có thể nói đó là " trên khế hợp với tâm Phật", vì Đức Thế
Tôn Thích-ca chính là người từ tầm tư chứng ngộ Vô thượng Bồ-đề. Thiền
sư Qui Sơn Linh Hựu gọi đó là "đơn đao trực nhập", thông thường nói "
giáo ngoại biệt truyền" hoặc "pháp môn đốn ngộ" có lẽ cũng là ý này.
Nhưng muốn ứng dụng phương pháp này hoặc thu được lợi ích từ phương pháp
này không phải là không có điều kiện. Nhìn từ quá trình phát triển của
Phật giáo Trung Quốc lúc mới truyền vào, hoạt động song song với phương
thuật thì chẳng thể có Thiền tông xuất hiện.Lại nữa, lúc ấy tu thiền còn
mang diện mạo thần bí, tư tưởng Bát-nhã cũng chưa phổ biến, dù có phổ
biến cũng chẳng thể phát triển thành Thiền tông. Khoảng thời gian 156
năm từ lúc Tổ Đạt-ma vào Trung Quốc đến Lục Tổ xuất gia thụ giới, chính
là thời đại Phật giáo Trung Quốc hưng thịnh nhất, các kinh luật trọng
yếu của các tông phái Đại thừa, Tiểu thừa Ấn Độ đều được dịch, các tông
Tam Luận, Thiên Thai, Từ Ân, Nam Sơn đã lần lượt hình thành, tư tưởng
của tông Hoa Nghiêm đang ấp ủ, tư tưởng Phật giáo chẳng những lan khắp
trong triều đình chốn dân dã mà dần dần có xu thế phiền toái. Như các
trứ tác của đệ tử ngài Huyền Trang có rất nhiều thuật ngữ chuyên môn
khiến cho người đọc nắm không được trọng tâm. Các tác phẩm chú giải kinh
điển của họ phần nhiều biểu hiện ý kiến riêng, phô trương môn đình,
không dễ gì tìm được nghĩa lý chính xác ở trong đó. Lúc ấy, tín đồ Phật
giáo rất cần một pháp môn giản yếu dễ tu để an thân lập mệnh, Thiền tông
mang đến cho họ phương pháp tư tưởng " đơn đao trực nhập", do hợp thời
nên hưng thịnh. Phẩm Cơ Duyên trong Đàn Kinh ghi lại những người đến
tham vấn Lục Tổ đều là những người đã từng khổ công tu học kinh giáo.
Sau này, các thiền tăng đến thỉnh ích các thiền sư Nam Nhạc, Thanh
Nguyên cho đến Mã Tổ, Bách Trượng cũng có nhiều vị " nghiã học sa-môn"
đã từng giảng các kinh luận. Vì thế, tham thiền cần phải có cơ sở giáo
lý hoặc chú trọng nghiên cứu về thời đạivà hoàn cảnh của giáo lý. Đây là
một trong các điều kiện tham thiền.
Lúc tầm tư hoặc tham thiền, các thiền sư
đều cho rằng " từ nghe người khác mà nhận được thì chẳng phải là của
báu nhà mình" cũng có nghĩa là chẳng cần phải dựa vào kinh điển và kiến
giải của người khác. Như vậy phải một mình thâm nhập, dũng khí phi
thường, rất đáng khâm phục, nhưng lại phát sinh tệ bệnh. Vì kích phát
dũng khí của người học nên dùng cách khuyến khích phát tâm, như thiền sư
Tuyết Phong Nghĩa Tồn thượng đường dạy:
" Đáng tiếc thay! Đáng tiếc thay! Các vị
nếu chưa tỉnh thì hãy tỉnh đi! Nếu chưa ngộ thì hãy ngộ đi! Ta không
lúc nào chẳng tha thiết khuyên các ông: Việc của chính mình nếu chưa
sáng... thì rất cần phải nỗ lực, đừng cô phụ người. Nếu biết có việc này
thì hãy gánh vác đi. Nếu thật sự chưa ngộ thì cần phải tin việc này
chẳng từ lời nói mà được, chẳng từ chỗ những vị thiền sư ở các nơi mà
được. Vậy từ đâu mà được, cần phải xét kỹ! Hiện tại nếu không liễu ngộ
thì trăm kiếp ngàn đời cũng không liễu ngộ. Muốn biết lâu dài thì chỉ
tại hôm nay. Vậy ngay hôm nay đây là cái gì? Chớ chạy bậy, hãy xem cả
một đời đã lần lữa đi qua mất rồi.... Mọi người cho ông đất đai ruộng
vườn, cúng dường ông cơm áo, nói ta là người xuất gia, biết bao người
gánh vác ông, quốc vương, đại thần gánh vác ông, đất đai long thần gánh
vác ông, ông không phụng dưỡõng cha mẹ. Ông lấy gì báo đáp? Này các tăng
sĩ! Thở ra tuy sống, song khó bảo đảm hít vào, thời giờ chóng qua, cần
phải gấp rút. Chớ có nói thiền chỉ ở đầu môi, đến ngày ba mươi tháng
chạp phải chịu khổ lụy.( Tuyết Phong Chân Giác Thiền Sư Ngữ Lục,
thượng).
