Nói đến Thiền
tông Việt Nam cuối thế kỷ 20 là nói
đường hướng tu thiền của Tu viện
Chân Không (1970-1986) ngày trước, hay của Thiền
viện Thường Chiếu... hiện nay (1974-1991...) do
chúng tôi (Thích Thanh Từ) chủ trương hướng
dẫn. Chúng tôi không theo các tông phái chi nhánh Thiền tông
Trung Hoa sau này, như tông Tào Ðộng, Lâm Tế, Qui
Ngưỡng, Vân Môn, Pháp Nhãn. Chúng tôi chỉ kết
hợp ba cái mốc quan trọng trong dòng lịch sử
truyền thừa Thiền tông từ Trung Hoa đến
Việt Nam. Mốc thứ nhất là Nhị Tổ
Huệ Khả, mốc thứ hai là Lục Tổ Huệ
Năng, mốc thứ ba là Sơ Tổ Trúc Lâm. Hòa hội
chỗ thấy, chỗ ngộ và sự ứng dụng tu
hành của ba vị Tổ này thành phương pháp tu
thiền trong các Thiền viện chúng tôi.
Hòa hội chỗ
thấy, chỗ ngộ và sự ứng dụng tu hành
của ba vị Tổ này thành phương pháp tu thiền
trong các Thiền viện chúng tôi.
1. Nhị Tổ
Huệ Khả 2. Lục Tổ Huệ Năng 3. Sơ
Tổ Trúc Lâm
Dung Hợp Thiền Sư Thích Thanh Từ
NHỊ TỔ HUỆ KHẢ (494 - 601)
Sau khi ngài Huệ Khả được Tổ
Bồ-đề-đạt-ma (Bodhidharma) nhận làm
đệ tử mà lòng vẫn còn thao thức, tại sao
tâm mãi lăng xăng trong lúc ngồi thiền. Một hôm
đến trước Tổ, Ngài bạch: "Bạch
Hòa thượng, tâm con chẳng an, xin Hòa thượng
dạy con pháp an tâm." Tổ Ðạt-ma nhìn thẳng,
bảo: "Ðem tâm ra ta an cho." Ngài sửng sốt quay
lại tìm tâm, không thấy bóng dáng, bạch Tổ: "Con
tìm tâm không được." Tổ bảo: "Ta an tâm
cho ngươi rồi." Ngay đây ngài Huệ Khả
biết được đường vào.
Chỗ biết được đường vào của
ngài Huệ Khả là một pháp tu mà không có pháp. Bởi vì
từ xưa đến nay, tất cả chúng ta
đều nhận cái suy nghĩ phân biệt lăng
xăng là tâm của mình, ngài Huệ Khả cũng chung
một thông lệ ấy. Cho nên ngồi lại tu, muốn
cho tâm an mà nó không chịu an, khiến chúng ta rất
khổ sở về vấn đề này. Cầu pháp an
tâm là điều cấp thiết của người
quyết chí tu hành. Ở đây Tổ Ðạt-ma không
dạy phương pháp gì, Ngài chỉ bảo "Ðem tâm ra
ta an cho". Câu này là một tiếng sấm dẹp tan mê
lầm muôn thuở của ngài Huệ Khả.
Bình thường chúng ta nhận cái hay suy nghĩ là tâm
của mình, chịu sự sai sử lôi kéo của nó.
Bất thần chúng ta tìm lại nó thì nó mất tăm
mất dạng. Khi nó không còn tăm dạng thì không an là
gì? Cho nên Tổ nói "Ta an tâm cho ngươi rồi".
Ngài Huệ Khả sáng ý nhận ra được lẽ
này nên biết đường vào. Như vậy, Tổ
Ðạt-ma có dạy phương pháp gì an tâm không? Nếu
không, tại sao ngài Huệ Khả biết
đường vào? Rõ ràng pháp an tâm mà không có pháp, chỉ
xoay ánh sáng trí tuệ soi rọi xem cái tâm bất an ấy
thế nào thì nó biến mất. Thuật ngữ nhà
Thiền gọi là "Hồi quang phản chiếu".
Chúng tôi gọi "Biết vọng không theo". Chính
đây là "Biết được đường
vào" của ngài Huệ Khả.
