QUÁN SỔ
TỨC
(trong Ngũ đình tâm quán)
DÀN BÀI
A. MỞ ĐỀ:
Muốn thực hành các phép quán, trước tiên ta phải hiểu quán là gì, quán như thế
nào và lợi ích ra sao.
Để giải đáp câu hỏi đó, chúng tôi sẽ tuần tự giải thích sau: Trước tiên, hãy
nói về Quán sổ tức
B. CHÁNH ĐỀ:
I. Định nghĩa Quán Sổ tức
II. Vì sao phải đình chỉ tâm tán loạn?
III. Những điều cần biết trước khi tu Sổ tức
1/ Thức ăn
2/ Đồ mặc
3/ Chỗ ở
4/ Thì giờ tu
5/ Tắm rửa
6/ Cách ngồi
7/ Lưng
8/ Hai tay
9/ Cổ
IV. Phương pháp tu Sổ tức
1/ Phải thở mười hơi mạnh
2/ Đếm hơi lẻ
3/ Đếm hơi chẵn
4/ Đếm thuận
5/ Đếm nghịch
V. Ba điều lầm lộn cần tránh trong khi đếm hơi thở
C. KẾT LUẬN:
Lợi ích của pháp Sổ tức
Khuyến tu
BÀI THỨ NHỨT
QUÁN SỔ TỨC
A. MỞ ĐỀ:
Bất luận trong công việc gì, sự định tĩnh của tâm trí là một yếu tố chính
yếu để thành công. Nhất là công việc tu hành sự định tĩnh tâm thần lại càng
quan trọng hơn nữa. Người tu hành mà tâm trí luôn luôn tán loạn học trước quên
sau, học sau quên trước, tư tưởng thiếu tập trung, thì dù có khổ công tu tập,
cũng khó được kết quả khả quan, vì thế trong phần nhiều các tôn giáo, người ta
thường có những phút "lắng lòng", tập trung tư tưởng vào bên trong để
khám phá nội tâm và soi sáng lẽ đạo. Riêng về Đạo Phật thì có những phép quán
và thiền định. Về thiền định, chúng ta sẽ tìm hiểu trong các bài nói về Lục độ
ở phần sau tập sách này. Trong bài này và bốn bài nối tiếp sau đây chúng tôi sẽ
đề cập đến phép quán.
Phép quán đầu tiên mà chúng tôi muốn nói đến là Sổ tức quán. Sở dĩ chúng
tôi để bài quán Sổ tức này đứng đầu trong năm phép quán là, muốn đi sâu vào các
phép quán, trước tiên, phải biết quán là gì, quán như thế nào, và phải có một
tâm trí định tình không tán loạn. Muốn được thế, trước tiên phải tập quán Sổ
tức. Khi quán Sổ tức đã thuần phục rồi, thì các thứ quán sau mới dễ có kết quả,
nghĩa là mới có thể trừ diệt dần các tâm bệnh: tham, sân, si mạn.
B. CHÁNH ĐỀ:
I. ĐỊNH NGHĨA
Quán Sổ tức là đếm hơi thở. Quán là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích
hay suy nghiệm đến một vấn đề. Sổ tức quán là tập trung tâm trí để đếm hơi thở
ra vào của mình, mà mục đích là để đình chỉ tâm tán loạn.
II. VÌ SAO PHẢI ĐÌNH CHỈ TÂM TÁN LOẠN?
Tâm trí chúng ta bị muôn việc ở đời chi phối, khi vui khi buồn, khi lo
việc này khi suy nghĩ chuyện khác, khi mừng khi giận, khi thương khi ghét,
không bao giờ được định tĩnh. Dù cho ta có ngồi yên một chỗ, khoanh tay lại,
tâm trí chúng ta cũng không dừng nghỉ, mà vẫn sống với đời sống lăng xăng rộn
ràng của nó. Bao nhiêu hình ảnh phức tạp như một cuốn phim hiện lên trên màn
ảnh của trí óc; và mỗi hình ảnh như thế lại mang theo nó một cảm tưởng vui buồn
thương ghét, cho nên khi ta ngồi yên, chỉ là để cho thân xác được yên nghỉ, chứ
còn tinh thần thì vẫn hoạt động, có nhiều khi lại hoạt động nhiều hơn cả lúc làm
việc. Hầu hết chúng ta đều khổ tâm, bực tức về sự hoạt động lỗi thời ấy của tâm
trí chúng ta: Không muốn nhớ nữa mà vẫn cứ nhớ, không muốn thương nữa mà vẫn cứ
thương, không muốn giận mà vẫn cứ giận. Làm chủ thể xác đã là khó, mà làm chủ
tinh thần lại càng khó hơn. Nhất là trong thế giới máy móc, phức tạp ngày nay,
một thế giới đầy màu sắc rộn ràng, âm thanh chát chúa, hình ảnh kỳ dị một thế
giới cuồng loạn trong ấy, trí óc không mạnh mẽ vững vàng thì rất dễ bị rối
loạn. Vì thế, theo các bản thống kê của các nhà bác học, số người mắc bệnh điên
mỗi ngày mỗi nhiều trong thế giới ngàynay.