Đây là điều mà trong cửa Thiền tông gọi là " tâm sanh tử thống thiết", một điều kiện của việc tham thiền.
Lại như thiền sư Qui Sơn Linh Hựu hỏi
Hương Nghiêm: " Ta nghe nói ông ở chỗ tiên sư Bách Trượng, hỏi một đáp
mười, hỏi mười đáp trăm. Đây là thông minh linh lợi của ông, ý giải thức
tưởng giải quyết không xong vấn đề sanh tử. Lúc cha mẹ chưa sanh, th?
nói một câu xem!" Hương Nghiêm bị Ngài hỏi, không biết phải đáp thế nào,
trở về liêu phòng đem hết kinh sách đã học qua, xem lại từ đầu đến cuối
nhưng vẫn không tìm được đáp án. Tự than rằng: " Bánh vẽ không no dược
bụng đói". Mấy lần thỉnh Quy Sơn nói trắng ra, Quy Sơn bảo: " Ta nói là
chuyện của ta. Nếu ta nói cho ông nghe, sau này ông sẽ mắng ta". Hương
Nghiêm vô cùng buồn khổ đem hết kinh sách đã từng xem qua đốt hết, phát
thệ: " Đời này không học Phật pháp nữa, chỉ làm ông tăng cơm cháo tầm
thường, khỏi phải bận tâm".
Hương Nghiêm từ biệt Quy Sơn, đến một
nơi vắng vẻ ở Nam Dương, tự canh tác nuôi sống, nỗ lực tham cứu. Một
hôm, nhân dẫy cỏ, nhặt miếng ngói ném nhằm cây tre, kêu một tiếng "
cốp", Ngài liền khai ngộ. Lúc đó, ngài tắm rửa, đốt hương hướng về Quy
Sơn lễ bái và nói: " Hòa thượng đại từ, ân hơn cha mẹ. Nếu lúc trước
ngài nói trắng ra cho con nghe, thì đâu có được việc khai ngộ hôm nay".
Rồi làm một bài kệ gửi đến Quy Sơn. Quy Sơn xem kệ xong nói với Ngưỡng
Sơn: " Người này triệt ngộ". Ngưỡng Sơn nói: " E rằng kệ này do tâm ý
thức trứ tác thành, chẳng phải chân tham thật ngộ, để con đích thân đến
khám phá". Ngưỡng Sơn gặp Hương Nghiêm qua hai lần thử nghiệm, chứng
minh Hương Nghiêm thực sự khai ngộ rồi, mới trở về báo tin mừng cho Quy
Sơn.
Đây là công án nổi tiếng của Thiền tông,
có 3 điểm phải chú ý: 1/ Đối với người căn cơ thuần thục nhưng chưa
khai ngộ, cần phải đề xuất vấn đề để khiến họ nghi, dẫn phát tầm tư một
cách khẩn trương. 2/ Tầm tư phải thực hiện lúc tịnh tọa lẫn lúc lao tác
3/ Khai ngộ rồi cần phải trải qua cuộc
khám nghiệm nghiêm khắc. Ba điểm này đều là điều kiện tham thiền. Có
những điều kiện này rồi, tập trung sức tầm tư trên vấn đề thì có thể đại
triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, do đó trong của Thiền tông có câu "
siêu Phật việt Tổ". Theo quan điểm tôn giáo thông thường, tín đồ tin
Phật mà muốn vượt qua Phật thì dường như nghịch lý. Nhưng vì các thiền
sư đã nắm lấy phương pháp thành Phật, cảm thấy thành Phật không phải là
chuyện thần bí không thể làm được nên có được cái tâm lượng và khí khái "
siêu Phật việt Tổ". Như Vân Môn đưa ra sự tích: " Thế Tôn vừa được sanh
ra, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, đi bảy bước, nhìn bốn phía và
nói: " Trên trời , trong người, chỉ có ta là đấng tôn quý" rồi Ngài Vân
Môn nói: " Lúc đó nếu ta thấy, ta đập một gậy cho chết rồi ném cho chó
ăn, cốt làm cho thiên hạ thái bình". Lại như Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn: "
Kinh Niết-bàn 40 quyển , bao nhiêu là Phật nói, bao nhiêu là ma nói?
