Như Lai Thiền trong kinh tạng Pàli, hay "Hành Thiền, một
nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng", là
một công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến Như Lai Thiền mà không đề cập đến Tổ
Sư Thiền. Ở đây chúng tôi hạn chế trong Kinh Tạng Pàli mà không đề cập đến
A-tỳ-đàm - Tạng Pàli, với chủ đích muốn giới thiệu cho các Phật tử hiểu rõ
Thiền nguyên thủy là gì, trước hết là ngang qua kinh nghiệm bản thân của đức
Phật khi ngài chưa thành Đạo, khi Ngài thành Đạo, trong suốt 45 năm thuyết pháp
và cuối cùng khi Ngài nhập Niết-bàn. Tiếp đến chúng tôi giới thiệu pháp môn
Thiền ngang qua những lời dạy của Ngài trong kinh điển, chú trọng giới thiệu
pháp môn Thiền như là một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo
dục hướng thượng có thể ứng dụng ngay trong đời sống hiện tại, vừa là một tiến
trình đưa đến giải thoát và giác ngộ. Cuối cùng, chúng tôi xin giới thiệu một
pháp môn Thiền: Pháp môn Anapànasati, niệm hơi thở vô hơi thở ra, một Pháp môn
Thiền nguyên thủy do đức Phật giảng dạy, một pháp môn Chỉ quán, Định Tuệ song
tu mà mọi người có thể thực hành, ngay trong hiện tại đối với bản thân mình.
Mọi
trình bày của chúng tôi đều nêu rõ xuất xứ, trích từ trong Kinh tạng Pàli nào,
để xác chứng đó là những lời dạy của đức Phật, chứ không phải là những sản phẩm
tưởng tượng của diễn giả, và giúp cho những ai muốn tự mình nghiên cứu tư liệu
cũng có thể truy nguyên đến nguồn gốc một cách chính xác.
Trước
hết, chúng tôi xin trình bày: Những kinh nghiệm cá nhân của đức Phật về
Thiền.
Thiền
là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của
Ngài, không một ai dạy cho Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp
cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoát và giác ngộ, rất độc đáo, tuyệt diệu;
đó là pháp môn: Giới Định Tuệ.
Kinh
nghiệm Thiền đầu tiên của đức Phật là khi Ngài đến học đạo với Alara Kalama về
pháp môn Vô-sở-hữu-xứ, và học đạo với Uddaka Ramaputta về pháp môn Phi-tưởng
Phi-phi-tưởng-xứ. Hai pháp môn Thiền ngoại đạo, Ngài học, Ngài hành, Ngài chứng
và được hai vị ngoại đạo sư xác nhận là đã thật chứng.
Nhưng
Ngài nhận thấy hai pháp môn ấy không đem đến giải thoát nên Ngài đã bỏ đi. Hai
vị ngoại đạo sư ấy xác nhận: "Pháp mà tôi tự tri, tự chứng, tự đạt và
tuyên bố, chính pháp ấy hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú. Pháp mà
hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú, chính pháp ấy tôi tự tri, tự
chứng, tự đạt và tuyên bố. Pháp mà tôi biết, chính pháp ấy hiền giả biết; Pháp
mà hiền giả biết, chính Pháp ấy tôi biết. Tôi như thế nào, hiền giả là như vậy;
hiền giả như thế nào, tôi là như vậy. Nay hãy đến đây, hiền giả! Hai chúng ta
hãy chăm sóc hội chúng này". Như vậy, này các Tỷ-kheo, Alara Kalama là đạo
sư của Ta, lại đặt Ta, đệ tử của người ấy ngang hàng với mình, và tôn sùng Ta
với sự tôn sùng tối thượng. Này các Tỷ-kheo, rồi ta tự suy nghĩ: "Pháp này
không hướng đến yếm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt,
không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ,
không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Vô sở hữu xứ. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, Ta không tôn kính Pháp này, và từ khước pháp ấy, Ta bỏ
đi" (Trung Bộ Kinh).
Kinh
nghiệm thứ hai là kinh nghiệm của đức Phật khi chưa thành Đạo, Ngài muốn đoạn
trừ các dục, nhưng vì Ngài chưa hành Thiền, nên chưa đoạn trừ được tham sân si,
như đoạn kinh sau đây nêu rõ: "Này Mahànàma, thuở xưa, khi Ta còn là vị
Bồ-tát, chưa chứng được Bồ-đề, chưa thành Chánh đẳng, Chánh giác, Ta khéo thấy
như thật chánh kiến: "Các dục, vị ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở
đây nhiều hơn". Dầu ta khéo thấy với như thật chánh kiến như vậy, nhưng Ta
chưa chứng được hỷ lạc do ly dục, ly bất thiện pháp sanh, hay một pháp nào khác
cao thượng hơn, và như vậy, Ta biết rằng ta chưa khỏi bị các dục chi phối. Và
này Mahànàma, khi nào Ta khéo thấy với như thật chánh quán: "Các dục, vui
ít, khổ nhiều, não nhiều, và sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn". Và ta
chứng được hỷ lạc do ly dục, ly bất thiện pháp sanh, hay một pháp nào cao
thượng hơn, như vậy ta mới khỏi các dục chi phối" (Trung Bộ Kinh)
Kinh
nghiệm này nêu rõ, chỉ một mình như thật quán các dục là vui ít khổ nhiều chưa
đủ, phải có hành Thiền, tức là chứng được hỷ lạc do ly dục sanh mới có thể
nhiếp phục và đoạn trừ các dục. Chính do kinh nghiệm này, đức Phật sau này đã
hành Thiền định để nhiếp phục các dục và đã thiết lập pháp môn Giới Định Tuệ,
trong ấy có Thiền để đưa hành giả đi đến giác ngộ giải thoát.
Kinh
nghiệm thứ ba của Sa-môn Gotama là khi tu hành sáu năm khổ hạnh đã xong, Ngài
nhận thấy khổ hạnh không đưa con người đến giác ngộ và giải thoát, nên Ngài đã
từ bỏ khổ hạnh và đi đến Uruvela.
Tại
đây, Ngài tìm thấy một địa điểm khả ái, có con sông trong sáng chảy gần, một
khóm rừng thoải mái, một trú xứ thuận tiện để hành Thiền. Ngài chọn lựa địa
điểm ấy và quyết định ngồi xuống tại đấy để tu trì. Nhưng ba ví dụ đã khởi lên,
giúp Ngài hiểu rõ phải hành Thiền như thế nào mới có kết quả.
Ví
dụ thứ nhất, một người cầm lửa lấy một khúc cây đẫm ướt đầy nhựa sống, đặt vào
trong nước rồi cọ xát với dụng cụ làm lửa để nhen lửa. Lẽ dĩ nhiên, với điều
kiện này, lửa không thể nhen nhúm được.
Ví
dự thứ hai cũng giống như trên, lần này khúc cây vẫn đẫm ướt, vẫn đầy nhựa
sống, nhưng được vớt ra khỏi nước, nếu có cọ xát với dụng cụ làm lửa để nhen
lửa, lẽ dĩ nhiên với điều kiện này lửa cũng không thể nhen nhúm được.
Ví
dụ thứ ba nói đến khúc cây không có nhựa, được vớt khỏi nước, và đặt trên đất
khô. Nếu người này cọ xát khúc cây ấy với dụng cụ làm lửa, thời lửa có thể hiện
ra. Ví dụ này giới thiệu cho Sa-môn Gotama rõ là muốn hành Thiền cho có hiệu
quả thời phải ly dục, ly bất thiện pháp mới hy vọng chứng quả như đã ghi trong
đoạn kinh Trung Bộ:
"Này Aggivessana, những tôn giả
Sa-môn hay Bà la môn nào sống không xả ly các dục vọng về thân, về nội tâm chưa
được khéo đoạn trừ, chưa được khéo làm cho nhẹ bớt, những tôn giả Sa-môn hay
Bà-la-môn ấy không có thể chứng được Vô thượng Chánh đẳng giác... Nếu tôn giả
Sa-môn hay Bà-la-môn nào sống xả ly các dục vọng về thân... và nội tâm đã được
khéo đoạn trừ, đã được khéo làm cho nhẹ bớt, những tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn
ấy có thể chứng được tri kiến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác".
Ba
ví dụ trên đã giới thiệu cho Sa-môn Gotama biết là muốn hành Thiền cho có kết
quả thì phải ly dục, ly bất thiện pháp. Do vậy, sau này khi dạy về hành Thiền
điều kiện tiên quyết của hành Thiền phải làm là "ly dục, ly bất thiện
pháp". Còn đắm say các dục, còn làm các hạnh bất thiện, thì không thể hành
Thiền cho có kết quả. Những kinh nghiệm quí báu này điều được đức Phật áp dụng
khi Ngài giảng dạy về Thiền.
