Chúng ta, những người hậu học, chúng
ta hãy thử không chấp nê vào từ ngữ, và nghiên cứu xem những gì là mới, là sáng
tạo mà các Tổ Sư đã đem lại cho nội dung và hình thức của Thiền Như Lai, tức là
Thiền Nguyên Thủy, như chúng ta có thể biết rõ trong các bài kinh nổi danh, như
"Kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthana-sutta)" Trung Bộ 1 trang 96. Các Kinh
"Nhập tức xuất tức niệm", "Thân hành Niệm", "Ðại kinh
bốn mươi" (Trung Bộ III, trang 194, 206, 184) v.v...
Tư tưởng cơ bản không có gì thay
đổi.
Hãy dẫn chứng các đoạn điển hình
trong một số Kinh Nguyên Thủy:
"Các niệm và tư duy thuộc về
thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa,
chuyên nhứt, định tỉnh. Như vậy, này các Tỳ Kheo, vị Tỳ Kheo tu tập thân hành
niệm. (Kinh Thân Hành Niệm, Trung Bộ III, trang 207)
Chúng ta thấy qua đoạn kinh trên,
mục đích của Thiền là an trú, chuyên nhất, định tỉnh nội tâm và phương pháp là
đoạn trừ các niệm và tư duy thuộc thế tục.
Khi trình bày bốn cấp thiền của sắc
giới, Ðức Phật nói cụ thể hơn ở cấp Tứ Thiền của sắc giới, hành giả thành tựu
được cái gọi là xả niệm thanh tịnh, tức là ở trong hành giả, chỉ còn lại một
bầu nội tâm trong sáng vắng lặng (thanh tịnh) và bất động, nghĩa là xả bỏ mọi
niệm khả dĩ làm cho nội tâm không được thanh tịnh, định tỉnh, chuyên nhứt.
Xả bỏ những niệm gì? Trước nhất ở
cấp sơ thiền, xả bỏ mọi niệm bất thiện, mọi dục vọng, thèm muốn thế tục (ly
dục, ly bất thiện pháp). Thứ hai, xả bỏ tầm và tứ, tức là mọi niệm hướng tới
bất cứ một đối tượng nào. Tầm và Tứ chính là hoạt động bình thường của tâm thức
chúng ta, hướng tới đối tượng là tầm, tập trung vào đối tượng ấy là tứ, rất có
thể là thiện, khi chúng ta nghĩ điều hay, việc lành, nhưng nó làm tâm chúng ta
động, cho nên hại cho định tâm. Muốn thành tựu định tâm, hưởng được tâm hỷ, lạc
do định tâm, phải loại bỏ tầm và tứ. Ðó chính là câu thường gặp trong các kinh
nguyên thủy: "Tỳ kheo ấy diệt sạch tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai,
không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm.... " (Kinh Thân Hành Niệm đã dẫn,
trang 212)
Do xả được tầm và tứ mà hành giả có
được định tâm, và hưởng được niềm vui do định tâm, như trong kinh nói:
"Chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh". Thế
nhưng, sự định tâm vẫn chưa được hoàn hảo, cho nên hành giả tiếp tục xả luôn cả
tâm trạng hỷ để chứng thiền thứ ba (Tỷ kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác,
thân cảm lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là " Xả niệm lạc trú" chứng và
trú thiền thứ ba - Kinh đã dẫn, trang 212).
Do xả hỷ mà hành giả đạt tới cảnh
giới "Xả niệm lạc trú" thế nhung hành giả nhận thấy, tuy bỏ hỷ, nhưng
vẫn còn lạc, còn động tâm, tuy là một động tâm rất nhỏ nhiệm vi tế, cho nên,
hành giả xả lạc, để chứng cấp thiền thứ tư "không khổ không lạc, xả niệm
thanh tịnh".
Có thể nói, các Tổ về sau không nói
gì hơn được về tiến trình biến chuyển nội tâm qua các cấp thiền của sắc giới.
Như là đúc Phật đã trình bày trong các Kinh Nguyên thủy. Ở đây, chúng ta không
cần nói tới các cấp thiền của Vô sắc giới, trong đó, hành giả phá bỏ mọi sắc
tưởng, mọi đối ngại tưởng, chứng hư không vô biên xứ, thức vô biên xứ, không vô
sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ và diệt thọ tưởng định....