Ngưỡng Sơn đáp: " Đều là ma nói". Quy Sơn nói: " Sau này không có người
nào làm gì được ông". Ý của lời nói Vân Môn, Ngưỡng Sơn như thế nào, ở
đây không bàn, mà chỉ biết là khí khái mà sức lôi cuốn của các Ngài hết
sức đáng quí. Tôi cảm thấy ngàn kinh muôn luận, tam tạng mười hai bộ
loại thánh giáo đến dưới cửa Thiền tông đều trở thành vật hữu dụng sống
động. Đây là nguyên nhân cơ bản khiến Thiền tông chiếm một địa vị trọng
yếu trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc.
Chương V
Không thầy mà có thể chứng ngộ cũng là
nói đến chân như được chứng đắc giống như trân bảo bị chôn vùi dưới đất,
chỉ cần ra sức khai quật , thì người nào cũng cóthể chứng đắc. Chúng ta
bình thường sở dĩ không rõ chân như, chủ yếu là do trên nhận thức, tư
tưởng của chúng ta có quan hệ đến chấp trước. Nếu dẹp bỏ chấp trước trên
nhận thức, tư tưởng thì chân như hoàn toàn hiển lộ. Cái gọi là phiền
não, Bồ-đề, sanh tử Niết-bàn thật ra đều là nói theo chấp trước, chứ
trên mặt chân như vốn không có những sự phân biệt ấy. Kệ của Lục Tổ nói:
" Bồ-đề vốn không cây, gương sáng chẳng phải đài, xưa nay không một
vật, chỗ nào dính bụi nhơ" chính là nói đến cái đạo lý này. Phẩm Bát Nhã
trong Đàn Kinh, Lục Tổ dạy:
"Phải biết đối với kẻ ngu, người trí,
Phật tánh không có sai khác, chỉ do mê ngộ bất đồng, vì thế có ngu , có
trí.........Phàm phu tức là Phật, phiền não tức là Bồ-đề. Niệm trước mê
tức là phàm phu, niệm sau ngộ tức là Phật. Niệm trước chấp cảnh tức là
phiền não, niệm sau lìa cảnh tức là bồ-đề.........Ngộ pháp này tức là vô
niệm, vô ức, vô trước, chẳng sanh hư dối. Dụng tự tánh chân như, dùng
trí huệ quán chiếu, không thủ, không xả tất cả pháp tức là kiến tánh
thành Phật đạo...........Thế nào là vô niệm? Nếu thấy tất cả pháp mà tâm
không nhiễm trước, đó là vô niệm. Dùng thì khắp tất cả chỗ nhưng cũng
không chấp tất cả chỗ. Chỉ cần tịnh bản tâm khiến sáu thức ra sáu cửa
đối với sáu trần không nhiễm không tạp, qua lại tự do, dùng thông suốt
vô ngại tức là Bát-nhã, tam-muội tự tại giải thoát, được gọi là hạnh vô
niệm. Nếu không nghĩ đến trăm vật, khiến cho niệm tuyệt, tức là pháp
phược, tức là biên kiến. Thiện tri thức! Người ngộ pháp vô niệm là người
thông suốt hết muôn pháp. Người ngộ pháp vô niệm là người thấy cảnh
giới chư Phật. Người ngộ pháp vô niệm là ngưòi đến giai vị Phật."
