QUÁN TỪ BI
DÀN BÀI
A.
MỞ ĐỀ:
Muốn diệt trừ lòng sân, phải tu pháp quán Từ bi.
B. CHÁNH ĐỀ:
I. Định nghĩa quán Từ bi
II. So ánh Từ bi với Bác ái
III. Từ bi cứu khổ cho vui bằng cách nào?
IV. Phương pháp quán Từ bi
1. Chúng sanh duyên từ
2. Pháp duyên từ
3. Vô duyên từ
V. Lợi ích của pháp quán Từ bi
C. KẾT LUẬN:
Quán từ bi là nấc thanh đưa phàm phu lên quả Thánh.
A. MỞ ĐỀ:
Trong các nguyên nhân gây ra đau khổ cho mình và cho người, tánh nóng giận là
một nguyên nhân lớn, chẳng kém gì lòng tham lam và tánh ngu si. Từ vô thỉ đến
nay sự xây dựng của loài người lớn lao vô kể; những sự phá hoại vì lòng giận dữ
của họ, cũng lớn lao vô cùng. Loài người xây rồi phá, phá rồi xây không ngừng,
chẳng khác gì những đứa trẻ xây nhà trên cát, xây xong rồi đạp đi, để rồi xây
lại. Và nguyên nhân của sự phá hoại ấy là lòng nóng giận. Có những sự nóng giận
nho nhỏ trong nhà giữa vợ chồng làm đổ vỡ chén bát; có những sự nóng giận giữa
anh em làm u đầu sưng trán; có những sự nòng giận giữa bạn bè làm đoạn tuyệt
đường đi lối về; có những sự nóng giận giữa tình địch, hay đồng nghiệp kinh
doanh cần phải thanh toán bằng lưỡi dao, mũi súng hay lọ át xít; có những sự
nóng giận lớn lao hơn, giữa nước này với nước khác, màu da này với màu da nọ,
chủ nghĩa này với chủ nghĩa kia, mà kết liễu là những thấy ma nằm ngổn ngang
trên bãi chiến trường, những kẻ tật nguyền trong các bệnh viện, và những chiếc
khăn tang trên đầu các cô nhi quả phụ...
Tất cả những tai họa trên đều do sân hận mà ra. Sân hận nằm sẵn trong lòng mỗi
người, như những ngọn lửa âm ỉ cháy, như những ngòi thuốc súng sẵn sàng bùng nổ
bất luận lúc nào. Lửa gặp lửa, thuốc súng gặp thuốc súng, không nói, chẳng ai
cũng biết tai hại do chúng gây ra lớn lao như thế nào!
B. CHÁNH ĐỀ:
I. ĐỊNH NGHĨA
Thông thường, người ta có quan niệm sai lầm rằng: Từ bi là bi lụy, mềm yếu,
than khóc, tiêu cực... Người ta tưởng rằng hễ đã từ bi, thì ai muốn làm thế nào
mình cũng chịu, sống trong hoàn cảnh thế nào mình cũng theo, thiếu tinh thần
tiến thủ... Tóm lại, từ bi theo nghĩa thông thường là than khóc và nhu nhược.
Những thật ra, từ bi theo Đạo Phật có nghĩa khác xa. Phật dạy: "Từ năng dữ
nhứt thiết chúng sinh chi lạc; Bi năng bạt nhứt thiết chúng sinh chi khổ".
Nghĩa là Từ là cho vui tất cả chúng sinh; Bi là diệt trừ cái khổ cho tất cả mọi
loài. Diệt khổ và cho vui đó là tất cả nguyện vọng và hành động lợi tha, cứu
đời của người có lòng từ bi. Thế nên, từ bi không phải là thụ động, là trốn đời
hay nhu nhược. Cái khổ và cái vui nói ở đây không chỉ là khổ và vui vật chất mà
còn cả khổ và vui tinh thần.
Hết khổ và được vui tức là hai khía cạnh của cuộc đời, nhưng không thể rời bỏ
nhau được. Khi được vui một phần nào, tức là đã bớt khổ một phần nào, ấy là
trong Từ có Bi; và trái lại, khi bớt khổ một phần nào, tức là đã được vui một
phần ấy như thế là trong Bi có Từ. Cũng như một đứa bé đang khổ sở vì đi lạc
đường, bỗng có ai chỉ đường cho nó, nó liền vui mừng và hết khổ.