Sở dĩ, tôi dẫn chứng các cấp thiền
của vô sắc là bởi vì trong bài Tọa Thiền Luận của Trần Thái Tông, có những câu
như:
"Liễu sinh không lý, chứng
thiên chân đạo nhi tu giả, thị tiểu giáo thiền. Ðạt nhân pháp không nhi tu giả,
thị đại giáo thiền. Kim hậu học chi nhân tu dĩ đại giáo thiền vi chính. Thử tập
tọa thiền tức niệm, vật sanh kiến giải nhi".
Ðại ý, vua Trần Thái Tông phân biệt
thiền tiểu thừa là tu thiền mà còn chấp pháp là thực, tuy đã ngộ thân năm uẩn
là không có thực. Còn tu thiền đại thừa là tu thiền mà không còn chấp các pháp
là có thực, nghĩa là cả chánh y bào đều là không, thân năm uẩn là không, ngoại
trần cũng là không... Thực ra, tư tưởng cơ bản của các kinh nguyên thủy là Vô
Ngã, nhân cũng vô ngã mà cả y báo cũng là vô ngã, nghĩa là không
thật có, không đáng chấp trước, chấp thủ.
Trong các Kinh Nguyên Thủy như các
kinh Tiểu Khổ Uẩn, Ðại Kinh Khổ Uẩn, Ðức Phật khuyên các đệ tử nên xuất ly các
dục, vì các dục là nguy hiểm. mặc dù có vị ngọt, là bởi vì đối tượng sắc thanh
hương vị xúc pháp của các dục là vô thường, khổ, không, vô ngã... Ðó là tư
tưởng căn bản của đạo đức Phật Giáo, là mục đích trước mắt gần gũi của sơ thiền
sắc giới là ly dục, ly pháp bất thiện.
Cho nên, theo tôi suy nghĩ, nếu
trong thời Phật Giáo bộ phái, có một bộ phái nào đó tách khỏi Thượng Tọa Bộ,
chấp rằng các pháp là thật có, thì đó quyết không phải là giòng tư tưởng chính
thống của Phật Giáo Nguyên Thủy. Ðiều này thật rõ ràng, đối với những ai có đọc
và nghiên cứu các kinh Nguyên Thủy. Tư tưởng cơ bản của Phật Giáo Nguyên Thủy
là Vô Ngã, đối với chánh báo cũng như y báo, đối với các loài hữu tình
cũng như thế giới vô cơ, tất cả đều là Vô thường, Khổ, Không, vì không có thực
thể, do nhân duyên sanh.
Nói tóm lại, tư tưởng cơ bản của
Phật Giáo, của thiền học từ khi đức Phật còn tại thế vẫn không có gì thay đổi,
tức là Chân Lý tối hậu là siêu ngôn ngữ, siêu tư duy cho nên tự mỗi người phải
thể hội qua nếp sống đạo đức và tu tập thiền định, đạt tới chỗ dứt bỏ mọi vọng
niêm, xả ly mọi kiến giải, kiến thủ, trên thực tế chỉ là lý luận suông, (Trần
Thái Tôn nói là chớ có kiến giải). Nhưng muốn vậy, phải trên cơ sở tránh mọi
điều ác, làm mọi điều lành (giữ giới), thì mới có thể làm cho nội tâm trở thành
vắng lặng, sáng suốt được (Tự tịnh kỳ ý). Vắng lặng là định, cũng gọi là Chỉ
(nghĩa là ngưng chỉ mọi niệm). Sáng suốt là Tuệ, cũng tức là Quán.
Nội dung của Thiền định là Chỉ
Quán . Hồi Phật còn tại thế là như vậy, hồi ngài Thiên Thai viết cuốn
"Chỉ quán nhập môn" cho tới bây giờ, các nhà Phật học bàn về thiền ở
Nhật, Trung Hoa hay là Thái, Miến Ðiện, Sri Lanka v.v... cũng chỉ bàn Chỉ
và Quán mà thôi. Và khi bàn, danh từ có thể đổi thay, thế
nhưng nội dung cũng không có gì đáng gọi là mới. Nội tâm chúng ta xao động vì
chạy theo ngoại trần, do đó phải ngồi thiền nơi vắng lặng, giữ các căn không
tiếp xúc với ngoại trần, cột niệm của mình, tức là tư tưởng của mình vào một
đối tượng để nó khỏi chạy lung tung... Trong Kinh "Bốn Niệm Xứ", Phật
dạy cột niệm vào bốn đối tượng, tức là thân, cảm thọ, tâm và pháp. Như vậy, Ðức
Phật dạy phép chỉ quán đồng tu, mà mục đích tu tập Bốn niệm xứ cũng chỉ là:
- "Tỉnh giác, chánh niệm, chế
ngự tham ưu ở đời". (Kinh Niệm Xứ, Trung Bộ 196)
- "Ðoạn trừ các niệm và tư duy
thuộc về thế tục". (Kinh Thân Hành Niệm, Trung Bộ III . 206)
- "Ðoạn trừ tham ưu, sau khi
thấy với trí tuệ, khéo nhìn sự vật với niệm xả ly" (Kinh Nhập Tức Xuất Tức
Niệm, Trung Bộ III).