Một
kinh nghiệm nữa đến với Sa-môn Gotama: Sau khi tu hành khổ hạnh trong 6 năm
không có kết quả, Ngài tự hỏi có con đường nào khác có thể đưa Ngài đến giác
ngộ, và sau đây là những lời ghi nhận của Ngài khi Ngài hướng tìm một con đường
khác, như đã ghi trong Đại kinh Saccaka, Trung Bộ Kinh:
"Nhưng ta với sự khổ hạnh khốc
liệt như thế này vẫn không chứng được pháp thượng nhân, tri kiến thù thăng xứng
đáng bậc Thánh. Hay là có con đường nào khác đưa đến giác ngộ?".
"Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ
như sau: "Ta biết, trong khi phụ thân Ta, dòng họ Thích Ca, đang cày và Ta
đang ngồi dưới bóng mát cây Diêm phù đề. Ta ly dục ly bất thiện pháp, chứng và
trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ, khi an
trú như vậy Ta nghĩ: "Theo con đường này có thể đưa đến giác ngộ
chăng"? Và này Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi
Ta: "Đây là con đường đưa đến giác ngộ".
Với
kinh nghiệm này, Sa-môn môn Gotama thực hành Thiền định chứng Sơ thiền, Thiền
thứ hai, Thiền thứ ba, Thiền thứ tư. Rồi đến Thiền thứ tư, Ngài hướng tâm và
chứng được ba minh và cuối cùng, Ngài thành Đạo, chứng được Thánh quả, thành
bậc Chánh giác.
Chúng
tôi ghi chép sau đây kinh nghiệm hành Thiền, chứng đạo của Ngài như đã được ghi
trong Đại Kinh Saccaka:
"Và này Aggivessana, sau khi ăn
thô thực và được sức lực trở lại, Ta ly dục ly bất thiện pháp, chứng và trú
Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm có tứ. Này
Aggivessana, như vậy là thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối
tâm Ta. Diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do
định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này Aggivessana, như vậy lạc
thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Ly hỷ trú xả,
chánh niệm tĩnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc
trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi
Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Xả niệm xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm
thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta".
Rồi
với tâm định tĩnh trong Thiền thứ tư ấy, Sa-môn môn Gotama hướng tâm đến Túc
mạng minh, đến Thiên nhãn minh, đến Lậu tận minh:
"Nhờ hiểu biết như vậy, tâm của Ta
thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân
đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát". Ta
đã biết: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành. Việc cần làm đã làm. Không còn
trở lui trạng thái này nữa". Này Aggivessana, đó là Minh thứ ba, Ta đã
chứng được trong canh cuối, vô minh diệt minh sanh, mê tối diệt ánh sáng sanh,
do ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần" (Trung Bộ Kinh).
Sau
khi đức Phật thành Đạo, nếp sống đặc biệt của Ngài như đã được diễn ra trong
Kinh tạng Pàli là thuyết pháp độ sanh, và hành Thiền giải thoát. Thật sự ở nơi
đây hai hình ảnh linh động nhất của bậc giáo chủ đạo Phật là thuyết Pháp và
hành Thiền. Trong đời sống hàng ngày của đức Phật, ngoài trách nhiệm thuyết
Pháp độ sanh, đức Phật hoàn toàn sống đời sống hành Thiền. Buổi sáng đi khất
thực, độ ngọ xong, Ngài đi sâu vào rừng núi để hành Thiền. Buổi chiều, đức Phật
thường từ Thiền tịnh độc cư đứng dậy, tức là buổi chiều Ngài cũng hành Thiền.
Ban đêm, trong canh một Ngài đi kinh hành. Trong canh hai, Ngài đi kinh hành và
ngồi Thiền. Canh ba, Ngài nằm nghỉ với dáng nằm con sư tử. Ngài thức dậy, lại
đi kinh hành và ngồi Thiền. Khi Ngài nhập Niết bàn, Ngài cũng từ nơi cảnh Thiền
định mà nhập Niết bàn: "Xuất Thiền thứ tư, Ngài nhập định Thiền thứ ba.
Xuất Thiền thứ ba, Ngài nhập định Thiền thứ hai. Xuất thiền thứ hai, Ngài nhập
định Sơ Thiền. Xuất Sơ Thiền, Ngài nhập định Thiền thứ hai. Xuất Thiền thứ hai,
Ngài nhập định Thiền thứ ba. Xuất Thiền thứ ba, Ngài nhập định Thiền thứ tư.
Xuất Thiền thứ tư, Ngài lập tức Nhập diệt" (Trung Bộ Kinh).
Và
chúng ta thường gặp hai lời khuyên này của đức Phật cho các Tỷ-kheo xuất gia: "Này
các Tỷ-kheo, khi các người hội họp lại, thường có hai việc phải làm: một là đàm
luận về Phật pháp, hai là giữ im lặng của một bậc Thánh" (Trung Bộ Kinh).
Và sự im lặng của các bậc Thánh ở đây là hành Thiền.
Lời
dạy thứ hai là lời khuyên hành Thiền của đức Phật: "Này các Tỷ-kheo,
đây là những gốc cây, đây là những căn nhà trống. Này các Tỷ-kheo, hãy tu
Thiền, chớ có phóng dật, chớ có sanh lòng hối hận về sau. Đây là lời giáo giới
của Ta cho các người". Và khi sắp Niết-bàn, đức Phật nhắc đi nhắc lại
nếp sống của một Tỷ-kheo tối thắng là tu Thiền định, Thiền quán:
"Và này Ananda, ở đời Tỷ-kheo quán
thân trên thân... quán thọ trên các cảm thọ.... quán tâm trên tâm... quán pháp
trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ưu ở đời.
Như vậy này Ananda, Tỷ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình y tựa
chính mình, không y tựa một vị khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh
pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác. Những vị ấy, này Ananda,
là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo của Ta" (Trường Bộ Kinh, Kinh
Đại Bát Niết Bàn).
Lời
dạy nầy của đức Phật chính là một lời khuyên tu Thiền và hành Thiền.
Với
một bậc Đạo sư, trước khi thành Đạo đã có nhiều kinh nghiệm về Thiền như vậy,
đã khám phá ra con đường Giới Định Tuệ đưa đến giác ngộ giải thoát, trong ấy
Thiền chiếm một vị trí quan trọng, cho đến khi thành Đạo và nhập Niết-bàn, cũng
điều là những kinh nghiệm bản thân về Thiền định. Hơn nữa, từ khi thành Đạo cho
đến khi nhập Niết-bàn, Ngài sống một đời sống hằng ngày hành Thiền để hiện tại
lạc trú và sách tấn các đệ tử tu hành, cho đến trong suốt 45 năm thuyết pháp,
lời giảng dạy của Ngài chính là hành Thiền. Đến giờ phút gần nhập Niết-bàn, lời
khuyến khích cuối cùng cho các đệ tử cũng là những lời khích lệ hành Thiền. Đối
với một bậc Đạo sư như vậy, tự nhiên hành Thiền chiếm một địa vị vừa ưu tiên,
vừa quan trọng trong những kinh điển Ngài dạy.
Vậy
nay, chúng ta hãy tìm hiểu Thiền là gì, và hành tướng của Thiền là như thế nào?
Chữ Thiền từ chữ Pàli là Jhàna, từ chữ Sanskrit là Dhyàna, được Ngài
Buddhaghosa định nghĩa như sau: "Aramman, ùpanijjhànato paccanika -
jhàpanato và jhapam" (Thanh Tịnh Đạo, 150) nghĩa là do Thiền trên
các đối tượng lựa chọn, và do đốt cháy những gì đối nghịch nên gọi là Thiền.
Như vậy, Thiền là có nghĩa lựa chọn một đối tượng rồi Thiền tư trên đối tượng
ấy, khiến cho khả năng đốt cháy, thiêu hủy các pháp đối nghịch, ở đây, chỉ cho
các triền cái và các kiết sử phiền não.
Định
nghĩa về Thiền trong các kinh điển thường lồng vào trong khung cảnh Giới Định
Tuệ, và đề cập đến Định tức là Thiền định, tức là Thiền. Những định nghĩa này
có rất nhiều chi tiết và ví dụ, và có thể được phân tích thành những giai đoạn
như sau:
-
Sửa soạn hành Thiền
- Đoạn trừ các triền cái
- Chứng Sơ thiền cho đến Tứ thiền
A.
Sửa soạn hành Thiền
Sau khi thành tựu Giới uẩn, nghĩa là
thành tựu hộ trì các căn, tiết độ trong ăn uống, chú tâm cảnh giác, chánh niệm
tỉnh giác, hành giả: "Lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch như khu rừng, gốc
cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi
khất thực và ăn xong, vị ấy ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú niệm trước
mặt". (Kinh Trung Bộ).