Vậy từ bi là một lòng thương rông lớn vô biên, nó xui khiến người ta vận dụng
tất cả khả năng, tâm tư, phương tiện để làm cho mọi người, mọi vật thoát khổ
được vui.
II. SO SÁNH TỪ BI VỚI BÁC ÁI
Bác ái là tình thương yêu rộng lớn. Như thế thì bác ái và từ bi đều có một tánh
chất giống nhau, chỉ khác nhau ở chỗ rộng hẹp, sâu cạn mà thôi. Có người cho
rằng bác ái rộng hơn từ bi. Cho như thế là vì chưa hiểu rõ hai chữ Từ bi. Như
trên đã định nghĩa: Từ là cho vui tất cả chúng sinh; Bi là diệt trừ mọi nỗi khổ
cho tất cả mọi loài. Chúng ta đã biết Phật dùng hai chữ chúng sinh là để chỉ
cho tất cả mọi sinh vật. ậy Từ là cho vui tất cả mọi sinh vật, chứ không phải
riêng cho loài người. Tất cả mọi vật có sự sống đều được chung hưởng tình
thương ấy. Còn Bi là diệt trừ mọi nỗi khổ cho chúng sinh. Chúng ta nên để ý là
trong câu định nghĩa chữ Hán, các kinh dùng chữ "bạt" nghĩa là nhổ
tận gốc rễ. Vâng, nhổ tận gốc rễ của cái khổ chứ không phải chỉ thoa dịu cái
quả khổ trong hiện tại, mà để mặc cho cái nhân gây ra khổ mãi về sau. Người có
lòng Bi là vừa thoa dịu vết thương đau khổ trong hiện tại và vừa chữa cho khỏi
nguyên nhân hay gây ra đau khổ, như người làm vườn, không phải chỉ phác cho
sạch cỏ trên mặt đất, mà còn đào sâu xuống dưới, nhổ cho hết gốc rễ của cỏ nữa.
Như thế thì Từ bi, về phương diện không gian, bao gồm tất cả mọi loài,
còn về phương diện thời gian, bao gồm tất cả quá khứ, hiện tại và tương lai.
Còn bác ái thì chỉ chú trọng nhiều về loài người mà ít để ý đến sinh vật; và
chỉ lo cứu khổ, cho vui trong hiện tại mà ít nghĩ đến cái quả trong tương lai.
Nói một cách khác, Từ bi là gồm hết nghĩa bác ái ở trong ,còn bác ái htì chẳng
trùm được lý Từ bi.
III. TỪ BI CỨU KHỔ VÀ CHO VUI NHƯ THẾ NÀO?
Trong khi so sánh Từ bi với Bác ái, chúng tôi đã nói, về phương diện không
gian, Từ bi bao gồm tất cả mọi loài. Thật thế, tình thường của Đạo Phật vô cùng
rộng lớn. Phật dạy không được sát sinh người mà cả muôn loài vật nữa. Người
Phật tử chân chính, triệt để tuân theo lời Phật dạy, không những không giết hại
sinh vật để ăn, mà cũng không giết hại sinh vật trong các cuộc săn bắn hay câu
cá để mua vui. Ngày xưa, các vị Tỳ kheo trước khi uống nước ao hồ, phải dùng
mọt cái lọc để lọc nước, như thế vừa hợp vệ sinh, vưà tránh khỏi sát sinh những
sanh vật nhỏ ở trong nước. Mỗi khi vào cầu, những người tu hành phải gõ xuống
đất ba tiếng, để cho những sinh vật dưới cầu biết mà tránh trước. Những cử chỉ
ấy mặc dù nhỏ nhặt, những đã thể hiện được một cách chân thành lòng từ bi
của người Phật tử chân chính. Chính nhờ lòng từ bi ấy mà cuộc đời bớt khắc
nghiệt, khổ đau, sự chém giết bớt tàn khốc, chiến trường được thu hẹp, người và
vật không còn sát hại nhau, mà trái lại còn xem nhau như anh em.
Nhưng nếu chỉ cho vui và diệt khổ trong hiện tiền mà không nghĩ đến cho vui và
diệt khổ trong tương lai thì cũng chưa gọi được là Từ bi.Bởi thế, cần phải gây
nhân vui và diệt nhân khổ. Nhân vui và nhân khổ ở đâu mà có? Trong kinh thường
dạy: Khổ do nghiệp, nghiệp do hoặc. Hoặc tức là phiền não. Phiền não đều ở
trong tâm mỗi chúng ta. Tâm là nguồn gốc của mọi hành động, của mọi kết quả.