Đoạn kinh này không có chút gì sai biệt
với giáo lí kinh Lăng –già, kinh Đại Bát-nhã, luận Đại Trí Độ và hết sức
nhất trí với kiến giải của các ngài Đạt-ma, Huệ Khả, nhưng nhấn mạnh
vào " chẳng thủ chẳng xả", " thông hết muôn pháp " , phản đối biên kiến "
trăm vật không nghĩ ". Lục Tổ đem giáo lí Bát-nhã dung quán vào sinh
hoạt thực tiễn bình thường đầy tinh thần tiến thủ. Nhìn từ tinh thần
này, tất cả sự vật tuy biến ảo vô thường nhưng chân như pháp tánh uyển
chuyển gần gũi với con người, dở chân hạ chân đều là đạo tràng, thật là
cùng tột đến chỗ "hiện thành". Chỉ vì cái "hiện thành" ấy nên mới có khả
năng đốn ngộ. Lại chỉ vì cái" hiện thành" ấy nên Lục tổ có một quan
điểm riêng về các pháp môn mà hàng tín đồ Phật giáo bình thường chú
trọng, như Ngài luận về công đức cất chùa độ tăng, bố thí trai tăng của
Lương Võ Đế:
" Thật không có công đức, chớ nghi lời
Sơ tổ nói. Võ Đế tâm tà, chẳng biết chánh pháp, cất chùa độ tăng, bố thí
trai tăng , gọi đó là cầu phước, không thể cho đó là công đức. Công đức
ở trong pháp thân, chẳng ở tại tu phườc."
Ngài luận về việc cầu sanh Tây phương:
" Kẻ mê niệm Phật cầu sanh Tây phương,
người ngộ tự tịnh tâm mình.......Người ở Đông phương niệm Phật cầu sanh
Tây phương, người ở Tây phương tạo tội niệm Phật cầu sanh về nước nào?
Kẻ phàm phu ngu tối chẳng rõ tự tánh, chẳng biết tịnh độ ở trong thân,
ngó đông ngó tây, người ngộ chỉ ở tại chỗ. Vì thế Phật dạy:Tùy theo chỗ ở
mà thường an lạc.
Ngài còn luận về việc tu hành của người tại gia và xuất gia:
" Nếu muốn tu hành tại gia cũng được,
chẳng cần ở chùa.........Vi công hỏi: Người tại gia tu hành như thế nào?
Sư dạy: Ta nói tụng Vô tướng cho mọi người nghe, y theo đây tu hành,
không khác chi luôn luôn ở bên cạnh ta. Nếu không y theo đây tu hành thì
dù cạo tóc xuất gia đối với đạo cũng vẫn vô ích.
Tâm bình đâu nhọc trì giới
Hạnh trực đâu cần tu thiền
Ân thì hiếu dưỡng cha mẹ
Nghĩa thì trên dưới thương nhau
Nhường thì lớn nhỏ hòa thuận
Nhẫn thì việc xấu không sanh
Nếu siêng cọ cây phát lửa
Bùn lầy ắt sanh hoa sen........
Những lời này thoát khỏi lối mòn, vượt
lên trên kiến giải tầm thường. Trước kia có người cho đó là biểu hiện
của ảnh hưởng tư tưởng truyền thống Trung Quốc, nhưng thật ra không phải
như vậy. Do vì lúc ấy tư tưởng Bát-nhã phát huy đến cao độ, sự lí dung
nhiếp, chân tục viên dung , chẳng câu nệ hình thức, đồng thời cũng chiếu
cố đến nhiều điều kiện hiện thực thế gian nên pháp ngữ của Lục Tổ đại
biểu cho trí huệ của Phật giáo ,chứ hoàn toàn không phải bắt nguồn từ tư
tưởng truyền thống Trung Quốc.
Sau Lục Tổ, kiến giải của trí huệ này
được tiếp tục phát triển, như thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất nói:" Tự tánh xưa
nay đầy đủ, chỉ cần chẳng trệ ngại trong các việc thiện ác thì được gọi
là đạo nhân. Còn nếu giữ thiện bỏ ác, quán không nhập định, đều thuộc về
tạo tác." Ngài còn dạy: " Đạo chẳng cần tu, chỉ cần đừng ô nhiễm. Thế
nào là ô nhiễm? Hễ có tâm sanh tử , tạo tác, hướng đến, đều là ô nhiễm.