Trong
sự sửa soạn hành Thiền, chúng ta thấy rõ hành giả phải giữ Giới, tức là phải
sống một nếp sống trong sạch và lành mạnh, mới có thể hành Thiền. Nói một cách
khác, hành Thiền chỉ có hiệu quả khi nếp sống của hành Thiền là phải ly dục, ly
bất thiện pháp. Những ai ăn nhiều, ngủ nhiều, tất nhiên khó hành Thiền; những
ai say đắm năm dục, say đắm về rượu men rượu nấu, làm các hạnh bất thiện về
thân, về lời, về ý, tất nhiên khó hành Thiền. Nói tóm lại, người hành Thiền
phải sống một đời sống lành mạnh và trong sạch, thời hành Thiền mới có kết quả.
B.
Đoạn trừ các Triền cái
"Vị
ấy từ bỏ dục tham ở đời, sống với tâm thoát ly dục tham, gội rửa tâm hết dục
tham. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót
tất cả chúng hữu tình, gội rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, với
tâm hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gội rửa tâm hết hôn trầm thụy
miên. Từ bỏ trạo cử hối quá, vị ấy sống không trạo cử hối tiếc, nội tâm trầm
lặng, gội rửa tâm hết trạo cử hối tiếc. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát ly
khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gội rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện
pháp" (Kinh Trung Bộ).
Năm triền cái này có khả năng làm uế
nhiễm tâm và làm yếu ớt trí tuệ, nên phải trừ khử để được sáng suốt và để trí
tuệ được phát triển. Trong kinh Tăng Chi, đức Phật có nêu rõ những pháp giúp
đoạn trừ năm triền cái này:
"Tướng bất tịnh, này các Tỷ-kheo,
nếu như lý tác ý, thời dục tham chưa sanh không sanh khởi và dục tham đã sanh
được đoạn tận... Từ tâm giải thoát, này các Tỷ-kheo, nếu như lý tác ý, thời sân
chưa sanh không sanh khởi, và sân đã sanh được đoạn tận... Người tinh cần tinh
tấn, này các Tỷ-kheo, hôn trầm nhụy miên chưa sanh không sanh khởi, hôn trầm
thụy miên đã sanh được đoạn tận... Người có tâm tịnh chỉ, này các Tỷ-kheo, nghi
hoặc chưa sanh không sanh khởi, hay nghi hoặc đã được sanh đoạn tận".
"Này các Tỷ-kheo, như một người
mắc nợ, liền làm các nghề nghiệp, những nghề này được phát đạt, người ấy không
những trả được nợ cũ, còn có tiền dư để nuôi dưỡng vợ. Người ấy nghĩ: "Ta
trước kia mắc nợ nên ta làm các nghề nghiệp. Những nghề này được phát đạt, ta
không những trả được các nợ cũ, còn có tiền dư để nuôi vợ". Người ấy nhờ
vậy được sung sướng, hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo, như một người bị bệnh đau đớn
trầm trọng, ăn uống không tiêu, thể lực suy yếu. Sau một thời gian, người ấy
khỏi bệnh, ăn uống tiêu thông, thể lực khôi phục. Người ấy nghĩ: "Ta trước
kia bị bệnh, đau đớn trầm trọng, ăn uống không tiêu, thể lực suy yếu. Nay ta
khỏi bệnh, ăn uống tiêu thông, thể lực khôi phục". Người ấy nhờ vậy được
sung sướng hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo, như một người bị nhốt trong ngục, người ấy
sau một thời gian được khỏi tù tội, an lạc kiện toàn, tài sản không bị giảm
tổn. Người ấy nghĩ: "Ta trước kia bị nhốt trong ngục, nay ta được khỏi tù
tội, an lạc kiện toàn, tài sản không bị giảm tổn". Người ấy nhờ vậy được
sung sướng hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo, như một người nô lệ, không được tự chủ, lệ
thuộc người khác, không được tự do đi lại. Người ấy sau một thời gian thoát
khỏi cảnh nô lệ được tự chủ, không lệ thuộc người khác, một người giải thoát,
được tự do đi lại. Người ấy nghĩ: "Ta trước kia bị cảnh nô lệ, không được
tự chủ, lệ thuộc người khác, không được tự do đi lại. Nay ta thoát cảnh nô lệ,
được tự chủ, không lệ thuộc người khác, một người giải thoát, được tự do đi
lại". Người ấy nhờ vậy được sung sướng hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo, như một
người giàu có nhiều tài sản, đang đi qua bãi sa mạc. Người ấy sau một thời gian
đã đi khỏi bãi sa mạc ấy, đến đầu làng, yên ổn, không có nguy hiểm, tài sản
không bị tổn giảm. Người ấy nghĩ: "Ta trước kia giàu có, nhiều tài sản, đi
qua bãi sa mạc. Nay ta đã đi qua khỏi bãi sa mạc ấy yên ổn, không có nguy hiểm,
tài sản không bị tổn giảm". Người ấy nhờ vậy được sung sướng hoan hỷ.
Cũng vậy này các Tỷ kheo, vị Tỷ-kheo tự
mình quán năm triền cái chưa xả ly, như món nợ, như bịnh hoạn, như ngục tù, như
cảnh nô lệ, như con đường qua sa mạc. Này các Tỷ kheo, cũng như không mắc nợ,
như không bị bệnh tật, như được khỏi tù tội, như được tự do, như được đất lành
yên ổn, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán năm triền cái, khi chúng được diệt
trừ".
Như
vậy đối với người hành Thiền, năm triền cái có tác dụng như một gánh nặng, như
một trói buộc và giải thoát chúng có nghĩa là làm vơi nhẹ những gánh nặng và
làm giải tỏa những trói buộc. Khi năm triền cái đã đoạn trừ, người hành Thiền
mới thật sự bước vào Thiền định, do một tiến trình diễn tiến như sau, như được
diễn tả trong kinh Trường Bộ: "Khi quán tự thân đã xả ly năm triền cái,
hân hoan sanh. Do hân hoan nên hỷ sanh; do tâm hoan hỷ, thân được khinh an, do
thân khinh an lạc thọ sanh. Do lạc thọ, tâm được định tĩnh".
C.
Chứng Sơ thiền cho đến Đệ Tứ thiền
Đức Phật giải thích rất tỉ mỉ bốn
Thiền được chứng đắc, theo thứ tự trước sau, cùng với các Thiền chi:
"Sau khi đoạn trừ năm triền cái
này, những triền cái làm ô nhiễm tâm tư, làm yếu ớt trí tuệ, vị ấy ly dục, ly
ác pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với
tầm với tứ. Người ấy thấm nhuần, tẩm ướt làm cho sung mãn, tràn đầy thân này
với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không có hỷ lạc do
ly dục sanh ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, như một hầu tắm lão luyện, hay đệ
tử người hầu tắm, sau khi rắc bột tắm trong thau đồng, liền nhồi bột ấy với
nước, cục bột tắm ấy được thấm nhuần nước ướt, trào trộn với nước ướt, thấm ướt
cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành giọt. Cũng vậy này các
Tỷ-kheo, thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân này với hỷ lạc do
ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh
ấy thấm nhuần".
"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
diệt tầm và tứ chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh,
không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung
mãn tràn đầy thân này với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân
không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, ví như một hồ
nước, nước từ trong dâng lên, phương Đông không có lỗ nước chảy ra, phương Tây
không có lỗ nước chảy ra, phương Bắc không có lỗ nước chảy ra, phương Nam không
có lỗ nước chảy ra, và thỉnh thoảng trời mưa lớn. Suối nước mát từ hồ nước phun
ra, thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy hồ nước ấy với nước mát
lạnh, không một chỗ nào hồ nước ấy không được mát lạnh thấm nhuần. Cũng vậy,
này các Tỷ kheo, vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân
mình, với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ
lạc do định sanh ấy thấm nhuần".
"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ly hỷ trú xả, chánh niệm tĩnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là
xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho
sung mãn tràn đầy thân này với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên
toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, ví như
trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng, có những sen xanh, sen hồng, hay
sen trắng. Những bông sen ấy sanh trong nước, lớn lên trong nước, không vượt
khỏi nước, nuôi sống dưới nước, từ đầu ngọn cho đến gốc rễ đều thấm nhuần, tẩm
ướt, tràn đầy thấu suốt bởi nước mát lạnh ấy, không một chỗ nào của toàn thể
sen xanh, sen hồng hay sen trắng không được nước mát lạnh ấy thấm nhuần. Cũng
cậy này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy
thân này với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không
được lạc thọ không có hỷ ấy thầm nhuần".