Vậy thì quả khổ hay vui chỉ do tâm cả. Tâm chúng sinh đầy dẫy phiền não tật
xấu, dung chứa vô số hạt giống cay chua, đắng độc. Dĩ nhiên, những mầm mống ấy
sẽ trổ ra những quả khổ gian lao. Bởi thế, Đạo Phật rất chú trọng vấn đề tu
tâm, dưỡng tánh cho chính mình và người.
Muốn cứu khổ cho thật tình, chẳng những lo cứu khổ quả, mà còn phải trừ nhơn
khổ cho sớm. Thế mới đúng như định nghĩa đã nói ở trên về chữ BI (Bạt nhứt
thiết chúng sinh chi khổ). Chẳng hạn, muốn một người nào khỏi bị cái khổ tù
đày, lao lý, bắt bớ, hành hạ, ta phải dạy họ đừng tham lam, trộm cướp và cần
thiết phải biết bố thí, qúy trọng của cải của người. Muốn cho người nào khỏi
khổ vì sự chia rẻ, sát hại, thù hằn, ta phải dạy cho họ đừng sân mà cần phải
biết nhu hòa, nhẫn nhục. Muốn cho người nào khỏi khổ vì sự ngu si cám dỗ, bóc
lột, khinh hèn, ta phải dạy cho họ được sáng suốt, giác ngộ cảnh đời. Khi họ
hiểu rồi, tất nhiên không bảo họ tránh khỏi, họ vẫn tránh.
Muốn cho sự nghiệp lợi tha này được hoàn toàn, người tu hạnh Từ bi, còn có bổn
phận phải chỉ bảo cho người chung quanh những phương pháp tu hành cho có hiệu
quả, như niệm Phật, tham thiền chẳng hạn, để cho tâm địa của họ được tăng
trưởng công đức lành.
IV. PHƯƠNG PHÁP QUÁN TỪ BI
Trong các đoạn trên, chúng ta đã phân tách ý nghĩa và tác dụng của từ bi. Chúng
ta đã thấy được giá trị tốt đẹp và lớn lao của từ bi. Đến đây chúng ta hãy
đề cập đến vấn đề: "làm thế nào để huấn tập được lòng từ
bi".
Một trong những phương pháp hiệu nghiệm để huấn tập được lòng từ bi là
"quán từ bi". Quán Từ bi có ba từng bậc thấp cao, tùy theo căn cơ của
ba hạng tu hành:
1. Chúng sinh duyên từ. Pháp quán này thường dành cho hạng tu Tiểu
Thừa thực hành.
Chúng sinh duyên từ, nghĩa là lòng từ bi do quán sát cảnh khổ của chúng sinh mà
phát khởi.
Chúng sinh tức là muốn nói đến những hạng còn đang say mê, chìm đắm trong bể
khổ sanh tử, còn đang trói mình trong vòng phiền não nhiễm ô. Chẳng hạn như
loài địa ngục bị hành phạt đủ điều, ngạ quỷ bị đói rách bứt bách, súc sanh bị
cảnh dao thớt hành hình, A tu la đấu tranh, chém giết. Đến như chúng sinh ở cõi
tời tuy vui thú, nhưng vẫn còn bị ngũ suy tướng hiện, luân hồi, đọa lạc như
thường. Và gần hơn hết là loài người, cũng chịu không biết bao nhiêu là cảnh
khổ, từ vật chất đến tinh thần, từ cá nhân đến đoàn thể. Nhất là đối luật vô
thường: sanh, già, bịnh, chết, chưa ai thoát khỏi được. Đã không thoát được mà
lại còn vô tình đi gây chuốc thêm lấy khổ, lắm khi cứ quên mất cái tuổi già,
mối ngày mỗi chồng chất, thật đáng thương hại!
Vậy, đứng trước những cảnh khổ của chúng sinh, người Phật tử phải làm như thế
nào? Phải phát lòng từ bi! Nhưng làm sao cho lòng từ bi ấy được phát?
Đức Phật có dạy chúng ta phải quán sát tất cả chúng sinh trong lục đạo, mười
phương đều như bà con thân thuộc.