Nếu muốn ngộ ngay đạo thì tâm bình thường là đạo." Thiền sư Hoàng Bá Hy
Vận nói:" Nói, nín, động , tĩnh, tất cả thanh sắc đều là Phật sự. Vậy
thì tìm Phật ở chỗ nào? Chẳng nên trên đầu chồng thêm đầu, trên miệng
chồng thêm miệng." Kiến giải của các thiền sư không đồng với kiến giải
của các tông phái khác, vì thế Tổ Bách Trượng mới sáng lập thanh qui
Thiền môn.
Cảnh Đức Truyền Đăng Lục 6 ghi:
"Thiền sư Bách Trượng Đại Trí cho rằng
bắt đầu từ Thiếu Thất qua Tào Khê cho đến nay, các thiền tăng phần nhiều
ở chùa Luật, tuy ở viện riêng nhưng đối với việc thuyết pháp trụ trì
chưa hợp với qui củ, cho nên ngài thường trăn trở trong lòng. Ngài
nói:"Đạo Tổ muốn truyền bá lâu dài đến đời vị lai không dứt thì đâu thể
nào mãi đi theo các bộ A-cấp-ma ư!" Hoặc có người hỏi:" Luận Du-già,
kinh Anh Lạc là giới luật Đại thừa, sao chẳng dựa theo đó?" Ngài
đáp:"Chỗ tôi đề cao chẳng phải hạn cuộc nơi Đại, Tiểu thừa, cũng chẳng
khác Đại, Tiểu thừa mà là chiết trung để thiết lập qui chế cho thích
nghi." Đây là chủ ý của của việc sáng lập thiền viện."
Đoạn văn trên nói rất rõ về dụng ý của
thiền sư Bách Trượng sáng lập thiền viện. Trong thanh qui của ngài có
rất nhiều qui định như quải đơn, quá đường, nhập thất, thỉnh ích, thượng
đường, thăng đường... cho đến bây giờ cũng còn dùng theo. Mục đích
thiết lập thanh qui là đem lại sự thuận lợi cho người tham thiền. Trong
đó có một hạng mục vô cùng đặc biệt, đó là "không dựng điện Phật, chỉ
xây pháp đường", biểu thị những lời Phật ,Tổ dặn dò truyền trao đời sau
phải tôn trọng. Xưa nay tự viện Phật giáo bất luận tại Ấn Độ hay Trung
Quốc đều chú trọng đến điện Phật và tạo tượng, nhưng ở trong tự viện
Thiền tông đã không có điện Phật, chẳng thể chẳng nói đó là đã bạo gan
đả phá hình thức tôn giáo. Tư tưởng Thiền tông phát triển đến thời đại
Bách Trượng, ngài dùng qui củ Thiền môn làm chuẩn mực. Về sau, ngũ gia
thất tông, ngoại trừ có sự sai khác chút ít về cơ dụng rèn luyện người
học ra, nói chung thì không có gì cải biến.
Chương VI
Có người hỏi ngài Bách Trượng: "Chặt cây
giẫy cỏ, khẩn đất đào mương có tội hay không?" Sư đáp: " Không được nói
chắc chắn là có tội, cũng không được nói chắc chắn là không tội. Việc
có tội hay không là do người: Nếu người ấy nhiễm tất cả các pháp hữu,
vô, còn có tâm thủ xả, chẳng thấu qua ba câu thì người này nhất định có
tội. Nếu thấu ra ngoài ba câu, tâm như hư không, cũng chẳng nghĩ tưởng
hư không thì người này chắc chắn vô tội.... Như trong luật ghi do mê mà
giết người hoặc chuyển tướng sát còn chẳng bị tội sát sanh, hà huống
người trong cửa Thiền tông trao nhau kế thừa tâm như hư không, chẳng trụ
ở một vật, cũng không nghĩ tưởng hư không thì đem tội đặt ở chỗ nào?"
Lời nói này xét trên mặt lý luận, dường
như đụng chạm đến giới Tỳ-kheo, nhưng lại thông v?i giới Bồ-tát Du-già,
vì thế trong quy củ của Thiền môn có pháp phổ thỉnh. Phổ thỉnh nghĩa là
người trên kẻ dưới đều cùng lao động. Trong truyện Bách Trượng có ghi:
" Mọi việc chấp tác nhọc nhằn, Sư đều
làm trước đại chúng. Đại chúng bất nhẫn, một hôm giấu đi tác cụ, xin
ngài nghỉ ngơi. Sư dạy: " Tôi không có đức, đâu nên làm nhọc mọi người".