"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không
khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Vị ấy thấm nhuần toàn thân mình với tâm
thuần tịnh trong sáng không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần
tịnh trong sáng ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, ví như một người ngồi, dùng tấm
vải trắng trùm đầu, không một chỗ nào trên toàn thân không được vải trắng che
thấu. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị ấy ngồi, thấm nhuần toàn thân mình với thân
thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được thuần tịnh
trong sáng ấy thuấm nhuần".
Với
những đoạn kinh trên, chúng ta có một số nhận xét như sau:
Thiền
là một tập trung tư tưởng trên một đối tượng, nhờ sức tập trung ấy nên có khả
năng thay đổi năm triền cái Dục Tham, Sân, Hôn trầm thụy miên, Trạo hối, và
Nghi, bằng năm Thiền chi, tức là Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất tâm. Tầm thay thế cho
Hôn trầm thụy miên, Tứ thay thế cho Nghi, Hỷ thay thế cho Sân, Lạc thay thế cho
Trạo hối, và Nhất tâm thay thế cho Dục tham.
Tầm
nghĩa là hướng tâm đến đối tượng. Tứ là gắn tâm trên đối tượng. Tâm không còn
chạy theo đối tượng khác, nhờ vậy đối trị được hôn trầm thụy miên và nhờ tâm
được gắn chặt trên đối tượng, nên nghi ngờ phân vân không còn nữa. Tiếp đến là
hai Thiền chi Hỷ và Lạc, Hỷ là tâm thoải mái, và Lạc là thân thoải mái. Như vậy
tu Thiền đem lại tâm thoải mái, thân thoải mái cho hành giả. Hỷ lạc này do ly
dục sanh thấm nhuần cùng khắp thân của hành giả, không một chỗ nào không được
thầm nhuần. Như bọt tắm được nhồi với nước thấm nhuần nước ướt. Như suối nước
mát thấm nhuần tẩm ướt làm cho sung mãn tràn đầy hồ nước. Như các loại bông sen
sanh ra trong nước, lớn lên trong nước, không vượt khỏi nước, từ rễ đến ngọn
đều thầm nhuần nước ướt. Như một người ngồi dùng tấm vải trắng trùm đầu, không
một chỗ nào trên toàn thân không được vải trắng ấy che thấu. Như vậy người hành
Thiền được cảm giác hỷ lạc thấm nhuần toàn thân, và lý do này, Thiền được gọi
là hiện tại lạc trú (Ditthadhammasukhavihàri). Điều có thể làm cho mọi người
bất ngờ là Thiền đưa đến tâm thoải mái, khác với quan niệm của người đời xem
Thiền là cái gì khắc khổ, dị thường, bí mật và trốn đời. Như vậy hai Thiền chi
Hỷ Lạc sẽ thấm nhuần người hành Thiền như là trợ duyên tốt đẹp cho hành Thiền,
và chính Hỷ và Lạc giúp đưa đến Thiền định như chúng ta sẽ thấy theo tiến trình
sau đây:
"Do hân hoan nên hỷ sanh. Do hỷ
sanh nên thân được khinh an. Do thân khinh an nên lạc thọ sanh. Do lạc thọ nên
định sanh" (Kinh Trường Bộ).
Như
vậy định sanh nhờ lạc thọ. Lạc thọ sanh nhờ thân khinh an, thân khinh an là nhờ
tâm hoan hỷ, và tâm hoan hỷ là nhờ tâm hân hoan. Hân hoan, hỷ thọ, lạc thọ đóng
một vai trò quan trọng phát khởi Thiền định, nói một cách khác, trạng thái hỷ
lạc là một trạng thái hỷ lạc ấy đưa đến Thiền định. Do vậy, thật là kỳ lạ khi
nghe nói đến trường hợp tu Thiền bị điên loạn, bị bại chân bại tay, bị nổ con
mắt, v.v.... Vì làm sao mà trạng thái hỷ lạc lại đưa đến những kết quả tai hại
như vậy? Đây là điều không thể có!
Một
nhận xét nữa của chúng tôi là ở Sơ Thiền, năm Thiền chi - tầm, tứ, hỷ, lạc và
nhất tâm - được đầy đủ. Lên Thiền thứ hai, tầm tứ được bỏ rơi. Lên Thiền thứ
ba, hỷ được bỏ rơi. Lên Thiền thứ tư, lạc được xả thay thế và như vậy Thiền thứ
tư chỉ còn xả và nhất tâm. Sự kiện này nói lên trạng thái thanh lọc dần dần các
Thiền chi có khả năng làm cho tâm tư giao động. Ở Sơ Thiền, phải dùng tầm để
hướng tâm đến đối tượng, phải dùng tứ để dán chặt vào đối tượng, do vậy tâm
phải sinh hoạt mạnh mẽ mới khỏi rơi vào hai triền cái hôn trầm thụy miên và
nghi. Vì phải hoạt động mạnh mẽ, nên tự nhiên có giao động. Vì vậy lên Thiền
thứ hai. Tầm tứ bị bỏ rơi và chỉ còn hỷ lạc và nhất tâm. Nhưng hỷ của Thiền thứ
hai cũng làm chi Thiền thứ hai giao động, cho nên lên đến Thiền thứ ba, thời hỷ
bị bỏ rơi, và chỉ còn lại xả niệm lạc trú. Rồi lên đến Thiền thứ tư, lạc cũng
là một yếu tố làm Thiền thứ tư giao động, do vậy lạc được xả thay thế, còn xả
và nhất tâm, và Thiền thứ tư được gọi là xả niệm thanh tịnh.
Đoạn
kinh sau đây (Trung Bộ Kinh) nói lên rõ ràng ba Thiền đầu còn giao động,
chỉ có Thiền thứ tư mới được gọi là bất động:
"Ở đây này Udàyi, Tỷ-kheo ly dục,
ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục
sanh, có tầm có tứ. Thiền này, này Udàyi, Ta nói rằng ở trong tình trạng giao
động. Ở đây chính tầm tứ chưa đoạn diệt, chính tầm tứ này ở trong tình trạng
giao động. Ở đây này Udàyi, Tỷ kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai,
một trạng thái hỷ lạc do định sanh không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Thiền
này, này Udàyi, Ta nói rằng ở trong tình trạng giao động. Và ở đây cái gì giao
động? Ở đây chính là hỷ lạc chưa được đoạn diệt, chính hỷ lạc này ở trong tình
trạng giao động. Ở đây này Udàyi, Tỷ kheo ly hỷ xả trú, chánh niệm tỉnh giác,
thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền
thứ ba. Thiền này, này Udàyi, Ta nói ở trong tình trạng giao động. Và ở đây,
cái gì giao động? Ở đây chính là xả lạc chưa được đoạn diệt. Chính xả lạc này ở
trong tình trạng giao động. Ở đây này Udàyi, Tỷ kheo xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu
đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc xả niệm thanh
tịnh. Thiền, này Udàyi, Ta nói là không ở trong tình trạng giao động".
Đoạn
kinh trên nói lên sự thanh lọc các Thiền chi, từ Thiền thứ nhất đết Thiền thứ
tư.
Một
hình ảnh mới được Đức Phật dùng đến là cây gai, và ở trong Thiền, tiếng động
được xem là cây gai cho Thiền, như đã được diễn tả như sau (Tăng Chi Bộ Kinh):
"Với người chứng Sơ Thiền, tiếng
ồn là cây gai. Với người chứng Thiền thứ hai, tầm tứ là cây gai. Với người
chứng Thiền thứ ba, hỷ là cây gai. Với người chứng Thiền thứ tư, hơi thở vô hơi
thở ra là cây gai. Sở dĩ gọi là cây gai, vì những Thiền chi này làm trở ngại
cho sự nhất tâm của người hành Thiền và không đạt được Thiền chứng mong
muốn".
Tóm
lại, Thiền là một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng
thượng giúp đoạn trừ năm triền cái: dục tham, sân, hôn trầm thụy miên, trạo hối
và nghi, thay thế bằng năm Thiền chi tầm, tứ hỷ lạc và nhất tâm, những tâm tăng
thượng đem lại lạc trú và vì vậy bốn Thiền này cũng được gọi là Tăng thượng
tâm hiện tại lạc trú.
Nay
chúng ta bước qua một vấn đề khác là hành Thiền đem lại những lợi ích gì, hay
nói một cách khác, Thiền định có những công năng gì theo lời đức Phật dạy. Ở
nơi đây, chúng tôi chỉ đề cập đến bốn lợi ích hay bốn công năng của Thiền:
--
Một là Thiền có khả năng đoạn trừ các dục, khiến cho ác ma không thấy đường đi
lối về.
--
Thứ hai là Thiền có khả năng đối trị sợ hãi.
--
Thứ ba là Thiền đem lại Thiền lạc cho người hành giả.
--
Và thứ tư là Thiền đưa đến thành tựu trí tuệ, đưa đến giác ngộ giải thoát, đưa
đến Niết bàn.