Riêng trong phạm vi nhỏ hẹp, chúng ta cũng nhận thấy có nhiều người học
hành chẳng nhớ, gặp việc hay quên, niệm Phật không thành công, tham thiền quán
tưởng chẳng kết quả, đều do sự tán loạn của tâm trí mà ra.
Vậy, muốn học hành mau nhớ, gặp việc không quên, niệm Phật được nhất tâm bất
loạn, tham thiền quán tưởng được thành tựu, điều cốt yếu là phải làm sao cho
tâm trí được yên định.
Vì sao tâm trí được yên định, thì dễ đạt được những kết quả như trên? Ta
hãy lấy một thí dụ thông thường mà nhiều người đã kinh nghiệm: Khi ta học một
bài thuộc lòng hay làm một bài toán vào lúc hoàng hôn hay giữa cảnh náo nhiệt,
thì ta thấy vất vả khó khăn vô cùng, vì suốt ngày tâm ta đã mệt mỏi tính toán
lăng xăng, phân tán theo trần cảnh. Trái lại, cũng một bài học đó, hay bài toán
đó, mà trong buổi khuya thanh vắng, một mình một bóng với ngọn đèn, thì ta lại
học bài rất mau thuộc, làm bài rất mau xong, tâm tánh ta hình như thông minh
sáng suốt phi thường. Vì sao vậy? Vì buổi khuya mới thức dậy, tâm trí ta
yên tịnh, chưa bị trần cảnh chi phối.
Ta có thể làm một thí dụ thứ hai nữa để vấn đề càng thêm sáng tỏ: Một cây đèn
dầu, mặc dù rất lớn ngọn, nhưng khi thắp lên bị gió từ phía đàn áp phải lung
lay, leo lét khi mờ khi tỏ, có nhiều khi gần muốn tắt. Một ngọn đèn như thế chỉ
làm hao dầu rất nhiều, chứ không thể soi sáng được gì hết. Nhưng khi chúng ta
lấy ống khói chụp lại, gió không đánh bạt được nữa, ngọn đèn đứng thẳng và tỏa
ánh sáng khắp gần xa, chiếu phá được một vùng bóng tối trong đêm trường.
Cũng như ngọn đèn bị gió bạt kia, tâm hành giả bị bát phong xuy động, thất tình
lục dục chi phối, lục trần bủa vây làm cho tán loạn, không soi sáng được gì cả.
Vậy hành giả, muốn cho tâm được minh mẫn thì phải đừng cho nó tán loạn, nghĩa
là phải định tâm, định càng thâm thì tâm càng tỏ, như ngọn đèn càng đứng lặng,
thì ánh sáng càng tỏa. Phật dạy: "Tâm có định mới phát sinh trí huệ, có
trí huệ mới phá trừ được vô minh để minh tâm kiến tánh". Sở dĩ, các vị
Thánh hiền được biết việc quá khứ vị lai và có nhiều điều thần diệu, đều do tâm
đã định mà phát minh trí huệ sáng suốt, nên mới được như thế. Nên kinh chép:
"Chế tâm nhất xứ, vô sự bất biến", nghĩa là ngăn vọng tâm lại được
một chỗ, thì không việc gì chẳng thành tựu. Hành giả muốn cho tâm mình hết tán
loạn, được yên định, thì phải tu phép quán Sổ tức, một phép quán rất dễ thật
hành và rất kiến hiệu, ai cũng có thể làm được.
III. NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT TRƯỚC KHI QUÁN SỔ TỨC
Trước khi quán Sổ tức cần phải theo đúng những điều sau đây:
1. Thức ăn. Phải ăn những thức ăn hợp với cơ thể của mình. Nếu ăn đồ nóng
nẩy quá, thì than thể sẽ bị bức rức, tâm sanh loạn động. Trái lại, nếu ăn những
vật sanh lãnh, không tiêu hóa được, thì thân thể sẽ nặng nề, lừ đừ dễ sanh buồn
ngủ.