a) Cuốn Ðại Trí Ðộ Luận của Ngài
Long Thọ, nói về Thiền có điểm gì mới?
"Kẻ thực hành thiền quán biết
giác và quán là thiện pháp, nhưng chúng nhiễu loạn định tâm...
"Nếu có Tỷ kheo rời dục và các
pháp bất thiện, có giác có quán, sống hỷ và lạc thì vào được thiền thứ
nhứt.."
Ở đây, chỉ có sự thay đổi danh từ
dịch. Vitarka và Vicara chữ Phạn, về sau được dịch là tầm và tứ. Thời Long Thọ
dịch là giác và quán. Vào sơ thiền, ly dục ly bất thiện pháp, được hỷ lạc,
nhưng còn tầm và còn tứ... (tức là còn giác và quán).
Trí Ðộ Luận viết tiếp: "Khi
giác và quán diệt, thì bên trong thanh tịnh, cột tâm vào một chỗ, không còn
giác, không còn quán, định sanh hỷ và lạc, thời vào được thiền thứ hai".
Có thể nói, Phật nói về sơ thiền như
thế nào thì Long Thọ nói lại y nguyên như vậy, không gì gọi là thêm mới.
b) Luận Sư Vô Trước (Asanga) trong
cuốn Sravakabbumi,
giải thích về mục đích của Phật dạy phép bốn niệm xứ: "Ðể đối trị nhận
thức sai lầm về cái không trong sạch lại cho là trong sạch, Phật dạy phép niệm
thân, quán thân.. Ðể đối trị nhận thức sai lầm cái khổ lại cho là vui, Phật dạy
phép niệm thọ, quán thọ. Ðể đối trị nhận thức sai lầm cái vô thường lại cho là
thường, Phật dạy phép quán tâm, niệm tâm. Ðể đối trị nhận thức sai lầm chấp các
pháp là có ngã, có thực, Phật dạy phép quán pháp, niệm pháp..." Như vậy,
là Vô Trước giải thích về Bốn Niệm xứ, làm cho rõ mục đích của phép tu Bốn niệm
xứ mà thôi.
c) Santideva tức là Thanh Thiên
trong chương XIII bộ Luận Siksasammuccaya,
giải thích về phép Bốn Niệm xứ, có hơi khác với Vô Trước đôi chút. Cần nhắc lại
Santideva là đệ tử của Long Thọ thuộc Không Tông, còn Vô Trước cùng với Thế
Thân là người sáng lập ra Du Già Tông tức Duy Thức Tông. Và hai tông này không
phải là nhất trí với nhau hoàn toàn. Santideva viết là: "Mục đích của phép
quán thân bất tịnh, suy già là để liên hệ tới pháp thân thường trú, vĩnh hằng
của Phật; khi quán thọ, vì Bồ Tát liên hệ tới chúng sanh đang bị cảm thọ chi
phối và mở rộng lòng đại bi đối với họ; khi quán tâm vị Bồ Tát quán thấy mọi
hành tướng của tâm như là ảo ảnh; và khi quán các pháp, vị Bồ Tát thấy mọi pháp
đều là vô ngã, không có thực thể."
d) Cuốn "Tu Tập Chỉ Quán Toạ
Thiền Pháp Yếu Giảng Thuật "
của Pháp Sư Bảo Tịnh có giới thiệu khá
chi tiết phép Thiền Quán của Tông Thiên Thai, như Ðại sư Trí Khải dạy. Theo
tôi, ngoài sự sắp xếp các mục có vẻ mới ra, còn nội dung không có gì mới hơn,
cụ thể hơn những gì Phật dạy trong các Kinh Nguyên Thủy. Về Chỉ tức
là phương pháp làm cho tâm không bị tán loạn, không chạy theo ngoại trần, đại
sư Trí Khải giảng ba phương pháp:
1) Hệ Duyên Thủ Cảnh Chỉ: Tức
là cột tưởng, hay là cột niệm vào một đối tượng như là đầu lỗ mũi, đầu lỗ rốn
(đan điền), hay một câu, một chữ thường gọi là thoại đầu, hay là tượng ảnh
Phật, Bồ Tát. Kinh Nguyên Thủy thì dạy cột niệm vào hơi thở, hay cột niệm vào
bốn xứ như trên đã phân tích.