Sư tìm khắp nơi không thấy tác cụ, hôm đó Sư không ăn, cho nên có câu:
"Một ngày không làm, một ngày không ăn, truyền đi khắp nơi".
Bách Trượng sáng lập pháp phổ thỉnh, lấy
bản thân làm gương mẫu, đối với việc duy trì kinh tế tự viện, đặc biệt
sau pháp nạn Hội Xương đời Đường Võ Tông có tác dụng vô cùng trọng yếu.
Tổ sư Thiền tông dường như không có vị
nào không tham gia lao động, như Hoàng Bá khai điền, trồng rau; Quy Sơn
hái trà, làm tương, trét vách; Thạch Sương sàng gạo; Vân Nham bện giày;
Lâm Tế trồng tùng, cuốc đất. Ngưỡng Sơn chăn trâu, khai hoang; Động Sơn
cuốc đất, trồng trà; Tuyết Phong đẽo máng, nấu cơm, bón ruộng, bổ củi,
đều thấy ghi trong bản truyện hoặc ngữ lục. Đồng thời các Ngài kết hợp
lao động và tu trì thành một khối, đem đạo lý đã ngộ được quán triệt
trong lao tác, như Bá Trượng Thiền Sư Ngữ Lục ghi:
" Nhân một hôm phổ thỉnh cuốc đất, có vị
tăng nghe tiếng trống, giơ cuốc lên, cười to,quay về. Sư nói: " Giỏi
thay! Đây là môn quán âm nhập lý". Sau đó, Sư gọi vị tăng ấy đến, hỏi: "
Hôm nay ông thấy đạo lý gì?" Vị tăng đáp: " Sáng sớm con chưa ăn cháo,
nghe tiếng trống quay về ăn cơm". Sư cười to ha hả.
Quy Sơn Linh Hựu Thiền Sư Ngữ Lục ghi:
" Thạch Sương ở Quy Sơn làm mễ đầu, một
hôm đang sàng gạo. Sư ( Quy Sơn) nói: " Vật của tín thí, chớ làm rơi
vãi". Thạch Sương thưa: " Chẳng làm rơi vãi". Sư nhặt được một hạt rơi
trên đất, nói: " Ông nói không rơi vãi, vậy đây là cái gì?" Thạch Sương
không đáp. Sư nói: " Chớ khinh một hạt này, trăm ngàn hạt từ một hạt này
sanh". Thạch Sương thưa: " Trăm ngàn hạt từ một hạt này sanh, vậy chưa
biết một hạt này từ cái gì sanh?" Sư cười to ha hả, quay về phương
trượng".
Những công án loại này được ghi trong
ngữ lục nhiều không kể xiết. Qua các công án này , chúng ta thấy các
thiền sư lấy lao động làm nguồn cảm hứng sáng tác các phẩm nghệ thuật
với tất cả tinh thần rồi cùng nhau thưởng thức không chút miễn cưỡng
hoặc khó khăn. Đó là do các ngài đã thực chứng nguyên tắc tối cao của
Bát-nhã hoặc Viên giáo nên biểu hiện được cụ thể giáo lí ấy trong sinh
hoạt thực tiễn. Nhìn từ điểm này chúng ta có thể biết không phải ngẫu
nhiên mà Thiền tông từ khi được thành lập về sau dần dần lấn át các tông
phái khác của Phật giáo Trung Quốc.
Nhưng vì chịu sự hạn chế của thời đại
nên hành động của thiền sư quán triệt chân tục viên dung cũng chỉ phát
triển đến mức độ này thôi. Đồng thời tham thiền chẳng thể chẳng cầu tịnh
và quá cường điệu " giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn t?", vì thế
thời kì mới thành lập, Thiền tông còn mang sắc thái Thanh văn, Độc giác,
truyền đến mười mấy đời thì hoàn toàn quên mất di huấn "Lăng-già ấn
tâm" nên chẳng chú trọng nghiên cứu giáo lí; phổ thỉnh chỉ là lời còn
ghi trong ngữ lục nên truyền thống tốt đẹp yêu lao động chẳng được phát
huy, ý chí của thiền tăng xuống thấp, càng về sau càng đi vào con đường
tiêu cực lánh đời, do đó khiến cho tông môn suy sụp. Nếu điều này có thể
được gọi là điều giáo huấn của lịch sử thì Phật giáo đồ chúng ta phải
nên ghi nhớ.
Định Huệ dịch