2. Đồ mặc. Phải ăn mặc cho hợp thời tiết. Khi trời nực, mặc đồ mỏng, khi
trời lạnh, mặc đồ ấm. Nếu trái lại thân thể mất sự điều hòa, quán lâu có hiệu
quả.
3. Chỗ ở. Phải ở chỗ thanh vắng, thì sự tu quán mới mau được thành
công. Nếu ở chỗ ồn ào, đối với người mới tu, không khỏi bị loạn động.
4. Thời giờ tu. Nên lựa những giờ thanh vắng, như 10 giờ đêm, hay 4 giờ
khuya. Nếu ở thành thị thì lựa giờ nào gia đình ngủ hết, chung quanh bớt tiếng
động.
5. Tắm rửa. Thân thể phải thường tắm rửa sạch sẽ, để khỏi ngứa ngáy
bức rức trong người.
6. Cách thức ngồi. Phải ngồi kiết gìa (hai chân tréo xếp lại gọn,
thúc vào bắp vế cho sát), hoặc ngồi bán già (chân mặt tréo lên chân trái hay
chân trái tréo lên chân mặt, thúc sát vào vế cho gọn gàng). Cách ngồi nầy đầu
tiên chưa quen, không sao khỏi bị tê chân (chỉ tê chân khi đang ngồi thôi); qua
thời gian hết tê rồi thì đau mỏi cả hai chân. Khi hết đau mỏi, về sau ngồi bao
lâu cũng được.
7. Lưng. Lưng phải ngồi thẳng như vách tường, để cho các khớp xương
sống ăn chịu đều nhau, như thế ngồi mới lâu được. Hành giả nên xem tấm vách
tường kia, nhờ nó đứng thẳng, các viên gạch ăn chịu đồng đều, nên mới đứng lâu
được , nếu hơi nghiêng, cố nhiên nó phải ngã.
8. Hai tay. Hai cánh tay vòng xuôi xuống, hai Bàn tay để trên hai chân,
tay mặt gác lên tay trái, cách thức như Phật ngồi (xem hình đức Trung Tôn ngồi
trong mỗi chùa).
9. Cổ và đầu. Cổ phải thẳng, đầu hơi ngã tới, hai mắt chỉ mở một phần tư
(nếu mở mắt lớn thì tâm dễ bị loạn động, còn nhắm lại thì sanh hôn trầm).
IV. PHƯƠNG PHÁP SỔ TỨC
Khi đã ngồi yên ổn và đúng với như cách thức đã nói trên, hành giả bắt đầu đếm
hơi thở. Trước khi đếm, phải thở ra hít vào chín mười hơi thật dài, để cho hơi
thở điều hòa và những trược khí, uất kiết, nặng nề trong người đều tuông ra cả,
và thay thế vào bằng những thanh khí mát mẻ, trong sạch của thiên nhiên.
Khi thở ra, hành giả phải tưởng: "những điều phiền não: tham, sân, si, các
chất bẩn trược trong người đều bị hơi thở tống ra sạch hết, không còn một mảy
may nào". Khi hít vào, hành giả nên tưởng: "Những chất nhẹ nhàng
trong sạch sáng suốt của vũ trụ đều theo hời thở thấm vào bủa khắp thân tâm".
Khi đủ mười hơi rồi, hành giả bắt đầu thở đều đều, không dài không
ngắn, không mau không chậm, phải thở nhẹ nhàng như hơi rùa thở. Nếu thở mau và
dài thì tâm sanh loạn động, còn thở chậm và ngắn, thì tâm sanh hôn trầm, hoặc
bị uất kiết, có khi lại sanh ra giải đãi, rồi tâm dong ruổi duyên theo ngoại
cảnh. Nên phải thở cho nhẹ nhàng và đều đặn, không mau không chậm, thì trong
người mới được thư thới khỏe khoắn.
Từ đây mới bắt đầu đếm hơi thở. Phương pháp đếm hơi thở có bốn cách như sau:
1. Đếm hơi lẻ. Nghĩa là thở hơi ra đếm một, thở hơi vô đếm hai, thở hơi
ra đếm ba, thở hơi vô đếm bốn, đếm cho đến mười, không thêm không bớt, rồi bắt
đầu đếm từ một cho đến mười lại. Cứ đếm đi đếm lại từ một đến mười, trong
khoảng nửa giờ, một giờ hay hai giờ tùy ý.
2. Đếm hơi chẵn. Nghĩa là thở vào rồi thở ra đếm một, thở vào rồi
thở ra lần nữa đếm hai, cứ tuần tự như thế cho đến mười. Khi đếm đến mười rồi,
lại bắt đầu đếm một cho đến mười lại, mãi như thế cho đến khi nghỉ.