Một
công năng của Thiền định là giúp thoát ly được sự chi phối của năm dục trưởng
dưỡng, nghĩa là nhờ Thiền định người hành Thiền đoạn trừ được lòng dục một cách
có hiệu quả. Đoạn kinh sau đây (Kinh Trung Bộ) nêu rõ công năng đoạn dục
của Thiền:
"Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay
Bà-la-môn nào bị trói buộc, bị tham đắm, bị mê say bởi năm dục trưởng dưỡng
này, không thấy sự nguy hại của chúng, những vị ấy cần phải được hiểu là:
"Các người đã rơi vào bất hạnh, đã rơi vào tai họa, đã bị ác ma sử dụng
theo nó muốn". Này các Tỷ-kheo, như một con nai sống trong rừng bị sập bẫy
nằm xuống, con nai ấy cần phải được hiểu là: "Nó đã rơi vào bất hạnh, đã
rơi vào tai họa, đã bị thợ săn sử dụng như nó muốn, khi người thợ săn đến, con
nai không thể bỏ đi như nó muốn". Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-
nào không bị trói buộc, không bị tham đắm, không bị say mê bởi năm dục trưởng
dưỡng này, thấy sự nguy hại của chúng, biết rõ sự xuất ly khỏi chúng và thọ
dụng chúng, những vị ấy cần phải được hiểu là: "Các người không rơi vào bất
hạnh, không rơi vào tai họa, không bị ác ma sử dụng như nó muốn".
"Này các Tỷ-kheo, như một con nai
sống trong rừng, không bị sập bẫy phải nằm xuống, con nai ấy cần phải được hiểu
là: "Nó không rơi vào bất hạnh, nó không rơi vào tai họa, nó không bị người
thợ săn sử dụng như nó muốn, khi người thợ săn đến, con nai có thể bỏ đi như nó
muốn".
"Chư Tỷ-kheo, vì như con nai sống
trong rừng đi qua đi lại trong rừng, an tâm nó đi, an tâm nó đứng, an tâm nó
ngồi, an tâm nó nằm. Tại sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì nó vượt khỏi tầm tay của
người thợ săn.
"Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, một
Tỷ-kheo ly dục, ly ác pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc
do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ kheo ấy được gọi là:
"Một vị đã làm Ác ma mù mắt, đã diệt trừ mọi vết tích, đã vượt khỏi tầm
mắt Ác ma". Này các Tỷ-kheo, lại nữa, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú
Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh
nhất tâm. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là.... đã vượt khỏi tầm mắt của
Ác ma. Này các Tỷ-kheo, lại nữa, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả chánh niệm tĩnh giác,
thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền
thứ ba. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là... đã vượt khỏi tầm mắt của Ác
ma. Này các Tỷ-kheo, lại nữa, Tỷ-kheo xả khổ, xả lạc, diệt hỷ hưu đã cảm thọ
trước, chứng và trú Thiền thứ ba, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là một vị đã làm Ác ma mù mắt, đã diệt trừ mọi
vết tích, đã vượt khỏi tầm mắt Ác ma".
Trong
kinh Tiểu Khổ Uẩn, Đức Phật nói lên kinh nghiệm của mình khi chưa thành Phật,
đối với năm dục trưởng dưỡng, nếu không có Thiền định thời không thể đoạn trừ
chúng. Đoạn kinh viết như sau:
"Này Mahànàma, thuở xưa khi Ta còn
là Bồ-tát, chưa chứng được Bồ-đề, chưa thành Chánh đẳng Chánh giác, ta khéo
thấy với như thật chánh kiến: "Các dục vị ít, khổ nhiều, não nhiều. Sự
nguy hại ở đây lại nhiều hơn". Dầu ta khéo thấy với như thật chánh kiến
như vậy, nhưng Ta chưa chứng được hỷ lạc do ly dục, ly bất thiện pháp sanh hay
một pháp nào khác cao thượng hơn. Và như vậy, Ta biết rằng Ta chưa khỏi bị các
dục chi phối. Và này, Mahànàma, khi nào Ta khéo thấy với như thật chánh kiến,
các dục vui ít khổ nhiều, não nhiều. Sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn và Ta
chứng được hỷ lạc do ly dục ly bất thiện pháp sanh hay một pháp nào cao thượng
hơn, như vậy ta khỏi bị các dục chi phối".
Trong
Kinh Bẫy Mồi (Kinh Trung Bộ), đức Phật dùng ví dụ bốn đàn nai để nói lên
công dụng của Thiền đối trị được các dục trưởng dưỡng, làm cho Ác ma mù mắt
không biết đường đi lối về. Đoàn nai đầu, thấy các bẫy mồi do các thợ săn gieo
và đặt liền xâm nhập, ăn các bẫy mồi ấy, trở thành tham đắm và rơi vào trong
tay các người thợ săn. Đoàn nai thứ hai, thấy kinh nghiệm của đoàn nai đầu,
liền sợ hãi bỏ chạy vào rừng, không dám đến gần các bẫy mồi. Nhưng mùa hạ đến
thiếu nước, thiếu đồ ăn, đoàn nai thứ hai phải trở ra, xâm nhập và ăn các đồ
bẫy mồi của thợ săn và cuối cùng bị lâm nạn như đoàn nai đầu. Đoàn nai thứ ba
tinh khôn hơn, thấy hai đoàn nai đầu bị nạn, liền tìm một chỗ ẩn núp gần các
bẫy mồi của các người thợ săn, ăn các bẫy mồi nhưng không xâm nhập, không tham
đắm nên không rơi vào tay của các người thợ săn. Nhưng các thợ săn lại tinh
khôn hơn. Chúng dò la tông tích của đoàn nai ấy, và tìm được chỗ ẩn nấp của
đoàn nai thứ ba, và đoàn nai này cuối cùng cũng rơi vào trong tay của các người
thợ săn. Đoàn nai thứ tư rất tinh khôn, rút được kinh nghiệm của ba đoàn nai
trước tìm một chỗ ẩn nấp không để lại một dấu vết gì khiến các người thợ săn có
thể biết chỗ ẩn nấp của mình, và từ nơi chỗ ấy đi đến các bẫy mồi nhưng không
xâm nhập, không có say đắm, nên cuối cùng thoát được cạm bẫy của người thợ săn.
Các
người thợ săn tượng trưng cho Ác ma. Các bẫy mồi chỉ cho năm dục trưởng dưỡng.
Các đoàn nai chỉ cho các Sa-môn, Bà-la-môn tu hành. Đoàn nai thứ nhất chỉ cho
các Sa-môn, Bà-la-môn xâm nhập, đắm say năm dục trưởng dưỡng nên trở thành nạn
nhân của Ác ma. Đoàn nai thứ hai diễn tả những Sa-môn, Bà-la-môn học được kinh
nghiệm của đoàn nai thứ nhất, hoàn toàn từ bỏ các đồ mồi và các vật dụng thế
gian, sống kham nhẫn trong rừng sâu. Nhưng đến mùa hạ, cỏ nước kham hiếm, thân
hình các Sa-môn, Bà-la-môn trở thành gầy yếu, sức lực kiệt quệ. Do vậy chúng
trở lui lại các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian. Chúng xâm
nhập, tham đắm các món ăn. Cho nên chúng trở thành nạn nhân của Ác ma như đoàn
nai thứ nhất. Đoàn nai thứ ba học được kinh nghiệm của hai đoàn nai đầu, không
xâm nhập, không tham đắm, không có chạy trốn vào rừng. Trái lại chúng làm một
chỗ ẩn nấp gần các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian, không xâm
nhập, không tham đắm, chúng ăn các đồ ăn do Ác ma gieo ra và các vận dụng thế
gian. Nhờ vậy chúng không trở thành nạn nhân của Ác ma. Nhưng rồi chúng khởi
lên các tà kiến: "Thế giới là thường còn hay không thường còn, thế giới là
hữu biên hay vô biên" v.v... Do vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn này không
thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Đoàn nai thứ tư tượng trưng cho hạng Sa-môn,
Bà-la-môn rút được kinh nghiệm của ba hạng Sa môn trước, không xâm nhập, không
tham đắm thọ dụng năm dục trưởng dưỡng, cho nên Ác ma không thể tìm được dấu
vết.... Chúng làm một chỗ ẩn nấp khiến cho Ác ma và Ác ma quyến thuộc không thể
đến được. Làm chỗ ẩn nấp xong, chúng không thể xâm nhập không tham đắm ăn các
đồ ăn do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian. Nhờ vậy chúng không trở thành
mê loạn và cuối cùng chúng không trở thành những vật bị làm theo ý Ác ma muốn.