Tại sao nhà Thiền không chấp nhận cái tâm suy
nghĩ so tính ấy? Bởi vì, nếu chấp nhận nó
làm tâm mình sẽ mắc phải những lầm lỗi
như sau:
1. Cái tâm suy nghĩ ấy khi có khi không, còn chúng ta thì lúc nào
cũng hằng hữu. Nếu chấp nhận nó là mình
thì khi không suy nghĩ là không có mình sao?
2. Bình thường nó suy nghĩ lăng xăng, khi nhìn
lại tìm kiếm nó thì mất tăm mất dạng.
Nếu nó là thật mình thì lúc nào cũng phải có. Trái
lại khi tìm thì mất, chẳng qua nó chỉ là bóng dáng mà
thôi. Chấp nhận cái bóng làm mình thì thật là đau
khổ cho con người.
3. Chúng ta ai cũng thừa nhận mình trước sau
vẫn là mình, mình là một từ bé đến già.
Thế mà, tâm suy nghĩ ấy lại trăm ngàn thứ,
có khi nghĩ lành như hiền thánh, có nghĩ dữ
như cọp sói... thì cái nào là mình?
4. Lúc đang suy nghĩ, chúng ta biết mình đang suy
nghĩ, lúc không suy nghĩ biết không suy nghĩ. Cái suy
nghĩ ấy là đối tượng bị biết
của chúng ta. Ðã là đối tượng tức là khách,
là cái bên ngoài không phải mình. Nếu cái suy nghĩ là
thật mình, lúc không suy nghĩ, ai biết không suy nghĩ?
Ðã có cái biết lúc không suy nghĩ thì làm sao nhận cái suy
nghĩ làm mình được?
Cái không phải mình mà lầm nhận là mình, trong kinh
Phật gọi là "Nhận giặc làm con", tai
họa không thể lường được. Cho nên bao
nhiêu kinh điển, bao nhiêu pháp tu, đức Phật
đều dạy xoay quanh cái trục "Chận
đứng tâm suy nghĩ lăng xăng này". Tụng
kinh phải nhiếp tâm, niệm Phật phải nhất
tâm, tọa thiền phải định... Song đặc
biệt là Thiền tông, chư Tổ không dùng phương
tiện để đè bẹp, để ngăn
chận nó, mà dùng trí biết rõ bản chất không
thật của nó thì nó hết tác quái. Chính câu "Ðem tâm ra
ta an cho" của Tổ Ðạt-ma đủ thể
hiện ý nghĩa này.
"Biết đường vào" chưa phải là
kẻ đến nhà, phải trải thời gian lâu xa,
ngài Huệ Khả mới bạch với Tổ
Ðạt-ma: "Từ đây trở đi con dứt
hết các duyên." Tổ Ðạt-ma bảo: "Chớ
rơi vào đoạn diệt." Huệ Khả thưa:
"Không rơi." Tổ Ðạt-ma hỏi: "Con làm
thế nào?" Huệ Khả thưa: "Con
thường biết rõ ràng, nói không thể đến."
Tổ Ðạt-ma dạy: "Ðây là chỗ truyền
của chư Phật, chớ nên hoài nghi." Ðến
đây mới thật là người về tới nhà,
không còn nghi ngờ gì nữa.
Khi Tổ Ðạt-ma sắp tịch, hỏi lại chỗ
sở ngộ của các đồ đệ, đến
lượt Huệ Khả, Ngài chỉ bước ra
đảnh lễ ba lạy rồi lui. Tổ Ðạt-ma
nói: "Ông được phần tủy của ta."
Ðến chỗ cứu kính không còn ngôn ngữ để
trình bày, vì ngôn ngữ là phương tiện tương
đối, không thể diễn tả được cái
chân thật tuyệt đối. Từ đó ngài Huệ
Khả được truyền y bát làm Tổ thứ hai
ở Trung Hoa.
