Ban đầu tổ sư Đạt-ma đến Trung
Quốc truyền bá pháp thiền Đại thừa Ấn Độ, nêu lên tông chỉ “nương giáo
ngộ tông”. “Giáo” đây là chỉ cho 4 quyển kinh Lăng Già, còn cái gọi là
“Tông” là chỉ cho “tự tánh thông” mà trong kinh Lăng-già đề cập. Tổ sư
Đạt-ma cho rằng: “Muốn tự mình chứng ngộ thánh trí (nội chứng) thì trước
tiên phải nương vào giáo pháp và từ đó mới giác ngộ cho người, do vậy
nên gọi là “nương giáo ngộ tông”. Điều đó cho thấy rõ rằng bản thân tổ
Đạt-ma đã dùng kinh Lăng-già làm bộ kinh điển y cứ căn bản. Trong
Lăng-già Sư Tư ký chép: “ Đệ tử Đàm Lâm ghi lại những hành trạng lời nói
của thầy mình, tập hợp lại thành một quyển gọi là “Đạt-ma Luận”, còn sư
Bồ-đề thì lại lấy quyển yếu nghĩa “Lăng-già” chuyên giải thích về các
cách thức tọa thiền gồm 23 trang gọi là “Đạt-ma Luận”. Về sau tổ sư
Đạt-ma truyền 4 quyển kinh Lăng-già này cho tổ Huệ Khả, đồng thời còn
dặn rõ: “ Ta xét thấy ở đất Hán này chỉ thích hợp với kinh Lăng-già, nếu
ông thực hành theo đó thì có thể độ được mọi người”. Tổ Huệ Khả cũng
bảo các thầy Na, Mãn, v.v... lấy 4 quyển kinh Lăng-già này làm tâm yếu, y
theo đó mà nói năng hành xử thì sẽ không có gì phải hối tiếc. (Tục Cao
Tăng truyện, quyển 19). Thể theo tâm nguyện của tổ sư Đạt-ma, tổ Huệ Khả
tiếp tục duy trì và truyền thừa kinh Lăng-già. Đối với kinh Lăng-già,
tổ Huệ Khả chọn cách giải thích tự do, không câu nệ vào văn tự, không
phụ thuộc vào Huyền học. Các đệ tử của tổ Huệ Khả cũng rất xem trọng
việc học tập nghiên cứu kinh Lăng-già: (pháp) Xung lâu ngày nghiên cứu,
thấm nhuần ý nghĩa thâm áo của kinh Lăng-già, đến khi vấn đạo không hề
tỏ ra lo sợ. Điều này đã khiến cho phong trào học tập Lăng-già của các
hậu duệ tổ Huệ Khả trở nên thạnh hành, tức theo Sư học tập nhiều lần
những nét chính yếu của kinh. Sau đó rời đồ chúng dấn thân hành đạo, Sư
đã liên tục giảng giải kinh này hơn 30 lần, lại gặp tổ Huệ Khả đích thân
truyền dạy và giảng kinh Lăng-già theo quan điểm của tông Nhất thừa
thuộc miền Nam Ấn Độ hơn một trăm lần. Từ khi Xung Công học tập kinh
điển, chuyên lấy kinh Lăng-già làm mạng mạch của mình, trước sau giảng
giải gần 200 lần.”(Tục Cao Tăng Truyện, quyển 25).
Trên
lịch sử đang tranh luận sôi nổi về vấn đề tổ Tăng Xán là người có thực
hay không, nhưng căn cứ vào sự phân tích tư liệu của Tục Cao Tăng
Truyện, Truyền Pháp Bảo Ký, Lịch Đại Pháp Bảo Ký, Lăng-già Sư Tư Ký,
Pháp Như Hành Trạng, hoặc Đại Thông Thiền Sư Bi v.v… thì tổ Tăng Xán là
nhân vật lịch sử, lại nói ít nhất là vào cuối thế kỷ VII thì sự truyền
thừa của 5 đời tổ sư Đạt-ma, Huệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín, Hoằng Nhẫn đã
được đa số công nhận. Sau khi tổ Tăng Xán kế thừa tổ Huệ Khả, tiếp tục
lấy Lăng-già làm tâm yếu, nhưng ngài lại “miệng nói huyền học, không ghi
thành văn ký, an nhiên mà tĩnh tọa” (Lăng-già Sư Tư Ký).