Và
đức Phật dạy: "Này các Tỷ-kheo, sao gọi là Ác ma và Ác ma quyến thuộc
không thể đến được? Ở đây này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp,
chứng và trú Thiền thứ nhất.... chứng và trú Thiền thứ hai.... chứng và trú
Thiền thứ ba... chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm, thanh
tịnh. Như vậy gọi là Tỷ-kheo làm Ác ma mù mắt, đoạn tuyệt mắt của Ác ma, không
còn dấu tích khiến Ác ma không thấy đường đi lối về".
Một
sức mạnh của Thiền là đem lại sự không sự hãi cho người hành Thiền. Trong kinh
Chư Thiên (Tăng Chi Bộ), có đề cập đến chư Thiên đánh nhau với A-tu-la.
Trong trận chiến này chư Thiên bại trận và bỏ chạy, các A-tu-la đuổi theo. Chư
Thiên dừng lại đánh trận thứ hai, cũng bại trận và chạy dài, và các A-tu-la
đuổi theo. Chư Thiên dừng lại đánh trận thứ ba, cũng bị bại trận và cũng chạy
dài. Lần này chư Thiên lại vào ẩn náu trong thành phố chư Thiên, và chư Thiên
biết rằng vào núp trong thành này, các A-tu-la không có thể đến đánh. "Chư
thiên suy nghĩ như sau: "Nay chúng ta đã đi đến chỗ ẩn náu của những người
sợ hãi. Hiện nay, chúng ta sống với chúng ta, không có gì phải làm với các
A-tu-la". Này các Tỷ-kheo, các A-tu-la cũng suy nghĩ như sau: "Nay
chư Thiên đã đi đến chỗ ẩn náu của những người sợ hãi. Hiện nay chúng sống với
chúng nó, không có gì phải làm với chúng ta".
"Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, trong
khi Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Sơ Thiền, một trạng
thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.... chứng đạt và an trú Thiền thứ
hai.... chứng đạt và an trú Thiền thứ ba.... chứng đạt và an trú Thiền thứ
tư... trong khi ấy này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy suy nghĩ như sau: "Với sự
đi đến chỗ ẩn náu của sợ hãi, ta sống với tự ngã, không có việc gì phải làm với
Ác ma". Này các Tỷ-kheo chính Ác ma cũng suy nghĩ như sau: "Với sự đi
đến chỗ ẩn náu của sợ hãi, Tỷ-kheo sống với tự ngã, không có việc gì phải làm
với ta..." Này các Tỷ-kheo như vậy gọi là Tỷ-kheo làm Ác ma mù mắt, đoạn
tuyệt mắt của Ác ma, không còn dấu tích, khiến Ác ma không thấy đường đi lối
về".
Trong
kinh Upàli (Tăng Chi Bộ), đức Phật nói đến sức mạnh của hành Thiền, và
khuyên chỉ có những Tỷ-kheo hành Thiền mới nên ở tại các rừng núi xa vắng. Tôn
giả Upàli, muốn tu hành tại các trú xứ xa vắng, đức Phật dạy: "Thật
không dễ dàng sống tại các rừng núi cao nguyên, các trú xứ xa vắng. Khó khăn là
đời sống viễn ly, khó ưa thích là đời sống độc cư. Ta nghĩ rằng các ngôi rừng
làm loạn ý Tỷ kheo chưa được Thiền định. Này Upàli, ai nói như sau: "Dầu
tôi chưa được Thiền định, tôi sẽ sống tại các rừng núi cao nguyên, tại các trú
xứ xa vắng, thời người ấy được chờ đợi như sau: "Vị ấy sẽ chìm vắng, thời
người ấy được chờ đợi như sau: "Vị ấy sẽ chìm xuống đáy hay nổi lên trên
mặt nước".
Rồi
đức Phật dùng ví dụ một con voi lớn có thể lặn xuống hồ nước lớn, tắm rửa và
chơi các trò chơi của con voi, xong rồi leo lên bờ một cách an toàn. Vì tự ngã
to lớn của con voi, tìm được chân đứng trong hồ nước. Trái lại một con mèo hay
một con thỏ, thấy con voi làm vậy cũng bắt chước làm theo, nghĩ rằng con voi
làm được thời mình cũng làm được. Không suy nghĩ tính toán, nó nhảy xuống hồ
nước. Với con mèo hay con thỏ ấy, được chờ đợi là nó chìm xuống đáy nước hay
nổi lên trên mặt nước, vì tự ngã nhỏ bé của nó không tìm được chân đứng trong
hồ nước.
Cũng vậy này Upàli, ai nói rằng:
"Dầu tôi không được Định, tôi sẽ sống trong các rừng núi cao nguyên tại
các trú xứ xa vắng". Với vị ấy, được chờ đợi rằng "Nó sẽ chìm xuống
hay nổi trên mặt nước". Như vậy Thiền đem lại cho chúng ta một sự không sợ
hãi, làm lắng dịu mọi hoảng hốt run sợ, khiến người hành Thiền có thể sống
trong rừng sâu hoang vắng, không chút sợ hãi.
Ở
đây, chúng ta nhờ gương sáng của mười Tỷ-kheo-ni trong Tương Ưng Bộ Kinh, từ
Tỷ-kheo-ni Alavikà đến Tỷ-kheo-ni Vajirà, cả mười Tỷ-kheo-ni này đối diện với
Ác ma mà không một Tỷ-kheo-ni nào hoảng hốt bỏ chạy, vì tất cả mười vị
Tỷ-kheo-ni này đều tu Thiền định.
Một
khả năng nữa của Thiền là đem lại sự hỷ lạc cho người hành Thiền, từ Sơ Thiền
với các hỷ lạc do ly dục sanh, đến nhị Thiền do định sanh, đến Thiền thứ ba
không có hỷ chỉ có xả niệm lạc trú, đến Thiền thứ tư với xả niệm thanh tịnh,
mỗi hỷ lạc tuần tự vi diệu hơn hỷ lạc trước, và các hỷ lạc này không chi phối
tâm của người hành Thiền, trái lại là cho người hành Thiền hiện tại lạc trú,
đúng như danh từ Ditthadhammasukhavihàri được định nghĩa cho Thiền. Như vậy,
Thiền còn đem lại hỷ lạc cho người hành Thiền, và hỷ lạc có tác động như món ăn
được gọi là xúc thực, đem lại sự lạc quan, nỗ lực, tinh tấn, phấn chấn, nghị
lực cho người hành Thiền, chứ không phải đem lại bệnh hoạn, điên cuồng, loạn
tâm, chán đời, tiêu cực như người ta đã gán một cách sai lạc cho hành Thiền.
Một
trong những công năng tuyệt diệu của Thiền là đưa đến trí tuệ, từ trí tuệ đưa
đến giải thoát, giải thoát tri kiến theo đúng quá trình Giới, Định, Tuệ, Giải
thoát, Giải thoát tri kiến.
Quá
trình thứ nhất là từ Thiền thứ tư, với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng,
không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc bình tĩnh
như vậy, hành giả hướng tâm đến Túc mạng minh, đến Thiên nhãn minh, đến Lậu tận
minh. "Vị ấy biết như thật "Đây là khổ", biết như thật "Đây
là khổ tập", biết như thật "Đây là khổ diệt", biết như thật
"Đây là con đường đưa đến khổ diệt", biết như thật "Đây là các
lậu hoặc", biết như thật "Đây là nguyên nhân các lậu hoặc", biết
như thật "Đây là lậu hoặc diệt", biết như thật "Đây là con đường
đưa đến lậu hoặc diệt". Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của
vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với
tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết "Ta đã giải
thoát" vị ấy biết "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc
cần làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa". (Kinh
Trung Bộ).
Một
quá trình giải thoát được đề cập đến trong Bát thành Kinh (Kinh Trung Bộ),
trong quá trình này Định và Tuệ, Chỉ và Quán đồng tu với nhau, từ Thiền thứ
nhất hướng đến quán, từ Thiền thứ hai hướng đến quán, từ Thiền thứ ba hướng đến
quán, từ Thiền thứ tư hướng đến quán... đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc:
"Ở đây này gia chủ, vị Tỷ-kheo ly
dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do
ly dục sanh, có tầm có tứ. Vị ấy suy tư và được biết: "Sơ Thiền này là
pháp hữu vi, do suy tư tác thành thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn
diệt. Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc
chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ
được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi
phải trở lui đời này. Như vậy, này gia chủ, là pháp độc nhất do Thế Tôn, bậc
Trí giả, bậc Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố. Nếu Tỷ-kheo
không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần, sống hành trì pháp ấy, thì tâm vị ấy chưa
giải thoát được giải thoát và các lậu hoặc chưa được đoạn trừ đi đến đoạn trừ,
và pháp vô thượng an tổn khỏi các ách phược chưa chứng đạt được chứng
đạt". Cũng như vậy, đối với Thiền thứ hai, đối với Thiền thứ ba, đối với
Thiền thứ tư".