LỤC TỔ HUỆ NĂNG (638 - 713)
Chỗ sở ngộ của Tổ Huệ Năng là do
nghe kinh Kim Cang Bát-nhã. Sau khi được Ngũ Tổ
Hoằng Nhẫn cho vào thất và nghe giảng kinh Kim Cang
đến đoạn Tôn giả Tu-bồ-đề
hỏi: "Khi phát tâm cầu vô thượng chánh giác, làm
sao an trụ tâm?" Phật đáp: "Chẳng nên
trụ sắc, chẳng nên trụ thanh, hương,
vị, xúc, pháp mà sanh tâm kia; nên không chỗ trụ mà sanh
tâm ấy." Ngài đại ngộ kêu lên: "Ðâu
ngờ tánh mình vốn tự thanh tịnh! Ðâu ngờ tánh
mình vốn không sanh diệt! Ðâu ngờ tánh mình vốn
tự đầy đủ! Ðâu ngờ tánh mình vốn
không dao động! Ðâu ngờ tánh mình hay sanh muôn pháp!"
Ngũ Tổ bảo: "Chẳng biết bản tâm
học pháp vô ích, nếu nhận được bản
tâm mình, gọi là Trượng phu, Thiên nhân sư,
Phật..." Thế là Ngài được Ngũ Tổ
truyền y bát làm Tổ thứ sáu.
Qua câu chuyện ngộ đạo của Lục Tổ,
chúng ta thấy từ lý Bát-nhã không cho sáu căn dính mắc
(trụ) với sáu trần là phát tâm Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác, Lục Tổ không dừng ở
chỗ không dính mắc, mà nhảy vọt vào thể tánh
thanh tịnh, bất sanh bất diệt của chính mình.
Chính thể tánh này gọi là Pháp thân hay Bản Lai Diện
Mục, đã có sẵn từ vô thủy nơi tất
cả chúng ta. Thấy tột chỗ này và sống
được với nó là Ðốn ngộ, là Kiến tánh.
Bản thân Lục Tổ được như vậy,
song khi dạy người Ngài cũng có phương
tiện.
Lục Tổ vì phương tiện lập Tam vô: Vô
Niệm làm Tông, Vô Tướng làm Thể, Vô Trụ làm
Bổn. Theo Lục Tổ giải: Ðối trên các pháp
mỗi niệm không trụ, tức là không phược,
đây là lấy Vô trụ làm gốc. Ngoài lìa tất
cả tướng gọi là Vô tướng, hay lìa
tướng tức là pháp thể thanh tịnh, đây là
lấy Vô tướng làm thể. Ðối trên các cảnh
tâm không nhiễm, gọi là Vô niệm (Kinh Pháp Bảo Ðàn,
phẩm Ðịnh Huệ). Không nhiễm các pháp, không kẹt
các tướng, không dính mắc các pháp, đây là chủ
trương của Lục Tổ. Không nhiễm, không
kẹt, không dính, ngay khi tiếp xúc với sáu trần là thiền
định. Không phải chạy trốn cảnh
trần, rồi sau tâm mới an định như các
lối thiền định khác.
SƠ TỔ TRÚC LÂM (1258 - 1308)
Vua Trần Nhân Tông lúc còn làm Thái tử đã thông suốt
Thiền tông do sự giáo dục của Tuệ Trung
Thượng sĩ. Sau khi bỏ ngôi đi xuất gia,
lấy hiệu là Hương Vân Ðại Ðầu-đà, Ngài
hòa hội các phái thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn
Thông, Thảo Ðường đã truyền bá trên
đất nước Việt Nam, lập thành phái
thiền Trúc Lâm Yên Tử. Ðây là phái thiền hoàn toàn
Việt Nam. Ở đây chúng tôi chỉ chắt lọc
một vài nét nổi bật trong sự chỉ dạy
của Ngài để làm tiêu chuẩn, đó là bài kệ
Hữu Cú Vô Cú:
Hữu cú vô cú
Ðằng khô thọ đảo
Cơ cá nạp tăng
Chàng đầu khái não.
Hữu cú vô cú
Thể lộ kim phong
Hằng hà sa số
Phạm nhẫn thương phong.
Hữu cú vô cú
Lập tông lập chỉ
Ðả ngỏa toản qui
Ðăng sơn thiệp thủy.
Hữu cú vô cú
Phi hữu phi vô
Khắc chu cầu kiếm
Sách ký án đồ.
Hữu cú vô cú
Hỗ bất hồi hỗ
Lạp tuyết hài hoa
Thủ chu đãi thố.
|
Câu có câu không
Bìm khô cây ngã
Mấy kẻ nạp tăng
U đầu sứt trán.