Phương pháp đếm hơi chẳn này rất thông dụng, xưa nay người ta thường dùng, và
đếm hơi thở ra dễ hơn, khỏi bịnh tồn khí (chứa hơi lại trong phổi).
3. Đếm thuận. Nghĩa là đếm theo hai cách trên, cách nào cũng được , những
tuần tự từ một đến mười.
4. Đếm nghịch. Nghĩa là cũng dùng hai cách đếm trên, nhưng đếm ngược từ
mười đến một.
Bốn phương pháp này, tùy ý hành giả muốn dùng một phương pháp hay cả bốn phương
pháp thay đổi cho nhau cũng được. Miễn sao thuận tiện cho mình và khỏi lộn, là
thành công; nghĩa là đối trị được tâm tán loạn.
V. NHỮNG ĐIỀU LẦM LỘN THƯỜNG XẢY RA TRONG KHI ĐẾM HƠI THỞ
Những điều lầm lộn mà hành giả thường mắc phải trong khi mới bắt đầu tu phép Sổ
tức là:
1. Tăng. Nghĩa là thở ít mà đếm nhiều, đếm nhảy vọt, như mới ba liền đếm
đến năm, hoặc mới năm liền nhảy lên đếm tám v.v..
2. Giảm. Nghĩa là thở nhiều mà đếm ít, đếm thụt lùi, như đếm bốn rồi lại
đếm ba, hay bảy rồi lại đếm sáu v.v..
3. Vô ký. Nghĩa là không nhớ rõ mình đã đếm đến số mấy rồi.
Mỗi khi lầm lộn như thế, phải bắt đầu đếm lại. Phải tập cho đến khi nào không
còn mắc phải những lầm lộn nói trên, thì tâm trí mới được yên tịnh.
C. KẾT LUẬN:
Quán Sổ tức là một phương pháp đối trị tâm tán loạn rất hiệu nghiệm và rất
thông dụng trong các môn phái của Phật giáo, từ Tiểu Thừa cho đến Đại Thừa, từ
các nước Á Châu đến Tây phương. Nhất là trong các giới Phật tử Nhật bản và Âu
châu, pháp quán này rất được thịnh hành. Người tu hành áp dụng pháp quán này
thì tâm hết tán loạn niệm Phật mau được "nhất tâm bất loạn" tham
thiền quán tưởng mau được thành công.
Không những kẻ tu hành, người thế gian cũng nên theo pháp quán này, thì thân
thể sẽ được khỏe mạnh, tinh thần sẽ được yên tịnh thư thới, trí tuệ lại sáng
suốt, học hành mau nhớ, suy tính, phán đoán công việc làm ăn được mau lẹ và
phân minh.
Nhưng trong mọi công việc gì cũng vậy, muốn thành công, tất phải kiên nhẫn bền
chí. Phương pháp dù hay đẹp bao nhiêu mà thiếu chuyên tâm trì chí, thì cũng
không đưa đến kết quả khả quan nào cả. Chúng ta hãy xem người lái đò chèo ngược
nước kia, nếu chèo được năm bảy mái chèo lại buông tay ngồi nghỉ, thì không
những chẳng đi tới được bến bờ đã định, mà còn thụt lùi còn rất xa nữa. Cổ nhân
cũng dạy: "Giả sử có một thứ giống gì dễ trồng, mà một ngày nắng, mười
ngày lạnh, thì giống đó cũng khó sinh". Vậy hành giả đừng nên thấy phép quán
này dễ mà khinh lờn, giãi đãi, tu một ngày nghỉ mười ngày, làm như thế
tất nhiên không bao giờ được thành công.
Ngoài sự chuyên cần, hành giả còn phải theo đúng lời chỉ dẫn trên này, áp dụng
đúng phương pháp thì mới được kết quả mỹ mãn.
Là Phật tử , phải thực hành pháp môn Sổ tức này để cho tâm trí hết
tán loạn, trí huệ dễ phát sinh, vô minh chấm dứt và trở lại với bản tâm
thanh tịnh của mình.
Nói một cách thiết thực hơn nữa, nếu muốn tu các pháp quán trong "Ngũ đình
tâm quán", mà chúng tôi sẽ đề cập đến trong những bài sau, trước tiên phải
tập quán cho thuần thục phép Sổ tức này. Nếu quán này chưa thành công, nghĩa là
tâm đang còn tán loạn, mà đã vội quán những pháp khác, như "Bất tịnh quán,
Từ bi quán" v.v... thì chẳng khác chi xây lầu trên cát, thế nào cũng sẽ bị
sụp đổ.