Nhìn
một cách tổng quát về Thiền, chúng ta thấy rõ vị trí quan trọng của Thiền trong
quá trình Giới, Định, Tuệ và như vậy giúp chúng ta đoạn trừ các dục, khiến cho
ác ma không thấy đường; Thiền giúp chúng ta đoạn trừ các sợ hãi; Thiền đem đến
cho chúng ta hỷ và lạc, thoải mái về tâm, thoải mái về thân, Thiền đem đến sức
khoẻ cho thân và cho tâm, và cuối cùng Thiền định đưa đến trí tuệ, tâm giải
thoát và tuệ giải thoát.
Qua
những định nghĩa trên, chúng ta thấy Thiền định là một pháp môn có những định
nghĩa, những hành tướng đặc biệt và đa dạng. Trước hết, Thiền định là một sự
hòa hợp giữa nhân lực và sức mạnh thiên nhiên, một sự hòa hợp nhờ vị trí ngồi
Thiền, thời gian ngồi Thiền, khung cảnh ngồi Thiền. Thiền định lại còn một khả
năng quyết trạch về thiện, hướng thiện, và cứu cánh là thiện. Hơn nữa Thiền có
thể được xem là một sự giáo dục về cảm thọ, nuôi dưỡng các cảm thọ tốt đẹp như
hỷ, lạc, xả và từ bỏ các cảm thọ không tốt đẹp, như khổ, ưu. Thiền định là một
sự giáo dục tâm lý, đoạn tận các tâm lý không tốt đẹp như năm triền cái, tham
sân si, và thay thế bởi những tâm lý tốt đẹp là năm Thiền chi là không tham,
không sân, không si. Nói tóm lại, Thiền định là một giai đoạn tiếp theo giới và
bước vào tuệ tức là Thiền quán.
Ở
đây, chúng tôi xin giới thiệu một pháp môn tu Thiền mà chúng tôi tìm ra được
trong khi chúng tôi dịch bộ Samyutta Nikaya (Kinh Bộ Tương Ưng). Chúng
tôi xin tóm tắt trình bày để giới thiệu với quý vị, nhất là quý vị có thể áp
dụng thực hành, để có thể đánh giá đứng đắn Pháp môn này và hưởng được những
kết quả do Pháp môn này đưa đến. Đó là pháp môn Anàpànasati, dịch là niệm hơi
thở vô hơi thở ra, và được diễn tả như sau trong kinh "Một pháp" (Tương
Ưng, V):
"Có một pháp, này các Tỷ kheo,
được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn. Thế nào là một
pháp? Niệm hơi thở vô, hơi thở ra. Và này các Tỷ kheo, niệm hơi thở vô hơi thở
ra, tu tập thế nào, làm cho sung mãn thế nào, có quả lớn, có lợi ích
lớn?".
"Ở đây, này các Tỷ kheo, Tỷ kheo
đi đến rừng hay đi đến gốc cây, hay đi đến chỗ nhà trống, và ngồi kiết già,
lưng thẳng. Đặt niệm trước mặt, vị ấy chánh niệm thở vô, chánh niệm thở
ra".
"Thở vô dài, vị ấy rõ biết
"Tôi thở vô dài". Thở ra dài, vị ấy rõ biết: "Tôi thở ra dài".
Thở vô ngắn, vị ấy rõ biết: "Tôi thở vô ngắn". Thở ra ngắn, vị ấy
biết biết: "Tôi thở ra ngắn".
"Cảm giác toàn thân tôi sẽ trở
vô", vị ấy tập. "Cảm giác toàn thân tôi thở ra", vị ấy tập.
"An tịnh thân hành tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh thân hành
tôi sẽ thở ra", vị ấy tập".
"Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở
vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô ra", vị ấy tập. "Cảm giác lạc
thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập".
"Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở
vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành,
tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô", vị
ấy tập, "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập".
"Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở
vô", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm định
tĩnh, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở
vô", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra", vị ấy
tập".
"Quán vô thường, tôi sẽ thở
vô", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ
thở ra", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ
thở vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ tôi sẽ thở ra", vị ấy tập".
"Tu tập như vậy, nầy các Tỷ-kheo,
làm cho sung mãn, như vậy, niệm hơi thở vô, hơi thở ra có quả lớn, có lợi ích
lớn".
Pháp
môn này được đức Phật xác chứng là đưa đến hai quả là Chánh trí và Bất lai:
"Niệm hơi thở vô và hơi thở ra,
được tu tập như vậy, này các Tỷ-kheo, được làm cho sung mãn như vậy, được chờ
đợi một trong hai quả sau: "Ngay trong đời hiện tại được Chánh trí. Nếu có
dư y, chứng quả Bất lai". (Tương Ưng Bộ).
Pháp
môn này giúp người hành Thiền thoát khỏi thân rung động và tâm rung động:
"Nhờ tu tập như vậy, định niệm hơi
thở vô hơi thở ra, này các Tỷ-kheo nhờ làm cho sung mãn như vậy, nên thân không
bị rung động hay giao động, tâm không rung động, không giao động" (Kinh
Kappina, Tương Ưng V).
Khi
chưa giác ngộ, đức Phật tu tập Pháp môn này thân và mắt của đức Phật không bị
mệt nhọc và tâm được giải thoát khỏi các lậu hoặc:
"Này các Tỷ-kheo, Ta trước khi
giác ngộ, chưa chứng Chánh đẳng giác, khi còn là Bồ-tát, Ta trú nhiều với an
trú này (Niệm hơi thở vô hơi thở ra); Do Ta trú nhiều với an trú nầy, thân Ta
và con mắt không có mệt nhọc, và tâm Ta được giải thoát các lậu hoặc, không có
chấp thủ. Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ước muốn rằng: "Mong rằng
thân và mắt khỏi bị mệt mỏi và mong rằng tâm tôi được giải thoát khỏi các lậu
hoặc không có chấp thủ, thời định niệm hơi thở vô hơi thở ra này cần phải khéo
tác ý". (Kinh Ngọn đèn, Tương Ưng V).
Có
nhiều Tỷ-kheo trong khi quán bất tịnh đối với thân thể, muốn từ bỏ với thân
nầy, nhàm chán, yếm ly đối với thân nầy, nên một số Tỷ-kheo đã đem lại con dao
để kết liễu đời sống của mình. Đức Phật nghe được liền tụ họp các Tỷ-kheo lại,
khiển trách và dạy tu Pháp môn niệm hơi thở vô hơi thở ra nầy.
"Này các Tỷ-kheo, định niệm hơi
thở vô hơi thở ra này, được tu tập, được làm cho sung mãn là tịch tịnh, thù
diệu, thuần nhất (Arecanako), lạc trú, làm cho các ác bất thiện pháp đã sanh
hay chưa sanh, làm chúng biến mất, tịnh chỉ lập tức. Ví như, này các Tỷ-kheo,
trong cuối tháng mùa hạ, bụi và nhớp bay lên, là đám mưa lớn trái mùa lập tức
làm chúng biến mất, chỉ tịnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, định niệm hơi thở vô
hơi thở ra, được tu tập, được làm cho sung mãn, là tịch tịnh thù diệu, thuần
nhất, lạc trú, làm cho sung mãn, là tịch tịnh thù diệu, thuần nhất, lạc trú,
làm cho các ác, bất thiện pháp đã sanh biến mất, tịnh chỉ lập tức" (Kinh
Vesali, Tương Ưng V).
Khi
tu tập 16 đề tài, trên các cảm thọ, trên tâm và trên các pháp, đức Phật chỉ dạy
cho chúng ta tập trung tâm tư như thế nào để đạt được kết quả trong khi hành
Thiền.
Ngài
dạy như sau (Kinh Kimbila, Tương Ưng V):
"Này Ananda, sống quán thân trên
thân, vị Tỷ-kheo, trong khi ấy trú nhiệt tâm, tĩnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời. Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng tùy thuộc về thân,
tức là hơi thở vô hơi thở ra. Do vậy này Ananda, quán thân trên thân, trong khi
trú nhiệt tâm, tĩnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.... Này Ananda,
Ta tuyên bố rằng tùy thuộc tụ tập định niệm hơi thở vô hơi thở ra, không phải
cho người thất niệm và không tĩnh giác, do vậy này Ananda, quán tâm trên tâm,
Tỷ-kheo trong khi ấy trú nhiệt tâm, tĩnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở
đời... Này Ananda, quán pháp trên các pháp, Tỷ-kheo trong khi ấy trú nhiệt tâm,
tĩnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Đoạn tận tham ưu, sau khi thấy
với trí tuệ, vị ấy khéo léo trú xả. Do vậy, này Ananada quán pháp trên các
pháp, Tỷ-kheo trong khi ấy trú nhiệt tâm, tĩnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời".