Câu có câu không
Thể bày gió thu
Hằng hà sa số
Va đao chạm bén.
Câu có câu không
Lập tông lập chỉ
Ðập ngói dùi rùa
Trèo non lội nước.
Câu có câu không
Chẳng có chẳng không
Khắc thuyền mò kiếm
Tìm ngựa bản đồ.
Câu có câu không
Hồi hỗ hay không
Nón tuyết giày hoa
Ôm cây đợi thỏ.
|
Hữu cú vô cú
Tự cổ tự kim
Chấp chỉ vong nguyệt
Bình địa lục trầm.
Hữu cú vô cú
Như thị như thị
Bát tự đả khai
Toàn vô bả tỷ.
Hữu
cú vô cú
Cố tả cố hữu
A thích thích địa
Náo quát quát địa.
Hữu cú vô cú
Ðao đao phạ phạ
Tiệt đoạn cát đằng
Bỉ thử khoái hoạt
|
Câu có câu không
Tự xưa tự nay
Nhìn tay quên trăng
Ðất bằng chết chìm.
Câu có câu không
Như thế như thế
Chữ bát mở ra
Sao không nắm mũi.
Câu có câu không
Ngó tả ngó hữu
Lau chau mồm mép
Ồn ào náo động.
Câu có câu không
Ðau đáu lo sợ
Cắt đứt sắn bìm
Ðó đây vui thích.
|
Qua bài kệ này chúng ta thấy Ngài phản đối cái
chấp hai bên biểu trưng bằng Có và Không. Song cái
chấp hai bên có vô số loại: có không, phải
quấy, hơn thua, tốt xấu, thắng bại, hay
dở, lành dữ v.v. và v.v. Chính cái chấp hai bên là
mầm tranh đấu, là nhân phiền não, kết quả
khổ đau không thấy chân lý.
Cho nên chín đoạn trong bài kệ này, Ngài vừa quở
trách, vừa chỉ dạy rất đầy đủ.
Như đoạn một: "Mấy kẻ nạp
tăng, u đầu sứt trán", đoạn hai:
"Hằng hà sa số, va đao chạm bén",
đoạn ba: "Ðập ngói dùi rùa, trèo non lội
nước", đoạn bốn: "Khắc
thuyền mò kiếm, tìm ngựa bản đồ",
đoạn năm: "Nón tuyết giày hoa, ôm cây
đợi thỏ", đoạn sáu: "Nhìn tay quên
trăng, đất bằng chết chìm", đoạn
bảy: "Chữ bát mở ra, sao không nắm
mũi", đoạn tám: "Lau chau mồm mép, ồn
ào náo động", đoạn chín: "Cắt
đứt sắn bìm, đó đây vui thích".
Ðoạn một và hai, Ngài quở người chấp hai
bên là tự chuốc khổ vào mình. Ðoạn ba và bốn,
Ngài chê kẻ chấp hai bên là dại khờ, chỉ
nhọc nhằn luống công. Ðoạn năm và sáu, Ngài
trách những phương tiện tạm bợ mà
người vì cố chấp hai bên nên không thấy chân lý.
Ðoạn bảy và tám, Ngài chỉ thẳng chân lý ngay
trước mắt như lỗ mũi nằm sẵn
dưới chân mày mà người ta không nhận, cứ lý
luận ồn ào vô ích. Ðoạn chín, Ngài nói ai dứt
chấp hai bên mới thật vui thích. Ngay đoạn chín
này hẳn là chỗ Nhị Tổ trình kiến giải
bằng ba lễ mà không có một lời. Không kẹt hai
bên là căn bản của Thiền tông, cũng chính là
cốt tủy của Phật giáo.
Lại một bài kệ kết thúc bài phú "Cư
Trần Lạc Ðạo" của Sơ Tổ Trúc Lâm là
cô đọng những gì Lục Tổ đã thấy và
ứng dụng.
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn
tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu
tầm mích
Ðối cảnh vô tâm mạc
vấn thiền.
|
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Ðói đến thì ăn, mệt
ngủ liền.