Đây là phương pháp đầu tiên để hòa hợp với mọi chúng sinh. Dùng cảm tình
mà tập quán Từ bi. Trước kia, chúng ta có thói quen là cái gì ngoài
"ta" thì ít khi quan tâm đến. Giờ đây, quán từ bi tức là chúng ta đã
phá bỏ cái vỏ ích kỷ hẹp hòi ấy mà giác ngộ và nhận định rằng:
Thế giới của loài người chúng ta đang ở đây, tỷ như một cái nhà lớn, nơi sum
họp và đoàn kết của đại gia đình. Vẫn biết rằng nhân loại khác nhau về màu da,
chủng tộc; nhưng cái khác đó chẳng qua là khác về bề ngoài, chứ đã là người thì
ai ai cũng có một thân hình xương thịt như nhau cũng đồng sợ khổ ưa vui, biết
xấu biết tốt v.v... Vì thế đối với người lớn tuổi, ta phải kính trọng như ông
bà cha mẹ; người ngang hàng hay tuổi xấp xỉ, xem như anh chị em ruột thịt;
người nhỏ tuổi hơn nữa xem như con cái cháu chắt...
Rộng ra một tầng nữa, đối với chúng sing trong năm loại, chúng ta hãy
xem như những thành phần của đại gia đình là chú, bác, cô, dì... Vẫn biết rằng
về hình thức, loài người khác với loài khác, và nhiều khi ta không gặp
mặt nữa, nhưng xét cho cùng, đã là chúng sinh, thì tất nhiên đồng chung một nguồn
sống, và đã có sống thì tất nhiên đều ham sống sợ chết, đều biết cảm nỗi vui
sướng và khổ đau. Gần với chúng ta nhất mà chúng ta có thể thấy, gặp và nhờ cậy
được là loài súc sinh. Tuy chúng không biết nói như chúng ta, nhưng nếu chúng
ta đối đãi tử tế, chúng cũng biết thương mến và trung thành với ta. Tuy không
có học thức, chúng vẫn biết nghe lời ta và giúp đỡ ta trong nhiều công việc
nặng nề. Chẳng qua vì nghiệp nặng, nên đời này chúng làm súc vật, nhưng biết
đâu đời trước, chúng không phải là anh em của ta? Và sau này, biết đâu chúng
lại không sẽ là bà con quyến thuộc của ta?
Phương pháp tu tập của Tiểu Thừa này tuy chưa phá được ngã chấp, những cũng đã
mở rộng được phạm vi hẹp hòi của cái ngã nhỏ và thể nhập vào cái ngã to hơn là
đại gia đình; rồi từ cái ngã to tình cảm ấy, sẽ chuyển dần sang giai đoạn
lý trí cao siêu hơn, bằng phép quán "Pháp duyên từ" sau đây.
2. Pháp duyên từ. Pháp duyên từ là lòng từ bi do duyên "Pháp
tánh" mà phát khởi. Đây là pháp quán dành cho các bậc Trung thừa.
Hành giả trong khi tu pháp môn này, quán sát thấy tất cả chúng
sinh, cùng mình đều đồng một "pháp giới tánh", nên chúng sinh đau khổ
là mình đau khổ; vì vậy hành giả khởi lòng từ bi cứu khổ ban vui cho tất cả
chúng sinh. Đến địa vị này, các Ngài không còn phân biệt là nam hay nữ, không
còn quan niệm mình khác với người, không nghĩ rằng đó là bà con quyến thuộc,
chỉ thấy mình cùng người đồng một "pháp giới tánh" mà thôi. Bồ Tát đã
nhận chúng sinh và mình đồng một bản thể, nên khi cứu khổ, không cần biết đó là
ai, và khi làm, không chấp mình đã làm. Chúng sinh có khổ thì Bồ Tát có Bi. Sự
thông cảm tự nhiên ấy như tình thiêng liêng giữa mẹ và con, hễ có cảm là có
ứng, như tánh sốt sắng của vị y sĩ có lương tâm nhà nghề, hễ thấy bịnh thì liền
trị. Với ý nghĩa này, trong kinh Trung A Hàm có tỷ dụ: Trước một nạn nhân bị
trúng tên độc, việc làm cần kíp hơn hết của vị thầy là phải rút tên độc ấy ra
lập tức. Ông không cần phải hỏi người ấy tên gì, ở đâu, con ai, cũng không cần
coi cây tên ấy làm bằng gì, ai bắn v.v...