"Ví như, này Ananda, một đống rác
bụi lớn ở ngã tư đường, nếu từ phương Đông một cái xe đi đến và làm cho đống
rác bụi ấy giảm đi, nếu từ phương Tây... nếu từ phương Bắc... nếu từ phương
Nam, một cái xe đi đến và làm cho đống rác bụi ấy giảm bớt đi, cũng vậy này
Ananda, Tỷ-kheo trong khi trú quán thân trên thân, làm cho giảm bớt đi các ác
bất thiện pháp, khi trú quán thọ trên các cảm thọ... Khi trú quán pháp trên các
pháp, làm cho giảm bớt đi các ác bất thiện pháp".
Với
những đoạn trích dẫn lời dạy của đức Phật về Pháp môn niệm hơi thở ra, chúng ta
tìm hiểu và phân tích, và chúng ta có những nhận xét sau đây về pháp môn
Anàpànasati này:
1.
Pháp môn này thuộc về pháp môn bốn niệm xứ (cattàrosatipatthàna) tức là pháp
môn đề cập đến bốn chỗ (xứ) để an trú niệm tức là thân, thọ, tâm và pháp. Pháp
môn Anàpànasati này đề cập đến 16 đề tài để an trú tâm: bốn đề tài về thân, bố
đề tài về cảm thọ, bốn đề tài về tâm, bốn đề tài về pháp. Người hành Thiền, vừa
thở vô vừa thở ra, vừa suy tư quán tưởng trên 16 đề tài liên hệ đến hơi thở.
2.
Pháp môn này gồm cả thiền định và trí tuệ, gồm cả chỉ (samatha) và quán
(vipassanà). Cả hai Chỉ Quán, Định Tuệ đều song tu trong pháp môn này. Khi dùng
tầm tứ cột tâm trên hơi thở vô hơi thở ra, như vậy là Chỉ, như vậy là Định. Khi
lấy trí tuệ quán sát 16 đề tài được lựa chọn, như vậy là Quán, như vậy là Tuệ.
3.
Vì Pháp môn niệm hơi thở vô hơi thở ra là Chỉ Quán song tu, Định Tuệ song tu,
nên hai động tác chủ yếu của Pháp môn này cần được ghi nhận. Trước hết lấy tầm
và tứ hướng tâm và cột tâm vào hơi thở vô hơi thở ra trong suốt thời ngồi
Thiền, không rời ra một giây phút nào. Nhờ vậy, đối trị được hôn trầm thụy
miên, trạo hối và nghi ngờ. Trong suốt thời ngồi Thiền, tâm chúng ta không rời
khỏi hơi thở vô hơi thở ra. Chỉ khi nào đạt đến Thiền thứ tư, chúng ta mới cần
phải rời khỏi hơi thở vô hơi thở ra. Tiếp đến, chúng ta lấy trí tuệ quán sát 16
đề tài được chọn lựa, từ đề tài thứ nhất đến đề tài thứ 16, liên tục quán sát
như vậy, và trong khi quán sát, chúng ta có sự cố gắng tu tập để thực hiện cho
được đề tài mình đang quán sát, như vậy pháp môn này đặt nặng sự luyện tập tâm
con người tùy theo đề tài lựa chọn.
Ví
như muốn cho tâm của mình được cảm giác hỷ và lạc, thời cần phải tập: "cảm
giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở
ra" vị ấy tập, "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô" vị ấy tập.
"Cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở ra" vị ấy tập. Muốn cho tâm được an
tịnh, thời phải tập "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở vô" vị ấy tập.
"An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra" vị ấy tập. Muốn cho tâm được định
tĩnh, thời phải tập: "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Tùy theo mình muốn tu
tập tâm gì, quán theo pháp gì, thời mình hoàn toàn chú tâm vào vấn đề ấy để tu
tập, đây có thể xem như là một phương pháp tự kỷ ám thị, nhưng có được định lực
hộ trì, nên khác với các phương pháp tự kỷ ám thị thông thường. Chúng ta nên
xem như là một Pháp môn huấn luyện tâm lý, đặc biệt chọn lựa những tâm lý cảm
thấy cần phải huấn luyện để phát triển và luyện cho được tâm lý ấy.
4.
Như lời đức Phật dạy, Pháp môn này đưa đến quả chứng được Chánh trí ngay trong
hiện tại, nếu còn có dư y, chứng được quả Bất Lai. Như vậy Pháp môn này đưa đến
cứu cánh giác ngộ và giải thoát.
5.
Pháp môn này giúp chúng ta chế ngự được thân rung động và tâm rung động, giúp
cho thân của chúng ta, con mắt của chúng ta không có mệt mỏi. Pháp môn này lại
là một pháp môn tịch tịnh, thù diệu, thuần nhất, không gây một tác hại gì cho
thân tâm. Trái lại giúp người hành Thiền hiện tại lạc trú. Pháp môn này lại có
khả năng đoạn tận tham ưu, làm vơi nhẹ các pháp bất thiện.
Do
vậy, hành trì pháp môn Anàpànasati này, không đem lại một tác hại gì đến thân
tâm, không có bùa chú, không có bắt ấn, không có phù phép, hoàn toàn là một nếp
sống lành mạnh, trong sáng, một pp giáo dục hướng thượng chỉ đem lại lợi ích
cho người hành giả nhờ không khí trong lành khi hành Thiền, nhờ thở vô thở ra
điều hòa, nhờ nuôi dưỡng các cảm thọ hỷ lạc, nhờ tâm được gột sạch các triền
cái nên con mắt được sáng suốt, thân thể được khoẻ mạnh, phổi thở vô thở ra
được điều hòa, tim đập được điều hòa, mạch nhảy được điều hòa, giúp người hành
giả tiến dần đến giác ngộ và giải thoát.
Chúng
tôi đã trình bày những kinh nghiệm bản thân về Thiền của đức Phật trước khi
thành Đạo, trong khi thành Đạo, trong suốt 45 năm thuyết pháp, và trong khi
Ngài nhập Niết-bàn. Chúng tôi cũng đã trình bày những lời dạy căn bản của đức
Phật về vấn đề hành Thiền. Chúng tôi cũng đã giới thiệu pháp môn niệm hơi thở
vô hơi thở ra để quý vị Phật tử và học giả có thể nghiên cứu và thực hành.
Nếu
chúng ta áp dụng Pháp môn niệm hơi thở vô hơi thở ra ngay trong đời sống hiện
tại, áp dụng một cách giản dị và kiên trì, có thể 15 phút, nửa giờ hay 1 giờ
hàng ngày, trong các buổi sớm hay buổi tối, thời dần dần chúng ta sẽ thâu nhận
được kết quả thiết thực của pháp môn này. Đối với những vị chú trọng về dưỡng
sinh, niệm hơi thở vô hơi thở ra đem lại cho quý vị sức khoẻ thân tâm cần thiết
và tiến gần đến "Vô bệnh, lợi tối thượng" (Arogyà paramàlabhà).
Đối
với những vị muốn hòa hợp sức mạnh nội tâm với sức mạnh thiên nhiên, ngồi Thiền
giữa trời, trong cảnh thanh vắng tịch mịch của ban đêm hay trong rừng sâu cô
tịch, sẽ đưa lại cho chúng ta nhiều cảm giác kỳ diệu. Đối với những ai muốn
giáo dục cảm thọ, nuôi dưỡng các cảm thọ lành mạnh, đối trị với khổ ưu, nuôi
dưỡng hỷ lạc, niệm hơi thở vô hơi thở ra có thể giúp họ hiện tại lạc trú và
nhìn đời với cặp mắt lạc quan. Đối với những vị muốn đi sâu vào vấn đề tâm lý,
giáo dục, nuôi dưỡng cho mình các sức mạnh Niệm, Định, Tuệ; Pháp môn Thiền về
hơi thở này giúp họ đạt được cứu cánh của Phạm hạnh chứng được tâm giải thoát,
tuệ giải thoát.
Chúng
ta hãy cố gắng làm sống dậy ý nghĩa lành mạnh của hành Thiền nguyên thủy, áp
dụng pháp môn niệm hơi thở vô hơi thở ra trong đời sống hằng ngày của chúng ta
và như vậy chúng ta vừa báo đáp ân đức thuyết pháp độ sanh của đức Phật và tự
mình được san xẻ những kinh nghiệm về Thiền của đức Phật. Có vậy chúng ta mới
đánh giá đúng đắn phương pháp hành Thiền của đức Phật và được hưởng thọ những
ảnh hưởng tốt đẹp của Pháp môn hành Thiền
Hòa thượng
Thích Minh Châu
Trích: "Hành Thiền", Tỉnh hội Phật giáo Thừa Thiên, 1993