Trong nhà có báu, thôi tìm kiếm
Ðối cảnh không tâm chớ
hỏi thiền.
|
Chỉ hai câu chót trong bài kệ cũng đủ kết
thúc chỗ sở ngộ và mục tiêu dạy tu hành
của Lục Tổ một cách kỳ diệu. Thấy
hòn ngọc sẵn có trong nhà, chính là chỗ Lục Tổ
thốt lên "Ðâu ngờ tánh mình vốn tự thanh
tịnh!..." Thiền là đối cảnh không tâm thì
làm gì có niệm nhiễm, là vô niệm; không tâm thì đâu
kẹt cảnh bên ngoài, là lìa tướng tức vô
tướng; không tâm thì lấy gì để dính mắc, là
vô trụ. Một câu kết này đã bao gồm cả Vô
Niệm, Vô Tướng, Vô Trụ hay Tông, Thể, Bổn
của Lục Tổ dạy. Thiền là đối
cảnh không nhiễm, không kẹt, không mắc, chính
đây là chủ trương của Lục Tổ. Ngài
Trúc Lâm Ðầu-đà đã ứng dụng tuyệt vời
chỗ thấy của Nhị Tổ, chỗ ngộ và
hành của Lục Tổ. Chúng ta là kẻ hậu học,
tự hãnh diện ở Việt Nam xuất phát một
phái thiền trọn vẹn mang dấu ấn của
chư Tổ tiền bối và dung hội tài tình
đường lối tu hành của người xưa,
làm kim chỉ nam cho hành giả Việt Nam chúng ta.
DUNG HỢP
Chúng tôi dung hợp pháp tu của ba vị Tổ trên thành
một lối tu cụ thể như sau:
- Nơi Nhị Tổ, chúng tôi ứng dụng pháp an tâm.
Nghĩa là biết rõ tâm suy tưởng lâu nay là hư
ảo, không để nó đánh lừa, lôi dẫn chúng ta
chạy theo trần cảnh, nên nói "Vọng tưởng
không theo". Mỗi khi nó dấy lên đều biết rõ
như vậy. Một khi hành giả nhận diện
bản chất hư ảo của chúng thì chúng tự
biến mất. Khi tọa thiền cũng như lúc
tiếp duyên xúc cảnh đều thấy rõ, không lầm
chúng. Ðến bao giờ được như Nhị
Tổ nói "Ðoạn hết các duyên mà rõ ràng
thường biết, nói không thể đến" là
đạt kết quả.
Tuy nhiên vọng tưởng này không phải dễ
lắng, dứt cái này khởi cái khác liên miên không dừng.
Hành giả phải bền chí theo dõi, soi sáng mãi chúng
mới từ từ thưa dần. Nhận vọng
tưởng hư ảo làm tâm mình là mê lầm, biết
vọng tưởng hư dối không thật là tỉnh
giác. Lối tu này là dùng "cái dụng của trí
để phá si mê", chớ không có pháp gì dùng để
đè bẹp, nên nói "pháp an tâm mà không có pháp". Khi
hết si mê vọng tưởng lặng thì trí dụng
cũng dừng, như trong mười mục chăn
trâu, khi trâu mất thì người chăn cũng không còn.
Trí dụng hết đối trị, liền hội
nhập trí thể.
- Với Lục Tổ, chúng tôi ứng dụng sáu căn
không dính mắc sáu trần làm hướng tiến tu. Ðó là
câu "Bất ưng trụ sắc sanh tâm..." trong kinh
Kim Cang được Ngũ Tổ giảng cho Lục
Tổ. Nhưng làm sao căn không dính trần? Ðương
nhiên phải dùng trí tuệ Bát-nhã quán chiếu, thấy các
pháp duyên hợp hư dối như huyễn như hóa. Vì
thế trong kinh Pháp Bảo Ðàn, sau phẩm Hành Do là
đến phẩm Bát-nhã. Nhờ trí tuệ Bát-nhã soi rọi
thấy rõ các pháp duyên sanh, không có chủ thể (vô ngã),
không cố định (vô thường) nên tâm không
nhiễm trước sắc... do đó căn, cảnh
không dính mắc nhau. Căn, cảnh không dính mắc nhau là
Vô Niệm, Vô Tướng, Vô Trụ, đó là chủ
trương của Lục Tổ.