2) Chế Tâm Chỉ: Tức là trong nội tâm, khởi lên niệm gì, đều xả bỏ hết, ngài
Trí Khải dùng từ phóng bạ, nghĩa là không chấp thủ, không nắm lấy, không vướng.
3) Thế Thân Chỉ: Tức là quán
nhân duyên, bất cứ sự gì, vật gì, hiện tượng gì chúng ta nghĩ tới đều là nhân
duyên sanh, nghĩa là vô ngã, không có thực, cho nên không đáng tham đắm, chấp
trước.
Như chúng ta thấy ở ba mục nầy, ngài
Trí Khải kết hợp Chỉ và Quán, như Phật đã làm ngay từ đầu, với kinh Niệm Xứ:
"Quán thân trên thân, quán thọ trên thọ....."
Về phép Quán, ngài Trí Khải cũng
phân biệt hai loại:
1) Ðối trị Quán: Như quán bất tịnh để đối trị lòng
tham, quán từ bi đối trị lòng giận, quán sổ tức (đếm hơi thở) đối trị vọng niệm
và động niệm.
2) Chánh Quán: Cũng tức là nhân duyên quán, tức là
quán trực tiếp tất cả mọi pháp đều là nhân duyên sanh, cho nên không có thực
thể, rỗng không, hư giả, hết thảy các tướng như kinh Kim Cang nói, đều là hư
vọng, nếu quán thấy được hết thảy các tướng đều là phi tướng, như vậy mới thấy
được thực tướng v.v...
Nói tóm lại, nội dung chỉ quán theo
tông Thiên Thai là như vậy, thực ra không có gì mới mẻ so với Thiền Nguyên
Thủy.
e) "Zen Training". Cuối cùng tôi muốn giới thiệu vài nội dung trong cuốn
"Zen Training" của Thiền sư Nhật Katsuki Ikeda. Một cuốn "Luyện
thiền" (Ðầu đề cuốn sách) so với cuốn sách Thiền của tông Thiên Thai thì
mới hơn nhiều, bởi vì nếu tôi không nhầm thì vị Thiền sư Nhật này hiện còn
sống, từng giảng Thiền ở Nhật và Hạ Uy Di trong nhiều năm. Theo ông, có hai
loại Samadhi: Samadhi tích cực và Samadhi tuyệt đối. Khi chúng ta tập trung tư
tưởng không xao lãng vào bất cứ một đối tượng hay công việc gì, thì đó là
Samadhi tích cực. Có thể nói, bất cứ người nào muốn làm việc gì có hiệu quả,
đều mặc nhiên thực hành Samadhi tích cực. Loại này ông Ikeda không bàn nhiều.
Ông chỉ nói, để có được Samadhi tích cực, thì một cách không tự giác, chúng ta
phải giữ thân bất động, phải nín thở hay là thở nhẹ đều... Như vậty, ông Ikeda
kết luận là để thành tựu định tâm nói chung, phải có sự phối hợp của cả thân và
hơi thở. Và ông nói muốn đạt tới cảnh giới Samadhi tuyệt đối nghĩa là một cảnh
giới nội tâm hoàn toàn bình lặng, mà ông gọi là vô niệm (Kinh Nguyên
Thủy nói tịnh chỉ Tầm và Tứ), thì phải ngồi thiền, đạt tới thân bất động và thở
đều, lúc đầu thì đếm hơi thở, rồi sau theo dõi hơi thở, tập mãi đến lúc không
còn cảm giác về thân nữa, cũng không còn cảm thọ nữa, một tình trạng mà thiền
sư gọi là off sensation nghĩa là không còn có thọ nữa, cũng không còn có
tưởng nữa, bởi lẽ mọi hoạt động của tâm thức đều ngưng chỉ. Tình trạng bình
lặng nội tâm đó được gọi là tình trạng tồn tại thuần túy (pure existence).
Tôi nghĩ, đó chỉ là cảnh Nhị thiền mà Phật đã
nói tới trong các kinh Nguyên Thủy mà thôi, chứ không có gì mới lạ./.