Tổ Đạo Tín và tổ Hoằng Nhẫn sáng lập ra
pháp môn Đông Sơn, phát triển rộng ra một bước thuyết Lăng-già Sư. Tổ
Đạo Tín thừa nhận rằng: “Nói đến pháp môn Đông Sơn của tôi thì phải y cứ
vào kinh Lăng-già, đó chính là đệ nhất tâm của chư Phật”. Kiên trì quan
điểm của kinh Lăng-già, nương giáo ngộ tông, trong ngoài tương trợ, lí
sự tương dung. Trên nguyên tắc thì tổ Hoằng Nhẫn vẫn lấy kinh Lăng-già
làm kinh điển y cứ. Trong Lăng-già Sư Tư Ký ghi rằng: “Tổ Hoằng Nhẫn đem
ý nghĩa Lăng-già để khai thị cho các môn đồ: “Ta và Thần Tú cùng biện
luận về kinh Lăng-già, huyền lí thông dung, ắt đạt được nhiều lợi lạc.”
Trong bản Đàn Kinh (Kinh Pháp Bảo Đàn) ở động Đôn Hoàng lại ghi chép như
vầy: “Vào lúc sáng sớm, tổ Hoằng Nhẫn gọi Lô Cung Phụng đến vẽ Lăng-già
Biến Tướng Đồ trước hành lang phía Nam, nhưng sau đó nhìn thấy bài thi
kệ của tổ Huệ Năng bèn bỏ ý định này. Do đây tổ Đạo Tín và tổ Hoằng Nhẫn
vẫn tiếp tục truyền thống vốn có của tổ Đạt-ma, lấy kinh Lăng-già làm
kinh điển căn bản, chỉ là vào lúc ấy đồng thời cũng xuất hiện xu hướng
dần chuyển sang Kinh Kim Cang. Nói một cách nghiêm túc thì Bắc tông của
lịch sử thiền học vẫn tiếp tục thiền học Lăng-già. Thần Tú tự xưng là đã
bẩm thọ pháp môn Đông Sơn, thiền pháp ấy vẫn có đầy đủ bản sắc của việc
phụng trì Lăng-già làm tâm yếu. Huyền Trách, một trong những đệ tử của
tổ Hoằng Nhẫn vì tuyên truyền thiền học của hệ thống Lăng-già Sư mà đặc
biệt soạn ra quyển “Lăng-già Nhân Pháp Chí”. Đệ tử của Huyền Trách là
Tịnh Giác cũng dựa vào nền tảng này mà biên soạn quyển “Lăng-già Sư Tư
Ký” , liệt kê ra biểu đồ thế hệ của Lăng-già Sư Tư, biểu đồ thế hệ này
không chỉ xem Thần Tú là truyền nhân của Lăng-già Sư mà còn xem đệ tử
của Ngài là Phổ Tịch, Cảnh Hiền, Nghĩa Phúc v.v... làm thế hệ sau của
Lăng-già Sư. Việc này cũng có lí do của nó.
Có
người xem “thời kỳ Lăng-già Sư Thừa” trước khi thiền tông được thành
lập là lịch sử của Lăng-già Tông, cho rằng “từ tổ Đạt-ma đến Thần Tú đều
là tông Lăng-già chính thống”(Hồ Thích trong Lăng-già Tông Khảo), trên
thực tế đây là một sự hiểu lầm, trong lịch sử căn bản không có tồn tại
cái được gọi là Lăng-già Tông.
Chánh điện chùa Ngũ Tổ Thiền ở Huỳnh
Mai, Hồ Bắc. Chùa Ngũ Tổ Thiền được xây dựng vào năm 654 công nguyên
(năm thứ 5, niên hiệu Vĩnh Huy, đời nhà Đường), là đạo tràng của Ngũ Tổ
Hoằng Nhẫn, vị tổ sư thứ năm của thiền tông Trung Quốc, đây cũng là nơi
Lục Tổ Huệ Năng đắc pháp và được truyền thụ y bát. Trên lịch sử, chùa
này từng sắc phong là” Thiên hạ tổ đình”, trên nóc chính điện chùa kiến
trúc theo kiểu Ẩm Sơn có hai lớp mái vòm, tường màu vàng ngói màu lam.
Trước chánh điện còn có bia đá khắc “Thiên hạ Thiền lâm” do Tống Huy
Tông thủ bút, biểu hiện được thanh uy pháp môn Đông Sơn của Ngũ Tổ.