Lại có một cách khác, nếu hành giả kiến tánh
như Lục Tổ, hằng sống với thể tánh
bất sanh bất diệt của mình thì còn gì bận
bịu với vọng tưởng hư dối, với
sáu trần giả hợp. Ði đứng nằm ngồi
không lúc nào rời tự tánh chính mình. Ðược thế
thì ung dung tự tại, nên nói "đói ăn khát
uống".
- Ðến Sơ Tổ Trúc Lâm, trong bài kệ "Câu Có Câu
Không", đoạn thứ tư nói "Nón tuyết giày
hoa, ôm cây đợi thỏ", là tinh thần Bát-nhã
của Lục Tổ. Các pháp hư giả như nón
tuyết, như đôi giày bằng hoa, tạm có rồi
tan mất, mới thấy đẹp rồi héo xàu, có gì
lâu bền. Nếu chấp giữ nó là người ngu,
như kẻ "ôm cây đợi thỏ". Toàn thể
pháp đối đãi đều không thật, do
phương tiện bày lập, giống như dây sắn
dây bìm, một phen cắt đứt chúng mới là an vui
tự tại. Ðấy là tinh thần hai câu kết của
bài kệ "Cắt đứt sắn bìm, đó đây
vui thích". Vừa dấy niệm là đối đãi,
vừa thốt lời là đối đãi, nếu
dứt hết đối đãi thì còn niệm nào
để khởi, còn lời gì để nói. Ðây là
hằng sống thật với thiền.
Phần sau ở hai câu kệ "Trong nhà có báu thôi tìm
kiếm. Ðối cảnh không tâm chớ hỏi
Thiền", là hình ảnh Lục Tổ thốt lên
"Ðâu ngờ tánh mình vốn tự thanh tịnh!..."
Thấu triệt tánh mình như thấy hòn ngọc quí vô
giá có sẵn trong nhà, còn gì phải tìm kiếm đâu xa.
Thấy tánh mình thanh tịnh, chẳng sanh chẳng
diệt, so với thân vô thường tạm bợ và tâm
vọng tưởng hư ảo thì thân tâm này còn có giá
trị gì. Trong không chấp thân, không chấp vọng tưởng
làm mình, ngoài đối cảnh không còn dính mắc, chính
đây là chủ yếu của Thiền tông, cũng là
cội nguồn của Phật pháp. Ở đây chúng tôi
lấy "Ðối cảnh không tâm" làm tiêu chuẩn tu
hành. Không tâm là không tâm vọng tưởng chạy
đuổi theo ngoại trần, chớ chẳng phải
không tâm là vô tri vô giác như cây gỗ. Không tâm hư ảo
sanh diệt mà vẫn có tâm hằng giác hằng tri, bất
sanh bất diệt. Ðây là chỗ giải thoát sanh tử
của người tu Phật.
Nhị Tổ Huệ Khả sau khi ngộ đạo
vẫn được Tổ Ðạt-ma giới thiệu
bốn quyển kinh Lăng-già để ấn tâm.
Lục Tổ Huệ Năng nghe giảng kinh Kim Cang
ngộ đạo. Thế là đủ minh chứng
Thiền tông không rời Kinh, vì Thiền là tâm của
Phật, Kinh là miệng của Phật. Ðức Phật
tâm miệng không khác thì Thiền và Giáo làm sao tách rời
được. Cho nên chúng tôi chủ trương
"Thiền, Giáo đồng hành".
Ðể thấy rõ nét lối dung hợp pháp tu qua ba vị
Tổ trên, chúng tôi cô đọng lại bằng những
lối tu:
1. Biết vọng không theo, vì vọng tưởng là
những tâm niệm hư ảo.
2. Ðối cảnh không tâm, vì nó là tướng duyên hợp
giả dối tạm bợ.
3. Không kẹt hai bên, vì đối đãi là không thật.
4. Hằng sống với cái thật, không theo cái giả,
vì giả là luân hồi, thật là giải thoát.
Ðây là bốn phương tiện chúng tôi tạm lập
để hướng dẫn người tu. Tùy theo
căn cơ trình độ nhanh chậm, cao thấp
của hành giả mà lối ứng dụng có khác. Cũng
có thể bốn lối tu này, hành giả linh động
ứng dụng theo thứ tự từ pháp thứ
nhất đến pháp thứ tư để tu hành
cũng tốt. Những nét cô đọng trên là kết
thúc bài này của chúng tôi.