Sự cứu khổ cho chúng sinh, đối với các vị Bồ Tát đã chứng được "pháp duyên
từ" này cũng như thế, chỉ nhằm mục đích làm sao cho kẻ khác hết khổ được
vui mà thôi.
3. Vô duyên từ. Trong phạm vi bài này, chúng ta chỉ nên học qua hai
hạng từ bi trên mà thôi, là: Lòng từ bi do duyên mình với chúng sinh khổ sở mà
phát ra, hay do duyên mình và chúng sinh đồng một thể tánh mà phát khởi. Còn
loại từ bi thứ ba tức là "Vô duyên từ" là một loại cao siêu đặc biệt
của Đại Thừa, chúng ta chưa đủ căn cơ, trình độ tu tập. Tuy nhiên, để có một ý
niệm đầy đủ về lòng từ bi, chúng ta cũng nên biết qua về loại này.
Vô duyên từ, là lòng từ bi không có tâm năng duyên và cảnh bị duyên, không còn
dụng công, không còn quan sát, đối đãi giữa mình với người, mình và vật như hai
thứ từ bi trước. Lòng từ bi này xứng theo thể tánh chơn tâm mà tự khởi ra bao
la, trùm khắp, không thiên lệch một nơi nào. Cũng như ánh sáng mặt trời chiếu
khắp cả gần xa, không phân biệt thấp cao, không chú ý một nơi nào, chiếu soi
tất cả một cách vô tư và không dụng công.
V. LỢI ÍCH CỦA PHÁP QUÁN TỪ BI
Có người lo rằng nếu ai cũng từ bi thì sẽ trở thành nhu nhược, dân tộc sẽ yếu
hèn, và sự tham tàn bóc lột sẽ lừng lẫy v.v...
Lo như thế là quá lo xa mà thành ra không thực tế. Từ xưa đến nay, loài người
không phải khổ sở vì quá từ bi, xã hội không phải yếu hèn, đảo điên vì
tình thương quá rộng lớn. Trái lại, sự đau khổ của cá nhân cũng như của đoàn
thể, một phần rất lớn là do lòng người còn độc ác. Một nhận xét không ai có thể
chối cãi được là một xã hội càng văn minh thì lòng ác độc càng bớt, tình thương
càng tăng thêm, hay ngược lại, tình thương càng tăng, hay ác độc càng giảm, thì
xã hội càng văn minh, hạnh phúc. Hãy khoan lo sợ từ bi làm cho con người mềm
yếu, mà chỉ nên lo sợ, nếu sự thù hằn, độc ác không giảm, thì loài người chắc
chắn sẽ bị tiêu diệt.
Khái lược theo kinh Tăng Nhất A Hàm thì quán Từ bi sẽ được những lợi ích như
sau:
a) Khi thức hay ngủ đều được an vui
b) Hiện tại được nhiều người thương
c) Sống trong đời không bị tai nạn trộm cướp
Nhưng thực hành pháp quán từ bi, không phải chỉ để chúng ta cầu những quả báo
lợi ích riêng cho mình, và có bấy nhiêu đó. Mục đích chúng ta tu là cốt làm sao
cho chúng ta và mọi chúng sinh trong lục đạo đều khỏi khổ được vui. Lẽ tất
nhiên, trong khi tu chúng ta sẽ:
Trừ được lòng sân hận độc ác
Dẹp được ngã chấp hẹp hòi
Đoàn kết được với mọi người
Đời sống cá nhân và đoàn thể nhờ thế được vui vẻ, có ý nghĩa.
C. KẾT LUẬN
Từ bi là một phương thuốc trị tâm sân hận. Sân hận là đầu mối sát hại ghê
ghớm, là cái chìa khóa của tất cả kho tội lỗi. Trừ được nó tức là trừ được chết
chóc, và dập tắt được cái ngòi biến loạn. Bao nhiêu súng đạn và nhất là bom
nguyên tử sẽ trở thành vô dụng. Trong nhân loại, không còn ai là cừu địch không
còn có giai cấp bóc lột, đấu tranh. Ai cũng là người đáng thương, đáng giúp đỡ.
Giữa người và người, giữa người và vật sẽ có một sự liên lạc, đoàn kết mật
thiết. Con người sẽ vô cùng sung sướng khi thấy xung quanh mình đều là bà con
quyến thuộc, bốn biển đều là anh em và cùng chan hòa trong Phật tánh.